"Rèn kỹ năng nhn biết biện pháp tu từ so sánh
cho học sinh lớp 3"
Phần I: lý do chọn đề tài
I. Cơ sở lý luận:
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua Đảng, Nhà nước
ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ bản
của giáo dục đào tạo hiện nay là: hình thành và phát trin nhân cách cho học sinh
một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước.
Văn học là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm phương tiện thể hiện.khả
năng tác động đến đời sống tâm hồn của con người. Trong đó biện pháp tu từ so
sánh góp một phần không nhỏ làm lên điều này.
Một mặt, so sánh có khả năng khắc học hình nh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm
nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng làm cho
lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu
từ còn là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như vậy
đối với tác phẩm văn học nói chung so sánh mang chức năng nhận thức và biểu
cảm.
Nhnhững hình ảnh bóng bảy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm
diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu tđược sử dụng phổ biến trong thơ
ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. So sánh tu từ giúp các em hiểu và cảm nhận
được những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri thức làm phong phú
về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu quý Tiếng Việt giữ
gìn sự trong sáng của Tiếng Việt cho học sinh.
* Mục đích của đề tài:
Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học sinh
biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ.
Giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có
được các phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh
ở lớp 3.
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Về sách giáo khoa:
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện nay nói chung và phân môn Luyện từ và câu
nói riêng còn tồn tại một số điểm chưa hợp lý: mặc dù SGK đã chú trọng phương
pháp thực hành nhưng những bài tập sáng tạo vẫn còn ít, đơn điệu, kiến thức dạy
học sinh còn mang tính trừu tượng nên học sinh còn gặp nhiều khó khăn trong quá
trình lĩnh hội các kiến thức mới.
2. Về phía giáo viên:
Người giáo viên còn gặp không ít khó khăn như cơ sở vật chất, phương tiện dạy
học và tài liệu tham khảo còn ít. Một số bộ phận nhỏ giáo viên vẫn chưa chú trọng
quan tâm đến việc lồng ghép trong quá trình dạy học giữa các phân môn của môn
Tiếng Việt với nhau, để khơi dậy sự hứng thú học tập và sự tò mò của phân môn
này với phân môn khác trong môn Tiếng Việt.
3. Về phía học sinh:
Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực
quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế. Vốn kiến thức văn
học của học sinh, nhất là học sinh vùng thôn quê của chúng tôi còn rất hạn chế do
nguồn sách báo, tài liệu văn học còn ít ỏi. Vì đa số các em đều là con em gia đình
thuần nông. Một số em nhận biết về nghệ thuật còn hạn chế, học sinh chỉ mới biết
một cách cụ thể. Nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh tu từ rất kkhăn. Vì vậy
đòi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn một cách tỷ mỷ thực tế.
* Qua khảo sát chất lượng về kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh của học
sinh lp 3 trong học kỳ I m học 2010-2011 tôi đã thu được kết quả như sau:
- Tổng số học sinh lớp 3B là 24 em:
Số học sinh đạt yêu cu về
nhận biết tu từ so sánh
Số học sinh chưa có k
ỹ năng nhận
biết tu từ so sánh nhanh
Số học sinh còn nh
ầm lẫn khi
nhận biết tu từ so sánh
9/24 37,5% 10/24 41,7% 5/24 20,8%
Phần II: Nội dung
I .Những vấn đề chung:
1. Cơ sở ngôn ngữ học:
Ngôn ngữ nói chung, Tiếng việt nói riêng có mối quan hệ mật thiết với phương
pháp dạy học Tiếng Việt. Ngôn ngữ bao gồm một hệ thống, bao gồm các bộ phận
ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Mỗi bộ phận của ngôn ngữ là một hệ thống nhỏ,
cơ cấu tổ chức riêng, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hệ thống ngôn ngữ.
2. Cơ sở lý luận dạy học:
Phương pháp dạy học Tiếng Việt là một bộ môn của khoa học giáo dục nên nó ph
thuộc vào những quy luật chung của khoa học này. Lý luận dạy học đại cương
cung cấp cho phương pháp dạy học Tiếng Việt những hiểu biết về các quy luật
chung của việc dạy học môn học. Nó vận dụng nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy
học theo đặc trưng của mình.
Môn Tiếng Việt là một trong những bộ môn cơ bản của nhà trường phổ thông nên
phải thực hiện theo nguyên tắc giáo dục học. Bởi vậy nguyên tắc dạy học Tiếng
Việt phải cụ thể hóa mục tiêu và các nguyên tc dạy học nói chung vào bmôn
của mình.
Như vậy mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt nằm trong mục tiêu chung của
giáo dục nước ta trong giai đoạn mới hiện nay: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, nhằm hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có
năng lực thực hành, tchủ, năng động sáng tạo.
3. Cơ sở thực tiễn:
Chương trình dạy học chỉ quy định phạm vi dạy học của các môn. Còn nhiệm vụ
của SGK là trình bày nội dung của bộ môn một cách rõ ràng, cthể và chi tiết theo
cấu trúc của nó. SGK có chức năng là lĩnh hội củng cố những tri thức tiếp thu
được trên lp, phát triển nhân lực trí tuệ và có tác dụng giáo dục học sinh. SGK
cũng giúp giáo viên xác định nội dung và lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy
học, tổ chức tốt công tác dạy học của mình.
4. Nội dung chương trình: