intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Rubella và thai nghén

Chia sẻ: Kim Kim | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

84
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay, Rubella và dị tật thai là vấn đề được quan tâm rất nhiều. Phòng khám Vietlife xin trân trọng giới thiệu tài liệu lấy từ sách giáo khoa MALADIE INFECTIEUSE của Pháp, tái bản lần thứ 12 năm 1992.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Rubella và thai nghén

  1. Rubella và thai nghén Hiện nay, Rubella và dị tật thai là vấn đề được quan tâm rất nhiều. Phòng khám Vietlife xin trân trọng giới thiệu tài liệu lấy từ sách giáo khoa MALADIE INFECTIEUSE của Pháp, tái bản lần thứ 12 năm 1992. Hiện nay, Rubella và dị tật thai là vấn đề được quan tâm rất nhiều. Phòng khám Vietlife xin trân trọng giới thiệu tài liệu lấy từ sách giáo khoa MALADIE
  2. INFECTIEUSE của Pháp, tái bản lần thứ 12 năm 1992. Nhiễm trùng thai nghén rất thường gặp, đặt ra vấn đề tế nhị về chẩn đoán và thái độ xử trí (đình chỉ thai nghén hay không, hoặc dùng kháng sinh điều trị). Tùy thuộc vào tác nhân gây bệnh và thời kỳ nhiễm bệnh, có thể dẫn tới: Sẩy thai tự nhiên  Bệnh phôi thai (dị dạng)  Nhiễm trùng thai  Trẻ sinh ra chết ngay khi sinh  Bệnh lý sơ sinh  Bệnh chưa biểu lộ ngay khi sinh, nhưng đôi khi rất đáng sợ sau một thời  gian Theo thống kê của những nước thuộc địa Anh, trong một vài năm T.O.R.C.H (Bệnh Toxoplasmo, Rubella, Cytomegalovirus, Herpes, Others) gặp nhi ều nhất, sau đó đến nhiễm HIV và virus viêm gan B. Nếu các ông Bố, bà Mẹ hiểu được các bệnh lý này một cách tường tận, sử dụng phương pháp phòng bệnh tốt sẽ tránh được hậu quả của các bệnh lý này gây nên. RUBELLA BẨM SINH Với những bệnh nhân không mang thai thì Rubella là bệnh lành tính, ít ảnh hưởng tới sức khỏe. Nhưng nhiều báo cáo cho thấy nếu bị nhiễm bệnh này trong ba tháng đầu của thời kỳ thai nghén, sẽ gây tỷ lệ dị tật rất cao. 1. DỊCH TỄ HỌC 1.1. Rubella bẩm sinh là bệnh thường gặp. Tuy nhiên bệnh giảm đi nhờ các biện pháp dự phòng. Chẳng hạn như ở Pháp năm 1987 có 105 sản phụ bị nhiễm bệnh, nhưng đến năm 1989 chỉ có 43 trường hợp nhiễm Rubella khi mang thai. Trong đó có 17 trường hợp phá thai và 4 trường hợp sinh với dấu hiệu nhiễm bệnh Rubella
  3. bẩm sinh (bị nhiễm trong 3 tháng đầu) 1.2. Nhi ễm Rubella ảnh hưởng trực tiếp tới thai nghén trong thời kỳ mang thai: 0-8 tuần thời kỳ mang thai 85% biến dạng hoặc tàn tật 9-12 tuần… 52%.... 13-20… 16%.... Trên 20 tuần… 0%.... Tuy nhiên nhiễm bệnh muộn sau ba tháng cũng không hoàn toàn tránh được mắc Rubella bẩm sinh tiến triển. 2. ẢNH HƯỞNG TỚI THAI: Có thể có hai bức tranh đối lập nhau 2.1. Hội chứng dị dạng (miêu tả bởi GREGG năm 1941): nó có thể phát hiện được ngay khi sinh hoặc muộn hơn, vì những di chứng của Rubella bẩm sinh tiến triển, nó có thể gặp sau nhiều năm. Thực vậy một số tổn thương tồn tại tiến triển lâu dài. Mặt khác những thiếu hụt về giác quan hoặc thần kinh tâm thần, chỉ có thể phát hiện được trong quá trình phát triển sinh lý vận động của trẻ, đôi khi phát hiện được khi đi học ở trường. Mắt, hệ thống thính giác, tim, hệ thần kinh trung ương là những cơ quan bị tác động một cách chọn lọc. Những dị dạng này thường nhiều và phối hợp với nhau. Tổn thương mắt. Nó thường tổn thương kết mạc hai bên. Người ta cũng có thể thấy dị dạng loại nhãn cầu nhỏ, tăng nhãn áp, đục giác mạc hai bên. Tổn thương thính giác. Điếc thường không đối xứng, hiếm khi điếc hoàn toàn. Nó làm giảm sức nghe (điếc kiểu nhận cản, không phải do dẫn truyền) điếc thường nặng dần. Dị dạng tim. Tất cả dị dạng đều có thể gặp, nhưng hay gặp nhất là còn ống động mạch, hẹp động mạch phổi.
