JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0169<br />
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8A, pp. 87-96<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TƯƠNG TỰ HÓA CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC<br />
GIẢI BÀI TẬP ĐẠI SỐ VÀ GIẢI TÍCH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG<br />
<br />
Nguyễn Văn Thuận1 , Nguyễn Thị Mỹ Hằng2<br />
1 Trường Phổ thông trung học Chuyên, Trường Đại học Vinh<br />
2 Khoa Sư phạm Toán học, Trường Đại học Vinh<br />
<br />
Tóm tắt. Trong bài báo này, chúng tôi phân tích thực trạng về việc thực hiện thao tác tương<br />
tự hóa cho học sinh ở trường THPT và xây dựng một số biện pháp rèn luyện cho học sinh<br />
kĩ năng này (thể hiện thông qua môn Toán THPT).<br />
Từ khóa: Tương tự hóa, học sinh, bài toán.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Khi nói về vai trò của tương tự, nhà thiên văn học tài ba Kepler, người đã phát minh ra ba<br />
định luật nổi tiếng trong thiên văn học cho rằng: "Tôi vô cùng biết ơn các phép tương tự, những<br />
người thầy đáng tin cậy nhất của tôi, các phép tương tự đã giúp tôi khám phá ra các bí mật của tự<br />
nhiên, đã giúp tôi vượt qua mọi trở ngại" [8, tr.148]. Có thể thấy rằng, nhận định đó rất ý nghĩa, đã<br />
nói lên tầm quan trọng của tương tự trong cuộc sống cũng như trong khoa học.<br />
D. P. Goocki [4], G. Polya [8, 9], Hoàng Chúng [1], Nguyễn Bá Kim [7], Trần Khánh<br />
Hưng [6], ... đã nghiên cứu về tương tự. Họ đã đưa ra định nghĩa về tương tự và minh họa trong<br />
môn Toán, nhưng chủ yếu ở Trung học cơ sở. Họ đã quan niệm tương tự như là một phép suy luận.<br />
Trong những năm gần đây, có một số tác giả trong các công trình nghiên cứu của mình cũng<br />
đề cập đến tương tự. Họ cũng quan niệm tương tự như là một phép suy luận, mang tính dự đoán.<br />
Chúng tôi nhận thấy rằng chưa có công trình tìm hiểu về thực trạng của việc thực hiện phép tương<br />
tự ở trường phổ thông, thiếu các biện pháp dạy học cụ thể nhằm rèn luyện cho học sinh kĩ năng<br />
này. Trong bài viết này, chúng tôi quan niệm tương tự hóa là một thao tác tư duy, xây dựng quy<br />
trình thực hiện thao tác đó, tìm hiểu về thực trạng thực hiện thao tác tương tự hóa cho học sinh ở<br />
trường THPT và xây dựng một số biện pháp dạy học nhằm rèn luyện cho học sinh kĩ năng này.<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Kĩ năng tương tự hóa<br />
Từ việc nghiên cứu các định nghĩa về tương tự hóa của các nhà khoa học [1, 4, 6 - 9], chúng<br />
tôi thống nhất rằng Tương tự hóa là quá trình dùng trí óc để kết luận về sự giống nhau của các đối<br />
tượng ở một số dấu hiệu, thuộc tính khác từ sự giống nhau của các đối tượng ở một số dấu hiệu,<br />
thuộc tính nào đó nhằm mục đích tạo ra một kết quả mới, vượt qua một trở ngại.<br />
Ngày nhận bài: 15/7/2015. Ngày nhận đăng: 22/10/2015.<br />
Liên hệ: Nguyễn Thị Mỹ Hằng, e-mail: nguyenmyhang3008@gmail.com<br />
<br />
<br />
<br />
87<br />
Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Thị Mỹ Hằng<br />
<br />
<br />
Thao tác tương tự hóa có thể thực hiện theo các bước sau:<br />
Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết;<br />
Bước 2: Xác định các dấu hiệu, thuộc tính của vấn đề cần giải quyết;<br />
Bước 3: Xác định các vấn đề có một số dấu hiệu, thuộc tính giống với một số dấu hiệu,<br />
thuộc tính của vấn đề cần giải quyết và cách giải quyết vấn đề đó;<br />
Bước 4: Đối chiếu các dấu hiệu, thuộc tính còn lại của vấn đề cần giải quyết với các dấu<br />
hiệu, thuộc tính còn lại của các đối tượng ở bước 3 và đi đến kết luận.<br />
Có thể cho rằng, học sinh có kĩ năng tương tự hóa chính học sinh biết thực hiện các bước<br />
của quy trình trên.<br />
<br />
2.2. Thực trạng về việc thực hiện tương tự hóa trong dạy học giải bài tập Đại số<br />
và Giải tích của học sinh ở trường Trung học phổ thông<br />
Trong học tập, học sinh (HS) gặp nhiều tình huống sử dụng thao tác tương tự hóa nhưng<br />
không phải em nào cũng biết tương tự hóa chỉ mang tính dự đoán, mọi kết quả của tương tự hóa<br />
đều phải chứng minh mới khẳng định được tính đúng đắn. Chẳng hạn như việc chuyển các phép<br />
biến đổi của phương trình sang phép biến đổi của bất phương trình; chuyển từ việc giải bài tập này<br />
sang giải bài tập kia có cùng dạng; việc chuyển từ các phép biến đổi của dãy số sang phép biến<br />
đổi của hàm số; ..., không phải tất cả các thao tác chuyển đó đều đúng. Tuy nhiên, có nhiều HS đã<br />
công nhận mặc nhiên các kết quả tương tự đó.<br />
Ví dụ 1: Tìm điều kiện cần và đủ để bất phương trình ax2 + bx + c ≥ 0, (a 6= 0) có nghiệm<br />
thực?<br />
Có HS giải như sau: Điều kiện cần và đủ để bất phương trình ax2 + bx + c ≥ 0, (a 6= 0) có<br />
nghiệm thực là ∆ = b2 − 4ac ≥ 0.<br />
HS đã áp dụng tương tự điều kiện có nghiệm thực của bất phương trình bậc hai như đối với<br />
phương trình bậc hai. Trong trường hợp này, điều kiện ∆ = b2 − 4ac ≥ 0 chỉ là điều kiện đủ chứ<br />
không phải là điều kiện cần để bất phương trình ax2 + bx + c ≥ 0 (a 6= 0) có nghiệm thực.<br />
Chẳng hạn, đối với bất phương trình x2 + x + 1 ≥ 0, có biệt thức ∆ = −3 < 0, nhưng bất phương<br />
trình có nghiệm thực với mọi x. Việc có nghiệm của bất phương trình phụ thuộc vào dấu của hệ<br />
số a và dấu của biệt thức ∆. Với ∆ ≥ 0 thì tam thức ở vế trái có thể nhận giá trị không âm, có thể<br />
nhận giá trị không dương, do đó bất phương trình luôn có nghiệm. Còn nếu ∆ < 0 thì tam thức<br />
vế trái luôn cùng dấu với hệ số a trên tập xác định, tức bất phương trình có thể vô nghiệm cũng có<br />
thể có nghiệm ∀x ∈ R, điều này phụ thuộc vào dấu của hệ số a.<br />
Từ dạy học chủ đề phương trình sang dạy học chủ đề bất phương trình có nhiều nét tương<br />
tự, nhưng không phải suy luận tương tự nào cũng đúng. Chẳng hạn, HS thường ngộ nhận về những<br />
phép biến đổi như sau (chú ý rằng các phép biến đổi sau đối với phương trình là đúng đắn):<br />
(<br />
f (x) f (x) ≥ 0<br />
+) ≥0⇔<br />
g(x) g(x) 6= 0;<br />
(<br />
1 1 g(x) > f (x)<br />
+) > ⇔<br />
f (x) g(x) f (x) 6= 0;<br />
(<br />
g(x) ≥ 0<br />
+) |f (x)| ≥ g(x) ⇔<br />
f (x) ≥ g 2 (x);<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
88<br />
Rèn luyện kĩ năng tương tự hóa cho học sinh trong dạy học giải bài tập Đại số và Giải tích...<br />
<br />
<br />
f (x) ≥ g(x)<br />
+) |f (x)| ≥ |g(x)| ⇔<br />
f (x) ≥ −g(x);<br />
(<br />
p g(x) ≥ 0<br />
+) f (x) ≥ g(x) ⇔<br />
f (x) ≥ g 2 (x);<br />
+) af (x) ≥ ag(x) ⇔ f (x) ≥ g(x);<br />
(<br />
f (x) ≥ g(x)<br />
+) loga f (x) ≥ loga g(x) ⇔<br />
g(x) ≥ 0; ....<br />
Do đó, khi dạy học chủ đề bất phương trình, giáo viên (GV) phải hình dung trước những sai<br />
lầm có thể xảy ra đối với HS để khắc phục kịp thời.<br />
Ví dụ 2: Tìm số hạng tổng quát của dãy số cho bởi công thức truy hồi:<br />
a) và un+1 = 6un + 5, ∀n ≥ 1<br />
b) u1 = 2 và un+1 = 4un + 2n + 3, ∀n ≥ 1<br />
Bài tập này được yêu cầu giải sau khi HS vừa giải xong bài tập số 43 [10, tr. 122], có nội<br />
dung như sau:<br />
Cho dãy số (un ) xác định bởi: u1 = 1 và un+1 = 5un + 8, với mọi n ≥ 1.<br />
a) Chứng minh rằng dãy số , với vn = un + 2, là một cấp số nhân. Hãy tìm số hạng tổng<br />
quát của cấp số nhân đó.<br />
b) Dựa vào kết quả phần a), hãy tìm số hạng tổng quát của dãy số (Un ).<br />
Nhiều HS đã giải câu a) của ví dụ 2 tương tự như câu a) của bài tập 43 bằng cách đặt<br />
vn = un + 2 một cách máy móc mà không hiểu tại sao trong bài tập đó người ta lại làm như thế.<br />
Trong khi dạy giải bài tập, nếu GV cứ yêu cầu HS giải hết bài này sang bài khác mà không<br />
