Quảng cáo và Truyền thông xã hội

Vì vậy, đã đến lúc các nhà quảng cáo phải nghiên cứu cộng đồng mạng tại

Việt Nam, lắng nghe khách hàng nói gì, quan tâm gì…, để từ đó, xây dựng

những chương trình tiếp thị khả thi tới khách hàng.

Hiện nay để quảng cáo sản phẩm ra ngoài thị trường, đến với khách hàng,

các công ty sử dụng rất nhiều những phương tiện truyền thông khác nhau.

Phương tiện nào cũng có những ưu nhược điểm của riêng nó… (Hình minh

họa)

Thời của “Quảng cáo thông minh”

Các chuyên gia của Google đã dự báo về thị trường quảng cáo trong vòng 5

năm tới, theo đó “quảng cáo thông minh và gợi cảm” sẽ lên ngôi, quảng cáo

bằng video clip tăng phi mã và thị trường quảng cáo sẽ đạt doanh thu 50 tỷ

USD mỗi năm.

Hãng Google đã phác họa thị trường quảng cáo hình ảnh và trực tuyến năm

2015. Lúc đó một nửa trong tổng số các công ty quảng cáo sẽ tập trung làm

các video clip dạng “mỗi lần nhấp chuột xem đều phải trả tiền”. Quảng cáo

bằng hoạt hình cũng sẽ tăng mạnh, từ chiếm gần 6% thị trường như hiện nay

lên 50% vào năm 2015.

Các chuyên gia quảng cáo cho biết để làm được quảng cáo thông minh thì

trước hết phải khoanh vùng đối tượng mà quảng cáo hướng tới. Đã xác định

được đối tượng rồi thì phải cố tìm hiểu là có thể gặp họ ở đâu, họ xem, nghe,

đọc, ăn uống cái gì, thích đi những đâu. Mà để biết được điều này thì phải

nghiên cứu tiếp thị và không chỉ tiến hành một lần. Cuộc sống thay đổi

nhanh chóng nên đối tượng quảng cáo cũng thay đổi.

Cần đánh giá không chỉ sự tiến triển của công nghệ quảng cáo mà cả các xu

thế chung biến đổi xã hội. Nhà truyền thông (PR) giỏi phải là nhà tâm lý

giỏi. Nhà quản lý PR sẽ quyết định việc ý tưởng có được người tiêu dùng

thích hay không, nội dung quảng cáo gây phản ứng thế nào đối với dân

chúng… Quảng cáo phải nhắm trúng đích chứ không phải “dùng đại bác bắn

chim sẻ”.

Nhu cầu truyền thông của doanh nghiệp

Phương thức truyền thông của doanh nghiệp hiện nay thường có hai dạng

chính: bài viết quảng cáo (advertorial) và bài viết PR (editorial). Theo đó,

advertorial là quảng cáo được viết dưới dạng một bài báo, tuy nhiên có chú

dẫn thông báo là bài viết quảng cáo và thường không có tên tác giả.

Advertorial cũng thường được trình bày như một phần riêng biệt trong ấn

phẩm, và có nội dung do doanh nghiệp (hoặc công ty PR) thực hiện và phê

duyệt. Trong khi đó, editoral là bài viết mang tính độc lập của nhà báo, cung

cấp các nội dung có mục đích, thông tin xác thực và có xu hướng đáng tin

cậy đối với người đọc, nhằm biến thông tin PR trở thành thông tin có giá trị

thực sự.

Mặc dù advertorial khá hữu dụng trong trường hợp doanh nghiệp muốn đặt

nặng thông tin về đặc điểm của sản phẩm, khi cần hướng dẫn chi tiết về tính

chất hay cách sử dụng sản phẩm, hoặc khi đơn giản là không có một “câu

chuyện hay” nào để kể, song dạng bài viết này thường quá chú tâm đến “tô

son điểm phấn” cho thương hiệu, tự làm lộ rõ tính chất quảng cáo, đồng thời

nội dung thường “nông”, hời hợt, thiếu tính hấp dẫn của báo chí, không phù

hợp với tiêu chí, đặc điểm của tờ báo. Đó là chưa kể vị trí đặt bài thường

không phù hợp, và cách trình bày nhiều khi lạc lõng, không giống phong

cách chung của tờ báo.