  4. Tổn thương thần kinh. Não bé, chậm phát triển trí tuệ. Những dị dạng khác. Rất hiếm gặp, nhất là răng: giảm sản, ngừng phát triển của một số răng, tật hàm nhỏ. 2.2. Rubella bẩm sinh tiến triển: Đó là nhiễm vi rút toàn thân mãn tính. Vi rút có mặt trong nội tạng và trong hầu họng, nó sinh nở nhanh (khoảng trong 6 tháng). Những tổn thương này phối hợp với dị dạng gặp ngay sau khi sinh. Nó dẫn tới tổn thương nhiều tạng tiến triển, có thể thoái lui hoặc khu trú xung quanh tổn thương di chứng. Rubella tiến triển, trẻ lúc sinh có trọng lượng nhỏ và tất cả những dị dạng ít nhiều phối hợp với nhau bao gồm: ban xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm gan với gan lách phì đại và vàng da, viêm màng não thể bạch cầu có hoặc không có dấu hiệu thần kinh kèm theo, viêm cơ tim, viêm phổi kẽ, tổn thương xương trên X quang. Tỷ lệ chết không phải là hiếm gặp (1 trên 5) Về sau, có thể có bất thường về thần kinh, chậm phát triển tâm thần vận động, có thể làm tăng thêm nguy cơ viêm não Rubella tiến triển. Tiên lượng xa của Rubella bẩm sinh tiến triển là khó đoán trước, đặc biệt là về tâm thần vận động. 3. CHẨN ĐOÁN BỆNH: Thường chẩn đoán dễ bởi tiền sử và những dấu hiệu bất thường. Trong những trường hợp Mẹ không có triệu chứng nhiễm Rubella điển hình lúc mang thai, nhưng trẻ sinh ra nghi bị nhiễm Rubella, để chẩn đoán xác định cần dựa trên : Phân lập vi rút ở trẻ mới sinh (ở họng, nước tiểu, nước não tủy).  Huyết thanh học: có IgM đặc thù lúc đẻ hoặc huyết thanh dương tính trên  6 tháng 4. PHÒNG BỆNH Những thể hoạt động có thể điều trị đặc thù. Với ý đồ tránh sinh ra những đứa trẻ dị tật hoặc nghiêm ngặt hạn chế tối đa số lượng đình chỉ thai nghén, có hai con
  5. đường lựa chọn. 4.1 . Những phụ nữ có thai huyết thanh âm tính ( xét nghiệm huyết thanh trước khi cưới theo luật định) hoặc không biết tình trạng miễn dịch: Những người phụ nữ này phải được theo dõi một cách đặc biệt trong 3 tháng đầu của thời kỳ thai nghén và những vấn đề đặt ra trong hai hoàn cảnh sau: Tiếp xúc với người nghi ngờ nhiễm Rubella  Nghi ngờ có nốt phát ban xuất hiện ở người phụ nữ  Chẩn đoán chỉ bằng huyết thanh học: xuất hiện IgM đặc thù chỉ chẩn đoán  chính xác khi lấy hai mẫu huyết thanh ngay cùng một thời điểm và làm cùng một phòng xét nghiệm. Nó có một kỹ thuật huyết thanh chuẩn, tinh tế và tốn kém. Chẩn đoán nhiễm lúc mang thai có thể làm bằng nghiên cứu IgM trong  máu cuống rốn dưới hướng dẫn của siêu âm… nhưng phải sau 22 tuần Cuối cùng cần nhớ rằng:  - Phòng bệnh bằng cách khám sức khỏe, giáo dục, tiêm phòng trước khi muốn có thai - Không có chỉ dẫn nào ngoài huyết thanh miễn dịch đặc hiệu chứng minh chính xác - Khi có biểu hiện chắc chắn nhiễm bệnh trong 3 tháng đầu thì cần đình chỉ thai nghén ngay mà không phải bàn cãi. 4.2 .Vacxin phòng bệnh Những điểm nêu ở phần 4.1 chỉ chữa lại những thiếu sót của vacxin phòng bệnh, người ta đã chứng minh một cách rộng rãi tính hiệu quả của vắc xin phòng bệnh. - Vacxin phòng bệnh phải tiến hành cho tất cả các phụ nữ ở tuổi sinh đẻ, hoặc huyết thanh âm tính, hoặc không có kiểm soát đặc biệt. Điều đó có lý lẽ khi số lượng chửa đẻ ngoài hôn thú ngày càng tăng và không có thử huyết thanh trước khi cưới. Vắc xin sản xuất từ vi rút sống có tuổi thọ dài, việc tiêm vắc xin phải thực hiện dưới dạng thỏa thuận vì bản thân vác xin cũng có thể gây bệnh. Sự phòng
  6. ngừa này liên quan tới việc có thể xẩy ra quái thai của vi rút như vậy cần chống chỉ định tiêm vắc xin ở những phụ nữ có thai, chỉ nên tiêm trước khi mang thai ít nhất 3 tháng. - Xiết chặt chương trình tiêm chủng vắc xin, phải tiêm một cách hệ thống với mục đích: Tiêm vắc xin cho những đứa trẻ cả hai giới để ngăn chặn tuần hoàn của vi  rút, nguồn lây bệnh cho phụ nữ có thai. Tăng tỷ lệ bao phủ vắc xin để hạn chế lan tràn của bệnh Duy trì và tăng cường tiêm vắc xin cho các trẻ em gái từ 11-13 tuổi  Thể thức tiến hành gồm:  Tiêm chủng rộng rãi (không bắt buộc nhưng khuyên bảo cẩn thận) tất cả  những đứa trẻ gái hoặc trẻ trai trên 15 tháng, nếu có thể phối hợp với vắc xin phòng sởi và phòng quai bị cùng một thời điểm theo D.T.C.P. Tiêm vắc xin cho trẻ từ 2-10 tuổi không kịp tiêm phòng theo chương  trình này. Tái tiêm vắc xin một cách hệ thống cho các bé gái 11 – 13 tuổi 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2