có những lí giải xác đáng thì HS sẽ không giải được những bài tập có cấu trúc tương tự. Chẳng<br />
hạn, sau khi HS giải xong bài tập 43 ở trên, nếu GV không giải thích tại sao lại đặt vn = un + 2<br />
thì đa số HS sẽ không giải được bài tập a) của ví dụ 2. G. Polya cho rằng: "Một sự trình bày đúng<br />
trong sách hay trên bảng vẫn có thể khó hiểu và chẳng bổ ích gì, nếu không nêu được mục đích của<br />
các giai đoạn nối tiếp, nếu như người đọc và người nghe không thể hiểu tác giả làm cách nào để<br />
có sự chứng minh như vậy, nếu sự trình bày không gợi cho anh ta tự tìm được một sự chứng minh<br />
tương tự" [8, tr. 53].<br />
Có thể giải thích cho HS số 2 trong phép đặt vn = un +2 được tìm như sau: Đặt vn = un +a,<br />
khi đó công thức truy hồi trở thành: vn+1 = 5vn − 4a + 8. Để vn là cấp số nhân thì −4a + 8 = 0<br />
hay a = 2.<br />
HS tiếp tục giải câu b) của ví dụ 2 như sau: Đặt vn = un + a ⇒ vn+1 = un+1 + a. HS<br />
đã tìm a để vn là một cấp số nhân. Do vn+1 = 4vn − 3a + 2n + 3 nên vn là một cấp số nhân thì<br />
2n + 3 2.1 + 3 11<br />
−3a + 2n + 3 = 0 ⇒ a = . Khi đó, vn là một cấp số nhân với v1 = u1 + = ,<br />
3 3 3<br />
11 n−1<br />
công bội q = 4 nên có số hạng tổng quát là vn = .4 . Suy ra, số hạng tổng quát của un là:<br />
3<br />
11 2n + 3<br />
un = .4n−1 − .<br />
3 3<br />
Một lần nữa, HS đã sai lầm khi giải tương tự như câu a), đó là tìm hằng số a để vn = un + a<br />
là một cấp số nhân. Tuy nhiên, với bài này, HS không thể tìm được hằng số a để vn là một cấp số<br />
nhân vì trong số hạng tổng quát của un còn có lượng biến thiên 2n.<br />
<br />
<br />
<br />
89<br />
Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Thị Mỹ Hằng<br />
<br />
√<br />
x2 − 2x + 4 + 2x<br />
Ví dụ 3: Tính lim .<br />
x→−∞ x+1<br />
Rất nhiều học sinh đã giải bài toán này tương tự như tìm giới hạn của dãy số. Các em đã<br />
giải như sau:<br />
r<br />
√ 2 4<br />
1− + 2 +2<br />
x2 − 2x + 4 + 2x x x 1+2<br />
lim = lim = = 3.<br />
x→−∞ x+1 x→−∞ 1 1<br />
1+<br />
x<br />
√ Sai lầm ở đây là do học sinh đã thực hiện phép biến đổi chia cả tử và mẫu của phân thức<br />
x2 − 2x + 4 + 2x<br />
cho x mà không chú ý giả thiết x → −∞. Thật ra, khi x → −∞ thì<br />
x+1 r<br />
√ 2 4<br />
− 1− + 2<br />
x2 − 2x + 4 + 2x x x<br />
= .<br />
x+1 1<br />
1+<br />
x<br />
Qua một số ví dụ nêu trên, có thể thấy rằng nếu GV chưa phân tích kĩ từng yếu tố, từng<br />
phép biến đổi và HS chưa có ý thức trong việc tìm hiểu các dụng ý của lời hướng dẫn giải bài toán,<br />
thì rất ít HS làm được các bài toán có cấu trúc tương tự.<br />
<br />
2.3. Một số biện pháp sư phạm rèn luyện kĩ năng tương tự hóa cho học sinh<br />
Tạo cơ hội cho học sinh luyện tập kĩ năng tương tự hóa trong quá trình giải toán bằng cách<br />
liên hệ nó với một bài toán tương tự đơn giản hơn, rồi tìm cách vận dụng kết quả hoặc phương<br />
pháp giải của bài toán tương tự này để giải bài toán đã cho.<br />
Cách thức thực hiện:<br />
- Yêu cầu HS giải những bài toán mà việc giải những bài toán đó có thể nghĩ về những bài<br />
toán tương tự dễ hơn;<br />
- Tìm cách giải bài toán tương tự dễ hơn đó;<br />
- Dùng bài toán tương tự dễ hơn đó làm mô hình.<br />
Ví dụ 4: Cho n ∈ N ∗ , hãy tính các tổng sau:<br />
1 1 1 1<br />
S1 = + + ... + + ;<br />
1.2 2.3 (n − 1) n n (n + 1)<br />
1 1 1 1<br />
S2 = + + ... + + ;<br />
1.3 3.5 (n − 2) n n (n + 2)<br />
1 1 1 1<br />
S3 = + + ... + + .<br />
1.2.3 2.3.4 (n − 1) n (n + 1) n (n + 1) (n + 2)<br />
GV có thể hướng dẫn HS tìm tổng S1 bằng các câu hỏi gợi ý như sau: Tổng S1 được rút gọn<br />
bằng cách nào? Các số hạng trong tổng có mối quan hệ ra sao? Số hạng tổng quát của tổng là gì?<br />
Có thể phân tích số hạng tổng quát đó như thế nào?<br />
Với những câu hỏi dẫn dắt như trên, HS sẽ chỉ ra được số hạng tổng quát của tổng là<br />
1<br />
, số hạng này được phân tích như sau:<br />
k (k + 1)<br />
1 (k + 1) − k k+1 k 1 1<br />
= = − = − .<br />
k (k + 1) k (k + 1) k (k + 1) k (k + 1) k k+1<br />
<br />
<br />
90<br />
Rèn luyện kĩ năng tương tự hóa cho học sinh trong dạy học giải bài tập Đại số và Giải tích...<br />
<br />
<br />
Từ đó, HS có thể tính tổng S1 dễ dàng bằng cách phân tích mỗi số hạng của tổng thành hiệu<br />
của hai số hạng, trong đó số trừ của số hạng thứ k trùng với số bị trừ của số hạng thứ k+1, do đó<br />
chúng triệt tiêu lẫn nhau.<br />
1 1 1 1 1 1 1 1 1 n<br />
S1 = − + − + ... + − + − =1− = .<br />
1 2 2 3 n−1 n n n+1 n+1 n+1<br />
Tổng S2 có nét tương tự với tổng S1 và quá trình tương tự hóa bắt đầu xuất hiện.<br />
Hãy tìm cách tách số hạng tổng quát của S2 ? Phải chăng tương tự như phân tích mỗi số<br />
1 1 1<br />
hạng của tổng S1 , tức là = − ? Thử kiểm tra lại, các em thấy điều gì?<br />
k (k + 2) k k+2<br />
1 1 k+2−k 2<br />
− = = .<br />
k k+2 k (k + 2) k (k + 2)<br />
Do đó, số hạng tổng quát của S2 được tách thành như sau:<br />
<br />
1 1 1 1<br />
= − .<br />
k (k + 2) 2 k k+2<br />
Việc tách như vậy cũng có tính chất số trừ của số hạng thứ k trùng với số bị trừ của số hạng<br />
thứ k+1, do đó chúng triệt tiêu lẫn nhau.<br />
<br />
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1<br />
S2 = − + − + ... + − + − = −<br />
2 1 3 3 5 n−2 n n n+2 2 1 n+2<br />
n<br />
= .<br />
n+2<br />
Tổng S3 cũng có nhiều nét giống với tổng S1 . Mỗi số hạng của tổng S3 có dạng<br />
1<br />
, k = 1, 2, ..., n gần giống với mỗi số hạng của tổng S1 .<br />
k (k + 1) (k + 2)<br />
1 1 1 1<br />
Bắt đầu từ số , thử suy nghĩ xem nếu ở tổng S1 chúng ta phân tích = − , thì<br />
1.2.3 1.2 1 2<br />
1 1 1 1<br />
có thể ở tổng S3 , chúng ta có thể phân tích = − − chăng?<br />
1.2.3 1 2 3<br />
(HS dễ dàng kiểm tra được nhận định trên là sai).<br />
Ở bài toán tính tổng S1 ở trên, HS đã tách mỗi số hạng thành hiệu của hai số, vậy đối với<br />
tổng S3 , để tách mỗi số hạng thành hiệu của hai số, HS thử ghép đôi từ những số ở mẫu. Mẫu số<br />
1 1 1<br />
của số hạng đầu có ba số 1, 2, 3, HS thử ghép thành (1,2) và (2,3), có nghĩa là: = − .<br />
1.2.3 1.2 2.3<br />
1 1 2 1 1<br />
Hãy kiểm tra lại kết quả xem! − = . Như vậy, kết quả gấp đôi , hay =<br />
1.2 2.3 6 1.2.3 1.2.3<br />
1 1 1<br />
− . Hãy thử xét tiếp số hạng thứ hai!<br />
2 1.2 2.3<br />
<br />
1 1 2 1 1 1 1<br />
− = , hay = − .<br />
2.3 3.4 24 2.3.4 2 2.3 3.4<br />
Hãy thử thêm vài trường hợp nữa! Kết quả đã khả quan, từ đó có thể đưa ra giả thuyết:<br />
<br />
1 1 1 1<br />
∀n ∈ N ta có:<br />
∗ = − .<br />
n (n + 1) (n + 2) 2 n (n + 1) (n + 1) (n + 2)<br />
Lúc đó ta có: <br />
1 1 1 1 1 1 1 1 1<br />
S3 = − + − + ... + −<br />
2 1.2 2.3 2 2.3 3.4 2 n (n + 1) (n + 1) (n + 2)<br />
<br />
91<br />
Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Thị Mỹ Hằng<br />
<br />
<br />
n (n + 3)<br />
= .<br />
4 (n + 1) (n + 2)<br />
Bây giờ, giả thử có HS lại ghép ba số 1, 2, 3 thành hai bộ số (1,3) và (2,3) thì sẽ như thế<br />
nào? <br />
1 1 1 1 1 1<br />
Khi đó − = , nên được tách thành − . Tuy nhiên, việc tách này<br />
1.3 2.3 6 1.2.3 1.3 2.3<br />
lại không có tính chất số trừ của số hạng thứ k trùng với số bị trừ của số hạng thứ k+1, nên không<br />
rút gọn được tổng S3 .<br />
GV cũng có thể hướng dẫn HS khai thác bài toán trên theo hướng sau đây:<br />
1 (k + 1) − k 1 1<br />
Để tính tổng S1 , HS tiến hành phân tích: = = − , tức là<br />
k (k + 1) k (k + 1) k k+1<br />
HS đã lấy (k + 1) − k ở tử số, trong đó k + 1 và klà hai thừa số ở mẫu.<br />
Tương tự khi tính tổng S2 , HS cũng sẽ sử dụng phương pháp phân tích như trên, và kết quả<br />
(k + 2) − k 2 1<br />
có được là: = . Từ đó, HS thấy được sự phân tích đúng đắn là =<br />
k (k<br />
+ 2) k (k + 2) k (k + 2)<br />
1 1 1<br />
− .<br />
2 k k+2<br />
Khi tính tổng S3, HS cũng liên hệ đến phương pháp trên và các em phân tích như sau:<br />
1 1 (k + 2) − k 1 1 1<br />
= = − .<br />
k (k + 1) (k + 2) 2 k (k + 1) (k + 2) 2 k (k + 1) (k + 1) (k + 2)<br />
Sau khi HS biết cách tính các tổng S1 , S2 , S3 , bằng thao tác tương tự hóa, GV yêu cầu HS<br />
tính các tổng sau:<br />
1 1 1<br />
S4 = + + ... + ;<br />
1.4 4.7 (3n − 2) (3n + 1)<br />
1 1 1<br />
S5 = + + ... + ∀n ∈ N ∗ , trong đó (un ) là cấp số cộng với công sai<br />
u1 u2 u2 u3 un un+1<br />
d 6= 0 và un 6= 0 với ∀n ∈ N ∗ .<br />
Bằng cách tương tự, HS có thể tính được tổng S5 ở trên như sau:<br />
<br />
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 n<br />
S5 = − + − + ... + − = − = .<br />
d u1 u2 u2 u3 un un+1 d u1 un+1 u1 un+1<br />
Khuyến khích học sinh đề xuất bài toán mới trên cơ sở khai thác bài toán đã cho.<br />
GS. Nguyễn Cảnh Toàn đã nhận định: "Học sinh học toán xong rồi làm bài tập. Vậy các bài<br />
tập đó ở đâu mà ra? Ai là người đầu tiên nghĩ ra các bài tập đó, nghĩ như thế nào? Ngay nhiều giáo<br />
viên cũng chỉ biết sưu tầm các bài tập trong các sách giáo khoa khác nhau, chưa biết cách sáng tác<br />
ra các đề bài tập" [11, tr. 93].<br />
G. Polya cho rằng: "Có thể là sẽ không có một phát minh nào trong toán học sơ cấp cũng<br />
như cao cấp, thậm chí trong bất cứ lĩnh vực nào, nếu ta không dùng những thao tác tư duy như<br />
khái quát hóa, đặc biệt hóa, tương tự hóa, ... Phép tương tự có lẽ là có mặt trong mọi phát minh, và<br />
trong một số phát minh nó chiếm vai trò quan trọng hơn cả" [9, tr. 23].<br />
Vấn đề tương tự của hai bài toán có thể được xem xét dưới các khía cạnh sau:<br />
- Chúng có đường lối giải, phương pháp giải giống nhau;<br />
- Nội dung của chúng có những nét giống nhau;<br />
- Chúng đề cập đến những vấn đề giống nhau, những đối tượng có tính chất giống nhau.<br />
<br />
<br />
92<br />
Rèn luyện kĩ năng tương tự hóa cho học sinh trong dạy học giải bài tập Đại số và Giải tích...<br />
<br />
<br />
Cần tạo cho HS một thói quen là khi giải một bài toán nên đặt câu hỏi là tại sao lại có bài<br />
toán đó, bài toán đó được giải như thế nào, làm thế nào tạo được bài toán gần giống như vậy (về<br />
đường lối giải hoặc về cấu trúc nội dung). Nhiều khi, phân tích cách giải của bài toán đã cho có<br />
thể tạo được các bài toán khác.<br />
Cách thức thực hiện:<br />
Quy trình tạo ra bài toán mới bằng tương tự hóa có thể theo các bước sau đây:<br />
- Phân tích cấu trúc và cách giải của bài toán đã cho;<br />
- Tạo bài toán mới tương tự với bài toán đã cho;<br />
- Giải bài toán mới vừa tạo được;<br />
- Phát biểu bài toán mới.<br />
Ví dụ 5: Tạo một bài toán tương tự với bài toán sau:<br />
p<br />
Giải phương trình: 3 (2x + 1) (x2 − x + 2) = 2x2 + 5 (1)<br />
- Phân tích cấu trúc và cách giải của bài toán đã cho<br />
Về mặt cấu trúc, phương trình (1) có vế trái là căn bậc hai của tích một nhị thức bậc nhất<br />
với tam thức bậc hai, vế phải(là một tam thức bậc hai. Về cách giải, trước hết là liên tưởng tới dạng<br />
p g (x) ≥ 0<br />
cơ bản f (x) = g (x) ⇔<br />
f (x) = g 2 (x) .<br />
Tuy nhiên đối với trường hợp này phương trình có được sau khi bình phương hai vế là<br />
phương trình bậc bốn không có nghiệm hữu tỉ nên việc giải sẽ rất khó khăn. Vì<br />
vậy, phải hướng<br />
2<br />
dẫn học sinh nhìn vế phải của phương trình dưới dạng 2x + 1 + 2 x − x + 2 . Khi đó, (1) sẽ là<br />
√ √<br />
phương trình đẳng cấp bậc hai đối với 2x + 1 và x2 − x + 1. Mà phương trình đẳng cấp bậc<br />
hai đã có thuật giải. Lời giải cụ thể như sau:<br />
p <br />
(1) ⇔ 3 (2x + 1) (x2 − x + 2) = 2x + 1 + 2 x2 − x + 2 .<br />
<br />
√ √ 2 2 u=v<br />
Đặt u = 2x + 1, v = x − x + 2, (1) trở thành 3uv = u + 2v ⇔<br />
2<br />
u = 2v.<br />
Nếu u = v thì: <br />
(<br />
√ √ 2x + 1 ≥ 0 x ≥ − 1<br />
2x + 1 = x2 − x + 2 ⇔ ⇔ 2<br />
2x + 1 = x2 − x + 2 x2 − 3x + 1 = 0<br />
√<br />
3− 5<br />
x= 2√<br />
⇔<br />
3+ 5<br />
x=<br />
2<br />
Nếu u = 2v thì: <br />
(<br />
√ √ 2x + 1 ≥ 0 x ≥ − 1<br />
2x + 1 = 2 x2 − x + 2 ⇔ ⇔ 2<br />
2x + 1 = 4 x2 − x + 2 4x2 − 6x + 7 = 0<br />
(vô nghiệm).<br />
√ √<br />
3− 5 3+ 5<br />
Vậy, phương trình đã cho có hai nghiệm là x = và x = .<br />
2 2<br />
- Tạo bài toán mới tương tự với bài toán đã cho.<br />
GV yêu cầu HS tìm câu trả lời tại sao lại có thể tạo được phương trình như thế? Có phải mọi<br />
<br />
93<br />
Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Thị Mỹ Hằng<br />
<br />
<br />
phương trình có cấu trúc tương tự như vậy đều giải được và cách giải tương tự như trên hay không?<br />
Thử xét một phương trình có cấu trúc giống (1) (vế trái là căn bậc hai của tích một nhị thức bậc<br />
nhất với tam thức bậc hai, vế phải là một tam thức bậc hai):<br />
p<br />
4 (x + 3) (x2 + 2x + 3) = x2 + 5x + 8 (2).<br />
HS tìm cách biểu diễn vế phải của phương trình (2) tuyến tính theo (x + 3) và x2 + 2x + 3<br />
nhưng không thể được.<br />
<br />
Thật vậy, giả sử có thể phân tích x2 + 5x + 8 = a (x + 3) + b x2 + 2x + 8 . Sử dụng đồng<br />
<br />
<br />
1 = b<br />
nhất thức hai vế ta có 5 = a + 2b , hệ phương trình này vô nghiệm. Do đó phương trình (2)<br />
<br />
<br />
8 = 3a + 8b<br />
không thể giải theo cách của phương trình (1). Mấu chốt của sự không giải được theo cách trên là<br />
do không thể phân tích vế phải theo (x + 3) và x2 + 2x + 3, hay cụ thể hơn, là do hệ phương trình<br />
bậc nhất hai ẩn nhưng lại ba phương trình nên có thể vô nghiệm. Vậy, để tạo được phương trình<br />
tương tự chỉ cần biểu diễn vế phải của (2) theo (x + 3) và x2 + 2x + 3. Vấn đề đặt ra là vế phải<br />
phải là biểu thức nào để có thể biểu diễn được như vậy? Giả sử vế phải đãbiểu thị tuyến tính theo<br />
(x + 3) và x2 + 2x + 3, chẳng hạn vế phải là 3 (x + 3) + 1 x2 + 2x + 3 = x2 + 5x + 12, thì ta<br />
có phương trình:<br />
p<br />
4 (x + 3) (x2 + 2x + 3) = x2 + 5x + 12<br />
Việc chọn hệ số 3 đứng trước x + 3 và hệ 2<br />
√ số 1 đứng√trước x + 2x + 3 cũng có dụng ý là<br />
làm cho phương trình đẳng cấp bậc hai đối với x + 3 và x + 2x + 3 có nghiệm hữu tỉ.<br />
2<br />
<br />
- Trình bày lại lời giải phương trình:<br />
p<br />
4 (x + 3) (x2 + 2x + 3) = x2 + 5x + 12<br />
- Phát biểu bài toán.<br />
Như vậy, bằng cách thay a và b bởi các số cụ thể, HS có một loạt các bài tập tương tự. Và<br />
cũng bằng cách như trên, GV có thể yêu cầu HS đề xuất một số phương trình tương tự như (1) để<br />
có được một hệ thống bài tập phong phú.<br />
Xây dựng một số tình huống có chứa lời giải các bài toán với những sai lầm do tương tự<br />
hóa, hướng dẫn học sinh phân tích để giúp họ nhận ra các sai lầm thường gặp và tìm cách khắc<br />
phục.<br />
Cách thức thực hiện:<br />
- GV xây dựng một số tình huống có chứa lời giải sai lầm hoặc yêu cầu HS giải các bài toán<br />
có thể gặp phải sai lầm do tương tự hóa;<br />
- GV hướng dẫn HS phân tích, tìm ra sai lầm từ các ví dụ cụ thể, sau đó tổng hợp lại để khái<br />
quát cho một lớp các bài toán cùng loại;<br />
- GV hướng dẫn HS tìm các biện pháp dạy học thích hợp nhằm giúp HS khắc phục các sai<br />
lầm.<br />
Ví dụ 6: GV có thể cho HS tìm sai lầm trong các lời giải sau của bài toán "Một hộp đựng<br />
"Một hộp đựng 20 viên bi gồm 8 bi xanh, 7 bi đỏ, 5 bi vàng. Chọn ngẫu nhiên 6 viên bi trong hộp.<br />
Hỏi có bao nhiêu cách chọn để trong 6 viên bi đó có đủ cả 3 màu?".<br />
Lời giải 1: Công việc chọn ngẫu nhiên 6 viên bi trong hộp có thể thực hiện bởi các trường<br />
hợp (TH) sau:<br />
TH 1: Chỉ có màu xanh có C86 cách; TH 2: Chỉ có vàng, loại này không có cách nào (vì chỉ<br />
có 5 viên bi vàng); TH 3: Chỉ có màu đỏ, loại này có C76 cách; TH4: Có cả xanh, đỏ và vàng: x<br />
<br />
94<br />
Rèn luyện kĩ năng tương tự hóa cho học sinh trong dạy học giải bài tập Đại số và Giải tích...<br />
<br />
<br />
cách chọn. Theo quy tắc cộng, ta có: x +C86 +C76 = C20 6 ⇒ x = C 6 - C 6 -C 6 (cách chọn).<br />
20 8 7<br />
Lời giải 2: Công việc chọn ngẫu nhiên 6 viên bi trong hộp có thể thực hiện bởi các trường<br />
hợp (TH) sau:<br />
TH 1: Chỉ 2 màu xanh và đỏ có C15 6 cách; TH 2: Chỉ 2 màu xanh và vàng có C 6 cách;<br />
13<br />
TH 3: Chỉ 2 màu đỏ và vàng có C12 cách; TH 4: Chỉ màu xanh có C86 cách; TH5: Chỉ màu đỏ có<br />
6<br />
<br />
C76 cách; TH 6: Cả xanh, đỏ và vàng có x cách chọn. Theo quy tắc cộng, ta có: x +C15 6 +C 6 +C 6 +<br />
13 12<br />
6 6 6 6 6 6 6 6 6<br />
C8 +C7 =C20 ⇒ x = C20 - C15 -C13 -C12 - C8 -C7 (cách chọn).<br />
Các lời giải trên đã sai lầm ở chỗ: Các TH đưa ra chưa độc lập, việc thực hiện công việc của<br />
TH này bị trùng lặp ở TH kia. Chẳng hạn, đối với lời giải 1, trong C15 6 cách chọn chỉ có hai màu<br />
6<br />
xanh và đỏ, trường hợp cả 6 bi đều xanh sẽ lặp lại trong C13 cách chọn chỉ có 2 màu xanh và vàng.<br />
Đối với lời giải 2, trong C15 6 cách chọn chỉ có hai màu xanh và đỏ, trường hợp cả 6 bi đều xanh sẽ<br />
6<br />
lặp lại trong C8 cách ở TH 4 chỉ có màu xanh.<br />
Trước khi yêu cầu học sinh tìm sai lầm trong hai lời giải này, giáo viên đã cho HS giải bài<br />
toán sau: ""Một hộp đựng 20 viên bi gồm 8 bi xanh, 12 bi đỏ. Chọn ngẫu nhiên 6 viên bi trong<br />
hộp. Hỏi có bao nhiêu cách chọn để trong 6 viên bi đó có đủ cả hai màu?". Có thể giải bài toán<br />
này như sau:<br />
Công việc chọn 6 viên bi trong hộp được thực hiện bởi các trường hợp: TH1: Cả 6 viên bi<br />
đều màu xanh, loại này có C86 cách chọn; TH2: Cả 6 viên bi đều màu đỏ, loại này có C12 6 cách<br />
<br />
chọn; TH3: Có cả hai màu xanh và đỏ có x cách chọn. Theo quy tắc cộng, ta có: x+C12 6 + C6 =<br />
8<br />
6 6 6 6<br />
C20 ⇒ x = C20 -C12 - C8 (cách chọn).<br />
HS đã sử dụng thao tác tương tự hóa để làm ví dụ 1, tức là các em cũng đã phân chia các<br />
cách chọn 6 viên bi theo tiêu chí có cả 3 màu giống như có cả 2 màu (lời giải 1). Trong lời giải 2,<br />
tuy không rập khuôn như lời giải 1 nhưng vẫn có cách suy nghĩ giống như thế, dẫn tới đếm lặp.<br />
Từ đó, có thể đưa ra nhận xét tổng quát về nguyên nhân sâu xa của việc thực hiện thao tác<br />
tương tự sai lầm này là do HS không biết phân chia một bài toán đếm thành các trường hợp riêng<br />
đơn giản hơn để đếm, không biết dựa vào tiêu chí nào để phân chia, không biết yêu cầu của việc<br />
phân chia một khái niệm, từ đó dẫn đến sai lầm là phân chia không đầy đủ các trường hợp, hoặc<br />
các trường hợp đưa ra không độc lập (không biết vận dụng quy tắc cộng) .<br />
Sau khi HS đã làm bài toán "Có bao nhiêu số tự nhiên lẻ, gồm 4 chữ số phân biệt?", GV có<br />
thể yêu cầu HS giải bài toán tương tự "Có bao nhiêu số tự nhiên chẵn, gồm 4 chữ số phân biệt?".<br />
Có một số HS đã giải bài toán này tương tự bài toán đã làm, cụ thể như sau: Giả sử số tự nhiên<br />
cần lập có dạng abcd và công việc lập số tự nhiên này trải qua 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 chọn chữ<br />
số hàng đơn vị d từ tập hợp {0; 2; 4; 6; 8} có 5 cách chọn (tương tự số tự nhiên lẻ, d chọn từ tập<br />
hợp {1; 3; 5; 7; 9}); giai đoạn 2 chọn chữ số hàng nghìn a từ tập E = {0; 1; 2; ...; 9} |{0; d}<br />
có 8 cách chọn; giai đoạn 3 chọn hai chữ b và c từ tập E| {a; d} có A28 cách chọn. Theo quy tắc<br />
nhân có tất cả 5.8.A28 cách chọn. Mỗi cách chọn là một số thỏa mãn yêu cầu bài toán nên đáp số là<br />
5.8.A28 số. Tuy nhiên, lời giải trên đã phạm phải sai lầm ở chỗ trong giai đoạn 1 nếu d chọn là chữ<br />
số 2 thì trong giai đoạn 2 chữ số a có 8 cách chọn, còn nếu trong giai đoạn 1 chữ số d được chọn là<br />
0 thì ở giai đoạn 2 chữ số a lại có 9 cách chọn. Tức là cách chọn ở giai đoạn 2 phụ thuộc vào cách<br />
chọn ở giai đoạn 1. Nguyên nhân sai lầm ở đây là do HS thực hiện thao tác tương tự hóa xem số<br />
cách đếm số chẵn cũng giống như số cách đếm số lẻ và HS nắm không chính xác về điều kiện để<br />
có thể thực hiện quy tắc nhân.<br />
Từ việc phân tích các sai lầm mà HS thường gặp phải do thực hiện thao tác tương tự hóa<br />
trong các ví dụ nêu trên, trong khi dạy học các quy tắc đếm, GV cần thiết và có thể đưa ra những<br />
lưu ý cơ bản về điều kiện tiến hành các quy tắc nhằm giúp HS khắc phục các sai lầm đó.<br />
Đối với quy tắc nhân, GV cần đưa ra sơ đồ sau:<br />
<br />
<br />
95<br />
Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Thị Mỹ Hằng<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Qua sơ đồ này, GV nhấn mạnh để HS thấy công việc A muốn hoàn thành buộc phải trải qua<br />
tất cả các giai đoạn từ A1 đến Ak , không bỏ qua giai đoạn nào, không có cách nào ở giai đoạn thứ<br />
Ai+1 lại có thể phụ thuộc vào cách nào đó ở giai đoạn thứ Ai , hay nói cách, khác ứng với mỗi cách<br />
chọn ở giai đoạn A1 thì sẽ có mi+1 cách chọn ở giai đoạn Ai+1 . Và điều trước hết là phải biết chỉ<br />
ra các hành động cần làm khi thực hiện công việc A, sau đó mới tìm số cách thực hiện mỗi hành<br />
động đó.<br />
<br />
3. Kết luận<br />
Thao tác tương tự hóa rất quan trọng trong cuộc sống cũng như trong học tập. Nếu trong<br />
quá trình dạy học, giáo viên có các biện pháp thích hợp thì học sinh sẽ được rèn luyện kĩ năng này.<br />
Cụ thể là học sinh sẽ giải được các bài toán tương tự dễ dàng hơn, học sinh tạo được bài toán mới,<br />
từ đó góp phần phát triển năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo.<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Hoàng Chúng, 1969. Rèn luyện khả năng sáng tạo toán ở trường phổ thông. Nxb Giáo dục,<br />
Hà Nội.<br />
[2] Nguyễn Huy Đoan (chủ biên), Nguyễn Xuân Liêm, Nguyễn Khắc Minh, Đoàn Quỳnh, Ngô<br />
Xuân Sơn, Đặng Hùng Thắng, Lưu Xuân Tình. Bài tập Đại số và Giải tích 11 nâng cao.<br />
Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
[3] Nguyễn Đức Đồng, Nguyễn Văn Vĩnh, 2001. Lôgic Toán. Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.<br />
[4] D. P. Goocki, 1974., Lôgic học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
[5] Nguyễn Thị Mỹ Hằng, 2013. Thiết lập bài toán mới trên cơ sơ khai thác bài toán đã cho<br />
bằng tương tự hóa. Tạp chí Giáo dục, (318), tr. 43-45.<br />
[6] Trần Khánh Hưng, 2000. Giáo trình phương pháp dạy - học Toán (Phần đại cương). Nxb<br />
Giáo dục, Hà Nội.<br />
[7] Nguyễn Bá Kim, 2002. Phương pháp dạy học môn Toán. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.<br />
[8] G. Polya, 2010. Sáng tạo Toán học. Nxb Giáo dục. Hà Nội.<br />
[9] G. Polya, 2010. Toán học và những suy luận có lí. Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
[10] Đoàn Quỳnh, Nguyễn Huy Đoan, Nguyễn Xuân Liêm, Nguyễn Khắc Minh, Đặng Hùng<br />
Thắng, 2007. Đại số và giải tích 11 nâng cao. Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
[11] Nguyễn Cảnh Toàn, 1997. Phương pháp luận duy vật biện chứng với việc học, dạy, nghiên<br />
cứu toán học, Tập I. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.<br />
ABSTRACT<br />
<br />
Teaching the use of analogy to mathematics students in secondary schools<br />
<br />
In this paper, we look at examples of high school students’ use of the operation of analogy<br />
and ways in which this skill could be taught to students in high school mathematics classrooms.<br />
Keywords: Analogy, student, problem.<br />
<br />
96<br />