intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quy định của pháp luật về tự chủ tài chính và một số đề xuất, kiến nghị

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

22
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Quy định của pháp luật về tự chủ tài chính và một số đề xuất, kiến nghị phân tích thực trạng các quy định hiện hành của Nhà nước về tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập để làm rõ cơ hội, thách thức và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quy định của pháp luật về tự chủ tài chính và một số đề xuất, kiến nghị

  1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ Hoàng Đức Long Trường Đại học Tài chính - Marketing Đổi mới cơ chế tài chính theo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị giáo dục đại học công lập là xu thế tất yếu, khách quan. Thời gian qua, việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm và có những kết quả ban đầu, tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu thực tiễn, đổi mới để phát huy cơ chế này trong thời gian tới. Bài viết phân tích thực trạng các quy định hiện hành của Nhà nước về tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập để làm rõ cơ hội, thách thức và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập ở Việt Nam. 1. Các văn bản pháp luật hiện hành về tự chủ tài chính đối với cơ sở giáo dục đại học công lập Thời gian qua, cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học (GDĐH) tại Việt Nam đã có nhiều đổi mới. Điều này thể hiện tại Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) từ năm 2010-2011 đến năm học 2014-2015. Tại khoản 6, khoản 7, điều 2 của Nghị quyết xác định: “Học phí đối với đào tạo nghề nghiệp và đại học công lập thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước và người học. Những năm đầu, tổng học phí của các cơ sở đào tạo công lập chiếm không quá 40% tổng chi thường xuyên, những năm sau tăng dần phù hợp với lộ trình đổi mới chính sách học phí”, “Đối với các chương trình đại trà tại các cơ sở đào tạo nghề nghiệp và đại học công lập, học phí được xác định theo các nhóm ngành nghề đào tạo và các bậc học, gắn với chất lượng đào tạo, thực hiện lộ trình tăng dần, phù hợp với nguyên tắc chia sẻ và khả năng đóng góp thực tế của người học”. Nghị định số 49/2009/NĐ-CP quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015. Đặc biêt, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập đã thể hiện rõ mục tiêu đổi mới toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các trường đại học công lập nói riêng; đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tà i chính. Nghị định cũng đã quy định việc sử dụng nguồn tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên có nhiều điểm mới, đột phá so với trước đây. Trước đó trong một thời gian dài, các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính. Theo cơ chế tự chủ tại Nghị định số 43 của Chính phủ, các trường đại học công lập được phân loại tự chủ tài chính theo khả năng tự đảm bảo chi thường xuyên, gồm 3 loại: (i) Đơn vị tự đảm bảo 100% kinh phí chi thường xuyên; (ii) đơn vị tự đảm bảo một phần kinh phí chi thường xuyên và (iii) đơn vị được đảm bảo chi thường xuyên. 81
  2. Cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị tự chủ loại (1) và loại (2) không có quy định khác nhau về thẩm quyền (quyền tự chủ) về khoản thu và mức thu. Việc tự chủ tài chính theo Nghị định số 43 được đánh giá là chưa tạo động lực, khuyến khích tăng thu, phát triển các hoạt động đào tạo. Tiếp theo đó, là việc thực hiện thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ (về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017). Các trường đại học công lập thực hiện thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77 có quyền tự chủ cao hơn về tài chính ở một số điểm như: (i) Quyền tự chủ cao hơn về quyết định mức học phí; (ii) Tự chủ cao hơn trong trong giao dịch với ngân hàng thương mại (Khoản thu học phí và các khoản thu sự nghiệp khác được gửi ngân hàng thương mại); (iii) Tự chủ về đầu tư, mua sắm (Quyết định các dự án đầu tư sử dụng nguồn thu hợp pháp của nhà trường và các nguồn hợp pháp khác do nhà trường tự huy động). Điều đặc biệt ở đây là, ngoài Nghị quyết định 77 của Chính phủ, trên cơ sở đề án thí điểm tự chủ và được sự đề nghị của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, Ngành Trung ương, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Đề án thí đổi mới cơ chế hoạt động của từng cơ sở giáo dục đại học công lập. Trong Quyết định đối với từng trường đều quy định nội dung tự về tài chính, gồm các điểm: (a) học phí, (b) thu sự nghiệp, dịch vụ; (c) tiền lương và thu nhập; (d) sử dụng nguồn thu. Giai đoạn đầu thực hiện Nghị quyết này, có 5 trường đầu tiên được giao thí điểm tự chủ gồm: Trường Đại học Ngoại thương, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Hà Nội, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường Đại học Tài chính - Marketing. Tại thời điểm kết thúc giai đoạn thí điểm tự chủ theo Nghị quyết 77 đã có 23 trường đại học được phê duyệt đề án. Vào quý IV năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức hội nghị sơ kết thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị định số 77 của Chính phủ. Báo cáo đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhận định: “Sau gần 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 77/NQ-CP, nhìn chung, các trường tự chủ đã được giao quyền mạnh mẽ hơn trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, tổ chức bộ máy và nhân sự, tài chính giúp giảm bớt các thủ tục hành chính nên đã chủ động, linh hoạt hơn trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường, từng bước chủ động đổi mới cơ chế để hoạt động ngày càng hiệu quả. Mô hình thí điểm tự chủ bước đầu được đánh giá là có những chuyển biến tích cực, các trường đã có những thành tựu nhất định và được xã hội ghi nhận”. Tuy nhiên,“Bên cạnh những điểm sáng và tác động tích cực, việc thực hiện thí điểm tự chủ chưa có tác động như mong muốn vì còn một số hạn chế, khó khăn. Những hạn chế, bất cập một phần do các yếu tố bên ngoài như cơ chế, chính sách, một phần do thời gian thực hiện thí điểm tự chủ của Trường còn ngắn nên chưa phát huy hết các các quyền tự chủ của mình. Một phần quan trọng xuất phát từ chính các yếu tố nội tại như năng lực của nhà trường, tư duy quản trị đại học của lãnh đạo, trình độ của cán bộ, giảng viên, tâm lý cầu an, thụ động của các trường cũng như trách nhiệm giải trình thấp”1). 1 Nguồn: Báo cáo kết quả đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại hội nghị sơ kết tháng 9/2017, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 82
  3. Thực tế, theo đánh giá của các trường được giao thí điểm tự chủ và của các chuyên gia, thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77 chưa thực sự tác động cải thiện chất lượng các nguồn thu theo hướng phát triển đa dạng, bền vững cho trường đại học. Song, đây là bước tiến đáng kể trong tự chủ đại học tại Việt Nam. Tự chủ đại học đã được luật hóa trên cơ sở Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 của Quốc hội khóa 14 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Luật số 34 quy định “Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật”. Nghị định 99 (khoản 3, điều 13. Quyền tự chủ về tài chính) nhấn mạnh thêm: “Cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện quyền tự chủ về tài chính và tài sản theo quy định của Luật Giáo dục đại học, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và các quy định hiện hành về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”,... Tóm lại, các văn bản pháp luật hiện hành về tự chủ đại học, trong đó có quy định cơ chế tự chủ về tài chính tính đến thời điểm hiện tại là khá cơ bản, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện cơ chế tự chủ của các trường đại học công lập. Tuy nhiên, thực tế hoạt động tự chủ của các Trường đang chịu ảnh hưởng trực tiếp của rất nhiều bộ luật chuyên ngành như: Khoa học và Công nghệ, Đấu thầu, Đầu tư công, Quản lý tài sản công, Xây dựng, Ngân sách, Bảo hiểm xã hội,…; các Nghị định của Chính phủ và rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác của Bộ, Ngành liên quan. Trong quá trình thực hiện, các trường nhận thấy rằng, dù đã có nhiều văn bản tháo gỡ cho các trường được thí điểm tự chủ, song do các văn bản đó đều không thể vượt qua các văn bản pháp luật, nên cơ sở pháp lý về tự chủ đại học chưa thật vững chắc và thiếu đồng bộ, hệ thống văn bản pháp luật vẫn còn có những quy định chưa phù hợp đối với quá trình triển khai; nhiều văn bản quy định liên quan đến đào tạo, NCKH, hợp tác quốc tế, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đấu thầu, đầu tư, bảo hiểm xã hội,… vẫn áp dụng chung cho tất các trường, không phân biệt tự chủ hay không tự chủ dẫn đến khó khăn, bất cập khi triển khai trên thực tế. Cụ thể: - Tại khoản 3, điều 17 và khoản 6, điều 35 của Luật Đầu tư công quy định “Chính phủ quy định việc phân cấp thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư đối với chương trình, dự án sử dụng vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư phù hợp với quy định về quyền tự chủ tài chính của các cơ quan, đơn vị”. Tuy nhiên, Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư công (Nghị định 40/2020/NĐ-CP) vẫn chưa làm rõ nguồn vốn đầu tư của các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư mà chỉ quy định chung là đơn vị sự nghiệp công lập. - Nghị định 99 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục đại học đã được ban hành, song chưa rõ việc các trường đại học công lập tự chủ toàn bộ về chi thường xuyên và chi đầu tư được áp dụng mô hình quản trị như doanh nghiệp là như thế nào cũng chưa có hướng dẫn cụ thể? (Nghị quyết số 19-NQ/TW quy định: Áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp). 83
  4. - Đối với việc thành lập doanh nghiệp trong trường đại học thì pháp luật về doanh nghiệp hiện nay vẫn quy định: “cơ quan Nhà nước không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam” (khoản 2, điều 17), trong khi đó Luật Giáo dục đại học năm 2018 có cho phép thành lập doanh nghiệp trong trường đại học, tuy nhiên Luật này không đề cập đến điều kiện, thủ tục thành lập mà việc thành lập doanh nghiệp trong trường đại học vẫn thực hiện theo quy định chung. Cơ quan Nhà nước quy định ở đây có bao gồm các đơn vị sự nghiệp công lập không? (chưa rõ ràng, cụ thể). - Các trường đại học công lập tự chủ toàn bộ về chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện công tác quản lý, kế toán, hạch toán như doanh nghiệp, nhưng đến nay Luật và các nghị định có liên quan chưa hướng dẫn cụ thể, chi tiết những nội dung này. - Thực tế, Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 đã trao quyền cho Hội đồng trường của cơ sở giáo dục đại học tự quyết định việc sử dụng nguồn tài chính là nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách nhà nước để đầu tư các dự án thực hiện hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ; ngoài ra, Luật cũng quy định “Chính phủ quy định về cơ chế giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học; quy định việc hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đại học,…”. Luật quy định như vậy, nhưng thực tế việc đầu tư các dự án từ các nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách vẫn bị ràng buộc bởi quy định của Luật Đấu thầu như dự án sử dụng vốn nhà nước thông thường. Luật Đấu thầu năm 2013 quy định việc “Mua sắm sử dụng vốn nhà nước nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập” mà không phân biệt giữa đơn vị sự nghiệp công lập được NSNN đảm bảo với đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ toàn bộ chi thường xuyên và chi đầu tư (Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu. VD: đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, dịch vụ thuộc đề án, hoặc dự toán mua sắm thường xuyên từ 100 triệu đồng trở lên). Có thể thấy quy trình thực hiện đấu thầu còn nhiêu khê, ràng buộc quá nhiều điều kiện (kể cả đấu thầu cung ứng dịch vụ trong đào tạo đặc thù lĩnh vực du lịch) khiến cho quá trình thực hiện tự chủ chuyên môn của các cơ sở GDĐH công lập bị chậm trễ, đình trệ, không phát huy được thế mạnh tự chủ; và nhất là trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý nhà nước còn vin vào các quy định áp dụng chung này để gây khó khăn cho các cơ sở GDĐH công lập vốn đang được tự chủ; thì rõ ràng việc chậm sửa đổi các luật chuyên ngành, đặc biệt Luật Đấu thầu, Nghị định 63, không những đã tạo ra mâu thuẫn với quy định của Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018, không tạo thuận lợi cho việc thực hiện cơ chế tự chủ của cơ sở GDĐH công lập; mà còn cản bước tiến tự chủ của các trường theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. - Quy định hiện tại về đầu tư cho tiềm lực KHCN là khá cao: theo Nghị định 99/2014/NĐ-CP, Điều 12 quy định: (i) Hằng năm, dành tối thiểu 5% kinh phí từ nguồn thu hợp pháp để đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ ở cơ sở giáo dục đại học; (ii) Hằng năm, dành tối thiểu 3% kinh phí từ nguồn thu học phí của cơ sở giáo dục đại học để cho sinh viên và người học hoạt động 84
  5. NCKH. Đối với các trường đại học xác định theo định hướng ứng dụng, tỷ lệ chi cho hoạt động KHCN chiếm không dưới 20% tổng chi cho các hoạt động hàng năm của cơ sở giáo dục đại học. Trong điều kiện tự chủ toàn bộ kinh phí hoạt động, mức chi cho hoạt động KHCN cao như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tự cân đối tài chính của trường. 2. Đánh giá kết quả thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của các trường đại học công lập Theo kết quả báo cáo của Bộ GD&ĐT và ý kiến của các trường đại học được giao thí điểm tự chủ trong giai đoạn 2014 - 2017, cơ chế tự chủ tài chính áp dụng đối với các trường đại học công lập hiện nay đạt được một số kết quả nổi bật và còn tồn tại một số vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, các trường được chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ trong phạm vi nguồn tài chính được sử dụng phù hợp với đặc thù của từng đơn vị, góp phần tiến tới quản lý hoạt động của đơn vị theo đầu ra, giảm dần việc quản lý theo các yếu tố đầu vào theo cơ chế quản lý tài chính công của Đảng và Nhà nước. Thứ hai, thúc đẩy các trường mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các hoạt động đào tạo đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao và đa dạng của xã hội. Nhiều hình thức đào tạo đa dạng đã được mở ra như ngoài đào tạo chính quy, thì có đào tạo thường xuyên; đào tạo tập trung và đào tạo từ xa; vừa học vừa làm, bồi dưỡng; tổ chức liên kết đào tạo với các cơ sở khác trong và ngoài nước; mời chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam để giảng dạy, tư vấn hoặc tham gia các hoạt động nghiên cứu. Thứ ba, bảo đảm công tác quản lý tài chính ở các trường được thực hiện thống nhất dân chủ, công khai, minh bạch; thúc đẩy các đơn vị tự chủ tạo lập và sử dụng các nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước (NSNN) cùng với kinh phí NSNN cấp có hiệu quả để phát triển hoạt động sự nghiệp. Các trường đã tự đảm bảo một phần quan trọng nguồn tài chính thực hiện chế độ tiền lương mới do Nhà nước quy định. Các trường cũng đã hoàn thiện công tác hạch toán và kết quả tài chính, khai thác nguồn thu, đổi mới phương thức quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy, nhân sự phù hợp với yêu cầu mới. Một số tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện Thứ nhất, khả năng tự chủ tài chính của các trường về kinh phí chi thường xuyên thấp: Theo đúng phương thức và định mức phân bổ hiện hành cộng với khung học phí bị bó hẹp và thấp như hiện nay (được quy định tại Nghị định số 86/2015/NĐ- CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ)2, các trường đại học công lập khó có khả năng tự chủ các khoản chi thường xuyên, đặc biệt là chi lương và các khoản có tính chất lương. Các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ bản phụ thuộc chủ yếu vào nguồn NSNN (khả năng tự chủ của các trường về kinh phí cho xây dựng cơ bản là yếu, thậm chí không có khả năng), nhưng nguồn này được phân bổ từng phần hàng năm, có những dự án giải ngân quá lâu do đầu tư dàn trải, dẫn đến lãng phí và không hiệu quả. 2 Mức trần học phí đối với các chương trình đào tạo đại trà trình độ đại học tại các cơ sở giáo dục công lập tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư áp dụng theo các khối ngành khoa học xã hội, kinh tế; nông lâm, thủy sản tại năm học 2019-2020 (kể cả các cơ sở giáo dục đại học được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động) là 18,5 triệu đồng; trong khi đó tại các cơ sở giáo dục công lập chưa tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư áp dụng theo khối ngành này tại năm học 2019-2020 chỉ có 8,1 triệu đồng. 85
  6. Thứ hai, việc đa dạng hóa các nguồn thu của các trường còn hạn chế (trong có trường Đại học Tài chính - Marketing), vì chủ yếu từ thu từ học phí, lệ phí. Đây là khoản thu chủ yếu của Trường nhưng thường phụ thuộc vào kết quả tuyển sinh hàng năm (có năm tuyển đạt chỉ tiêu, có năm không đạt), do đó học phí có tăng đạt mức trần quy định của Nghị định 86 (18,5 triệu đồng đối với chương trình đại trà), nhưng cũng chỉ đủ bù đắp khoản chỉ tiêu tuyển sinh không đạt hoặc giảm so với năm trước. Riêng khoản thu từ hoạt động dịch vụ rất hạn chế, nguồn thu dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu; và lại chia sẻ cho người học (phải lập các quỹ hỗ trợ sinh viên), vì vậy tổng thu được sử dụng cho hoạt động chuyên môn của Trường bị thu hẹp. Khi phải tự chủ cả chi đầu tư, thì kinh phí hoạt động còn lại sẽ càng khó khăn hơn nữa. Thứ ba, một số nội dung (như phần trên đã nêu) trong các luật chậm được sửa đổi, ban hành bổ sung để đảm bảo tính đồng bộ với Luật số 34 (Luật sửa đổi một số điều của Luật Giáo dục đại học), hoặc cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Chính phủ về đổi mới giáo dục, tăng tính tự chủ cho GDĐH VN,… đã làm cho chủ trương tự chủ ĐH bị chậm lại, bị cản trở rất nhiều. Các tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nguyên nhân chung là: Thực tế hoạt động tự chủ của các Trường đang chịu ảnh hưởng trực tiếp của rất nhiều bộ luật chuyên ngành khác nhau; các Nghị định của Chính phủ và rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác của Bộ, Ngành liên quan. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, Trường nhận thấy rằng, dù đã có nhiều văn bản tháo gỡ cho các trường được thí điểm tự chủ, song do các văn bản đó đều không thể vượt qua các văn bản pháp luật, nên cơ sở pháp lý về tự chủ đại học chưa thật vững chắc và thiếu đồng bộ, hệ thống văn bản pháp luật vẫn còn có những quy định chưa phù hợp đối với quá trình triển khai; nhiều văn bản quy định liên quan đến đào tạo, NCKH, hợp tác quốc tế,… áp dụng chung cho tất các trường không phân biệt tự chủ hay không tự chủ dẫn đến khó khăn khi triển khai trên thực tế, do đó dẫn đến việc các trường tự chủ vẫn phải tiếp tục xin ý kiến Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc Bộ chủ quản trước khi thực hiện, điều đó có thể quay lại cơ chế xin - cho, mà đã xin - cho thì việc tự chủ mất hết ý nghĩa. 3. Đề xuất, kiến nghị Trên cơ sở phân tích thực trạng các quy định của pháp luật về cơ chế tài chính trong tự chủ đại học và xuất phát từ xu thế phát triển GDĐH Việt Nam, bài viết đề xuất một số kiến nghị giúp các trường đại học công lập Việt Nam nâng cao tính tự chủ tài chính như sau: 3.1. Đối với Quốc hội (Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng) Trên cơ sở Luật số 34 của Quốc hội, Ủy ban tăng cường giám sát việc thực thi pháp luật, đặc biệt là việc triển khai cơ chế tự chủ đối với các trường đại học, trong đó có tự chủ về tài chính; có ý kiến kịp thời đối với các Bộ, Ngành Trung ương khi ban hành các Thông tư, văn bản hướng dẫn có xu hướng đặt ra thêm các quy định nhằm cụ thể hóa, nhưng thực chất là quy định thêm các thủ tục, điều kiện để thực hiện tự chủ về tài chính và tự chủ khác, vô hình chung trở thành tự chủ có điều kiện, sẽ gây khó khăn cho các trường, thậm chí trở lại cơ chế xin - cho. 3.2. Đối với Chính phủ và các Bộ, Ngành TW Nghị định số 16/2015/NĐ-CP và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng cải tiến 86
  7. mạnh mẽ, trong đó các đơn vị giáo dục công lập cũng được hưởng những chính sách đổi mới này. Trao quyền tự chủ các cơ sở giáo dục đại học, tuy nhiên, Chính phủ vẫn cần quan tâm đầu tư (nhất là đầu tư xây dựng cơ bản, cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất - bằng những phương pháp và cách thức như thế nào đó), để giúp các cơ sở giáo dục giảm bớt các khó khăn tài chính, từng bước nâng cao chất lượng GDĐH trong điều kiện hội nhập. Hội nhập là cơ hội để giáo dục đại học Việt Nam tranh thủ hợp tác liên doanh với nước ngoài để mở rộng đào tạo trong nước, đào tạo ở nước ngoài; tạo điều kiện để đại học công lập trở thành những trung tâm sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu, nhập khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ hiện đại; thông qua đào tạo và nghiên cứu để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài khoa học. Để tự chủ tài chính thực sự phát huy được vai trò thì quyền tự chủ của các trường đại học công lập cần được Chính phủ quán triệt triển khai đồng bộ, tránh tình trạng tự chủ nửa vời, bao gồm: (i) Cho phép các cơ sở đào tạo được quyết định giá dịch vụ đào tạo (học phí) trên cơ sở tính đúng, tính đủ các chi phí cần thiết theo khung giá do cấp có thẩm quyền ban hành; (ii) Được quyền quyết định việc sử dụng tiền vốn, tài sản gắn với chức năng, nhiệm vụ được giao và được huy động vốn cho đầu tư qua góp vốn liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác để mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo (nội dung này có chủ trương, nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể); (iii) Tự quyết định biên chế và trả lương trên cơ sở hiệu quả, chất lượng hoạt động của cơ sở giáo dục; (iv) Chính phủ nên tiếp tục đầu tư cho các chương trình mục tiêu, đầu tư cho các dự án phát triển, nâng cấp cơ sở hạ tầng của cơ sở giáo dục, nhất là các dự án đầu tư lớn, vượt quá khả năng tài chính của cơ sở GDĐH; (v) Chính phủ cần tiếp tục hỗ trợ ngân sách cho giáo dục đại học, ưu tiên tăng chi đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực quản trị của trường đại học, xây dựng hệ thống phòng thí nghiệm, thực hành hiện đại…;(vi) tạo cơ chế pháp lý để các trường đa dạng các nguồn thu xã hội hóa. Các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan quy định cụ thể về việc sử dụng các nguồn tài chính huy động từ xã hội hóa; về pháp luật thuế đối với các khoản thu xã hội hóa; về các chính sách ưu đãi về thuế đối với các cơ sở GDĐH. Thiết nghĩ, các Bộ, Ban, Ngành có liên quan cần nhanh chóng hơn nữa trong việc rà soát, xây dựng và trình Quốc hội điều chỉnh các quy định pháp luật khác có liên quan cho phù hợp với chủ trương lớn của Đảng (Nghị quyết số 19/NQ-TW) và Nhà nước (Nghị quyết số 08/NQ-CP) về đổi mới tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đặc biệt là mục tiêu mở rộng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, trường đại học công lập nói riêng. 3.3. Đối với các trường đại học công lập Khi đánh giá, kiểm định chất lượng trường đại học công lập, thì nguồn lực tài chính và công tác quản lý tài chính là 1 trong 10 tiêu chuẩn để xem xét. Theo đó, các trường phải có các giải pháp và kế hoạch tự chủ về tài chính, có một hệ thống quản lý chặt chẽ, phù hợp với các quy định của Nhà nước; công tác lập kế hoạch tài chính được chuẩn hóa, công khai hóa, minh bạch và theo đúng quy định; thực hiện phân bổ và sử dụng tài chính hợp lý, công khai, minh bạch và có hiệu quả. Cụ thể: Một là, chu trình quản lý tài chính bắt đầu từ bước lập dự toán, giao dự toán, chấp hành dự toán, quyết toán ngân sách cho đến các khâu tự kiểm tra tài chính, thẩm định kiểm tra báo cáo tài chính của các cơ quan quản lý và cuối cùng là công khai tài 87
  8. chính. Chu trình này đòi hỏi nhà trường cần có bộ máy kế toán chuyên nghiệp, có trình độ để đảm bảo hiệu quả các chi tiêu trong nhà trường, đảm bảo tính minh bạch, chính xác… Hai là, việc phân tích hoạt động tài chính chính xác, thực hiện cơ chế tự chủ phù hợp sẽ giúp cho việc định hướng phát triển nhà trường theo đúng mục đích, tôn chỉ hoạt động, nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho nhà trường và xã hội. Trong thực tế, dù còn hạn chế nhưng hệ thống các trường đại học công lập ở Việt Nam đã và đang khẳng định vai trò chủ lực trong hệ thống giáo dục quốc dân, có ảnh hưởng và uy tín nhất định trong đào tạo đại học ở khu vực và trên thế giới. Nhìn chung, sự phát triển của các trường đại học công lập Việt Nam hiện nay chịu sự chi phối trực tiếp bởi cơ chế, chính sách và các ưu đãi mà Chính phủ trao cho. Thực hiện tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập phải được hiểu và triển khai đầy đủ trong mối quan hệ xác định rõ quyền và nghĩa vụ là giải pháp chiến lược thể hiện quan điểm, tầm nhìn một cách khoa học và thực tế; là thước đo trình độ quản lý, sự đổi mới của Chính phủ đối với sự nghiệp phát triển bền vững và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung và GDĐH nói riêng của Việt Nam. Do đó để thực hiện thành công tự chủ đại học ở Việt Nam, hệ thống pháp luật phải đồng bộ và thông suốt từ Luật cho đến các Nghị định của Chính phủ và các văn bản của Bộ, Ngành Trung ương; sự quản lý có hiệu quả của Bộ Giáo dục và Đào tạo và sự chủ động của các trường đại học công lập./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo kết quả đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội nghị sơ kết tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tháng 9/2017. 2. Luật Đầu tư công ngày 13 tháng 6 năm 2019; 3. Luật Đấu thầu ngày 26 tháng 11 năm 2013. 4. Luật Giáo dục đại học sửa đổi, ngày 19 tháng 11 năm 2018; 5. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. 6. Nghị định số 49/2009/NĐ-CP quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015. 7. Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021. 8. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. 88
  9. 9. Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. 10. Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu. 11. Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) từ năm 2010-2011 đến năm học 2014-2015. 12. Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017. 89
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1