Những nhược điểm của advertorial lại là ưu điểm của editorial, khi bài viết

do tờ báo phát triển và thực hiện, không bị doanh nghiệp chi phối về nội

dung và hình thức, có tính khách quan, chân thực cao và do đó tạo được

niềm tin nhất định đối với độc giả. Năm bước cụ thể để tạo ra một bài viết

editorial là: tìm được một câu chuyện hấp dẫn – câu chuyện đó phù hợp với

đặc điểm riêng của tờ báo – câu chuyện đó có nội dung hữu ích cho người

đọc – tìm ra những phương thức thể hiện khác nhau – tạo ra những “góc

cạnh” khác nhau cho mỗi chủ đề.

Cả hai phương thức này chúng ta đều sẽ có lúc cần đến. Advertorial đem đến

những thông tin mà doanh nghiệp muốn truyền tải một cách trực tiếp và

nhanh nhất đến với tâm trí độc giả. Tuy nhiên, editorial lại để lại ấn tượng

sâu sắc và niềm tin chân thực đối với công chúng. Vì thế, chỉ khi nào doanh

nghiệp không thể sử dụng hình thức editorial thì hãy dùng đến advertorial.

Biết kết hợp cả hai hình thức này thì doanh nghiệp sẽ có được lợi ích lớn

nhất từ một nguồn kinh phí nhất định dành cho công tác truyền thông, mà

độc giả thì cũng sẽ có cái nhìn đa chiều hơn về thương hiệu.

Thời của mạng xã hội

Việt Nam hiện có khoảng 24 triệu người sử dụng Internet (gần 30% dân số),

lọt vào top 20 quốc gia và vùng lãnh thổ có số người dùng Internet nhiều

nhất thế giới, theo một kết quả điều tra mới công bố gần đây. Lượng người

dùng Internet tại Việt Nam cũng là cao nhất trong khu vực Đông Nam Á.

Xu hướng quảng cáo là xây dựng những trang web mang tính tương tác cao

với khách hàng. Các mạng Facebook, Youtube, Twitter… đã được nhiều nhà

sản xuất khai thác tối đa thế mạnh trong việc quảng bá hình ảnh sản phẩm,

kết nối người tiêu dùng, loan truyền và sử dụng dịch vụ.

Xu hướng này có thể được doanh nghiệp chủ động tạo ra bằng cách tìm

kiếm và xác định những nhân vật có tầm ảnh hưởng nhất định, hoặc thiết lập

những nhóm hoạt động nhằm mục đích chia sẻ thông tin và khuyến khích sử

dụng sản phẩm, dịch vụ. Tiếp theo là tạo ra những hoạt động gây tiếng vang

và ảnh hưởng trong cộng đồng nhằm tăng độ nhận biết của thương hiệu, gây

dựng lòng tin và sự trung thành với thương hiệu.

Quản lý khủng hoảng trong kỷ nguyên kết nối

Ngày nay, khủng hoảng một khi xảy ra càng khó kiểm soát vì tin tức có thể

lan truyền ngay lập tức, độc giả có trình độ cao hơn cũng đồng nghĩa sẽ đòi

hỏi nhiều thông tin hơn, cũng như các cộng đồng thông tin ngày càng đông

đảo hơn.

Việc tận dụng thế mạnh truyền thông trên nền tảng mạng xã hội là yếu tố mà

doanh nghiệp rất nên cân nhắc. Do có thể theo dõi, đo lường chính xác mức

độ ủng hộ hoặc phản đối; có thể thiết lập nhanh chóng các đơn thỉnh cầu hay

kiến nghị; cũng như giúp tạo ra con đường ngắn nhất để doanh nghiệp tiếp

cận và trực tiếp giải thích với công chúng.

Vì thế, “hành động có trách nhiệm” và “hành động tức thì” là hai điểm quan

trọng khi giải quyết vấn đề quản lý khủng hoảng tại doanh nghiệp nhằm mục

tiêu bảo vệ thương hiệu và kiểm soát thiệt hại. Đặc biệt, khi thương hiệu là

không thể thay thế và nó chính là tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp.