intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Lịch sử ở lớp 5

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

251
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Lịch sử ở lớp 5 trình bày về cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu; thực trạng của việc dạy học Lịch sử ở trường tiểu học; các giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học phần môn Lịch sử cho học sinh tiểu học và một số nội dung khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Lịch sử ở lớp 5

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẨM THỦY TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN CẨM THỦY SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG  DẠY ­ HỌC PHÂN MÔN LỊCH SỬ Ở LỚP 5                                                                  Người thực hiện: Lê Thị Hà                                 Chức vụ: Giáo viên                                 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn                                 SKKN thuộc môn: Lịch sử và Địa lí 1
  2. CẨM THỦY NĂM 2013 a - ®Æt vÊn ®Ò. Với chiều dài Lịch sử oanh liệt hàng nghìn năm, trên dải đất Việt Nam   hình chữ S, mỗi ngày chúng ta lại được chứng kiến những lễ hội lịch sử hào  hùng của dân tộc. Đây là lòng biết  ơn của toàn thể  dân tộc đối với các nhân  vật lịch sử; sự  kiện lịch sử  lớn đã trải qua một thời của dân tộc Việt Nam.   Chúng ta vô cùng tự hào về trang  sử hào hùng của dân tộc, bởi mỗi mảnh đất   quê hương đều từng diễn ra những sự kiện lịch sử lớn của đất nước, nơi sản  sinh nhiều nhân vật lịch sử, nhiều vị anh hùng dân tộc tiêu biểu.  Có được những trang sử  hào hùng và những con người anh hùng  ấy,   bởi: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của  dân tộc ta. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại trỗi dậy, nó kết  thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn…nó lướt qua mọi gian khổ khó  khăn, nó nhấn chìm tất cả  lũ bán nước và cướp nước. Lịch sử  đã có nhiều   cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta...”  Đối với việc giáo dục thế  hệ  trẻ  ­ những “ thế hệ cách mạng cho đời  sau”­ Bác luôn quan tâm đến việc giáo dục truyền thống của cách mạng và  lịch sử, văn hoá của dân tộc. Bác đã từng nói: “Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Thực hiện tư  tưởng của Người, nền giáo dục của chúng ta đã rất coi  trọng giáo dục lịch sử  dân tộc trong việc xây dựng nhân cách những con   người mới xã hội chủ nghĩa “ vừa hồng, vừa chuyên”. Chẳng thế mà chúng ta  đã có những thế  hệ  người Việt Nam trong thời đại của Bác Hồ  vô cùng yêu  nước, sống có hoài bão, có lý tưởng cao đẹp, hết lòng hết sức phụng sự  tổ  quốc, phụng sự nhân dân dân…   Là một giáo viên Tiểu học – người trực tiếp truyền thụ kiến thức đến  cho học sinh, một trong những vấn đề  tôi luôn quan tâm và theo dõi là việc  dạy Lịch sử ở trường Tiểu học. Làm thế  nào để dạy tốt phân môn Lịch sử ở  trường Tiểu học, làm thế  nào để  học sinh yêu thích môn học Lịch sử? Làm  thế  nào để  trong cuộc sống thường nhật của chúng ta có những con người   yêu nước, đầy tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, với dân tộc?  Không còn  những học sinh hư hỏng, xem thường truyền thống lịch sử, mơ hồ với l ịch s ử  dân tộc. Đó là một vấn đề  lớn đòi hỏi tâm huyết và sự  sẻ  chia của các nhà   khoa học, các nhà giáo, nhất là những người trực tiếp giảng dạy  ở bậc Tiểu   học.  2
  3. Trước vấn đề này bằng kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng  dạy tôi xin nêu ra một số  ý kiến với mong muốn góp chút phần nhỏ  bé của   mình vào việc nâng cao chất lượng dạy ­ học phân môn Lịch sử ở lớp 5. B ­ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I­ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: Lịch sử  là môn học về  nghiên cứu và phân tích những sự  kiện đã xảy  ra. Phân môn Lịch sử ở Tiểu học cung cấp cho HS một số kiến th ức c ơ b ản,   thiết thực về : các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu tương đối  có hệ thống theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước   tới nửa đầu thế kỉ XIX. Việc học tập lịch sử không phải chỉ là học thuộc, nạp  vào trí nhớ của các em những lời giảng của thầy hay nội dung SGK mà điều  cốt lõi là thông qua quá trình làm việc với các nguồn tài liệu, HS tự  tạo cho   mình những hình  ảnh lịch sử, sự  hiểu biết về quá khứ, rèn luyện cách thức,   phương pháp tìm hiểu lịch sử.  Phần Lịch sử  lớp 4, lớp 5 không trình bày lịch sử  theo một hệ  thống  chặt chẽ. Mỗi bài học là một sự kiện,  hiện tượng hay nhân vật lịch sử không   thể hình thành một cách cô lập mà luôn gắn liền với một bối cảnh lịch sử cụ  thể. Vì vậy trước khi dạy nội dung của một bài cụ  thể, giáo viên cần giới   thiệu sơ  lược về  bối cảnh lịch sử. Để  đạt hiệu quả  cao, GV cần phải nắm  vững toàn bộ  tiến trình lịch sử  Việt Nam từ  nguồn gốc cho đến nay. Người  giáo viên chính là chiếc cầu nối để đưa các em đến gần hơn với những trang   lịch sử hào hùng của dân tộc, là người định hướng giúp các em có được cách  học có hiệu quả. Đây cũng là kiến thức nền móng cho các em tiếp tục học lên   các cấp học trên. Để  làm được điều đó trước hết người giáo viên phải có  kiến thức vững vàng, am hiểu về lịch sử dân tộc và bản thân người giáo viên   phải là người yêu mến, tự  hào về  lịch sử  của dân tộc mình thì mới thực sự  làm tròn trách nhiệm vẻ vang đó.  Trong sự  nghiệp giáo dục hiện nay , theo tinh thần đổi mới phương  pháp dạy học, trong đó người giáo viên luôn giữ vai trò tổ  chức chỉ đạo, học  sinh tích cực  chủ  động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự tham gia hứng thú  và trách nhiệm . Người giáo viên đảm nhận vai trò xây dựng kế hoạch, hướng  dẫn hoạt động và hợp tác. Người học( HS) được người dạy( GV) theo sát   giúp đỡ  trong quá trình học nên tích cực tự  giác và thể  hiện sự  năng động   trong hoạt động học tập, kết quả  cuối cùng là học sinh đã tiếp thu được  những   nguồn   tri   thức   mới­   bằng   sự   khám   phá   của   bản   thân   với   sự   định  3
  4. hướng, giúp đỡ  của giáo viên.Tự  mình khám phá ra tri thức học sinh sẽ  cảm   nhận được sự hứng thú say mê và yêu mến môn học hơn so với những gì học  sinh tiếp nhận một cách thụ động từ giáo viên . II .THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ  Ở TRƯỜNG TIỂU   HỌC    Phân môn Lịch sử  trong trường Tiểu học có một vị  trí hết sức quan   trọng trong việc góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh đồng  thời tạo cơ sở để các em tiếp thu có hệ thống và vững chắc chương trình của   môn Lịch sử ở các cấp học trên. Về góc độ xã hội, yêu cầu dạy Quốc sử phải   được đặt ngang hàng với dạy Quốc văn mới có thể  góp phần đào tạo được  những con người không chỉ biết, hiểu, tự hào về nguồn cội của mình mà còn  biết biến quá khứ của ông cha thành sức mạnh của thời đại mình đang sống,   làm cho dân tộc mình không những không bị “hoà tan” mà còn luôn “ đậm đà  bản sắc” trên con đường hội nhập và phát triển. Phải khẳng định ngay rằng với những cố  gắng nhất  định, việc dạy  Lịch sử trong các trường Tiểu học đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục,  hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo những yêu cầu đặt ra. Chúng  ta đã có nhiều giờ dạy Lịch sử ở bậc Tiểu học rất hay, rất xúc động, làm cho   cả  người dạy, người học và người tham dự không khỏi tự  hào rằng mình là  người  Việt Nam­ Một  dân tộc với truyền thồng “ Nghìn năm  văn hiến”.  Những tiết dạy ­ học Lịch sử như thế đã thực sự mang lại những giá trị to lớn  trong việc hình thành  ở  học sinh những phẩm chất cao đẹp của người Việt  Nam, nó có tác dụng hơn hẳn những giáo huấn thông thường. Đặc biệt nó đã  ngăn được những  ảnh hưởng tiêu cực của cuộc sống đến sự  hình thành và   phát triển của nhân cách các em .   Tuy nhiên, việc dạy học này chưa được thực hiện đều  ở  đại bộ  phận   giáo viên của các trường. Trong nhiều tiết dạy người GV vẫn chưa tổ chức   được cho học sinh sưu tầm tư liệu và chuẩn bị bài chu đáo, chưa tạo ra được  được sự hứng thú cho học sinh tham gia học hỏi và tìm hiểu kĩ bài học; nhiều   giờ  Lịch sử  diễn ra nặng nề  hoặc khô khan, hiệu quả  giáo dục thấp. Điều   này dẫn đến có những học sinh không biết gì về truyền thống lịch sử cha ông,  4
  5. đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn các nhân vật và triều đại  Lịch sử. ..   Điều này dẫn đến nhiều học sinh không biết gì về truyền thống lịch sử  cha ông. Chúng ta thấy rất buồn sau mỗi kì thi đại học lại có nhiều bài thi  nhầm lẫn đến rơi nước mắt khi trả  lời các kiến thức cơ  bản về  lịch sử  .   Điều này một phần có lỗi từ cái gốc lịch sử từ bậc học Tiểu học của các em­   Đây là một điểm yếu cần được khắc phục.Trước những thực trạng đó, trong  quá trình giảng dạy phân môn Lịch sử   ở  lớp 5 tôi đã vận dụng một số  kinh  nghiệm bản thân có được trong quá trình học tập và tích lũy kinh nghiệm của   bản thân để dạy­ học xem là có hiệu quả  thông qua đè tài nghiên cứu:  “Một  số biện pháp nâng cao chất lượng dạy ­ học phân môn Lịch sử ở lớp 5” III   ­   CÁC   GIẢI   PHÁP   ĐỂ   NÂNG   CAO   CHẤT   LƯỢNG   DẠY   HỌC   PHẦN MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC: 1. Thay đổi nhận thức của người dạy, người học: Một số  người cho rằng dạy Lịch sử   ở Tiểu học là dễ  vì kiến thức ít.  Điều đó hoàn toàn không đúng và sẽ  không thể  thực hiện được việc giảng  dạy Lịch sử ở Tiểu học đạt chất lượng, vì: ­ Một là: Cấu trúc một bài Lịch sử  ở Tiểu học mang tính sơ  giản, chứ  không có nội dung đầy đủ và có tính hệ thống chặt chẽ ( như các cấp học cao   hơn) nên rất khó dạy cho học sinh, nhất là học sinh Tiểu học với vốn sống,   vốn kiến thức còn rất hạn chế, sơ sài. ­ Hai là:  Tư duy của học sinh Tiểu học còn mang tính tư duy trực quan  mà Lịch sử lại có tính quá khứ. Vì thế không cho phép người học được chứng   kiến một cách trực tiếp những con người, những sự  kiện…đang diễn ra nên  việc “dựng” lại những nhân vật, sự  kiện lịch sử nhất là trong điều kiện còn   thiếu thốn về phương tiện, đồ dùng dạy học là việc không dễ. ­ Ba là: Lịch sử  vốn là những sự  việc đã diễn ra,  có thật, nó tồn tại  khách quan trong quá khứ, không thể  phán đoán, suy luận, tưởng tượng để  nhận thức lịch sử  nên việc dạy học theo hướng “ tích cực hoá hoạt động tư  duy của học sinh” đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng các phương pháp  với nhiều công  phu mà vẫn khó đạt được hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó, mục tiêu của dạy học Lịch sử ở Tiểu học chỉ là cung cấp   cho  học  sinh  những   kiến  thức   sơ  giản,  ban  đầu  của  lịch  sử  dân  tộc  nên  chương trình chỉ có thể lựa chọn những sự kiện, những nhân vật lịch sử  tiêu  biểu của mỗi giai đoạn lịch sử  mà không thể  dạy cho các em một hệ  thống   kiến thức chặt chẽ  như  các cấp học trên. Cũng chính vì không có hệ  thống  5
  6. chặt chẽ nên những “ nhịp dẫn” của “cây cầu lịch sử” bị “đứt đoạn” làm cho  người giáo viên gặp khó khăn trong việc “dẫn” các em đi từ thời đại này tới   thời đại kia, từ  sự  kiện này tới sự  kiện khác. Giáo viên cần nắm vững nội  dung , cấu trúc SGK Lịch sử  và Địa lí kết hợp với sự  hiểu biết và tìm tòi   thông qua các tài liệu để đạt hiệu quả cao trong mỗi bài dạy. Chẳng hạn khi   dạy bài “ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời”         (Lịch sử lớp 5), người giáo   viên phải giúp học sinh hiểu được hoàn cảnh lịch sử  của sự  kiện lịch sử  trọng đại này trước khi bước vào nội dung chính của bài. Nếu ở các cấp học  trên thì thao tác này không đòi hỏi người giáo viên phải nghiên cứu kĩ các tư  liệu và phải giảng giải nhiều vì trước đó học sinh đã được học đầy đủ  về  tình hình lịch sử của đất nước giai đoạn 1925 ­ 1930 nên hiểu được bối cảnh  lịch sử với yêu cầu cấp bách phải có một chính đảng thống nhất và đủ mạnh   để lãnh đạo cách mạng nước ta. Ngược lại ở Tiểu học trước khi học bài này   học sinh mới được học về  một số  nhân vật và sự  kiện lịch sử  tiêu biểu nên  không thể  hiểu được đầy đủ  bối cảnh lịch sử  của sự  kiện Đảng cộng sản  Việt Nam ra đời. Vì vậy người giáo viên phải có khả  năng khái quát vấn đề  rất cao, vừa dẫn được cái xa, vừa nêu được cái gần, phù hợp với đặc điểm  nhận thức của học sinh để  không mất nhiều thời gian mà vẫn giúp các em   nhanh chóng hiểu được vấn đề. Muốn vậy người giáo viên phải thông hiểu   lịch sử  và có kho tàng ngôn ngữ  giàu có với khả  năng diễn đạt ngắn gọn,   trong sáng và dễ  hiểu, phù hợp với nhận thức của học sinh tiểu học. Điều   này quả  là không dễ  nhưng nếu chịu khó trau rồi, rèn luyện với lòng yêu  nghề, yêu học trò và yêu lịch sử  dân tộc thì người giáo viên Tiểu học hoàn   toàn có thể làm được. Cụ  thể  là khi dạy đến bài này giáo viên cần phải nghiên cứu để  dẫn  dắt HS đi từ các vấn đề lịch sử: Giữa năm 1929 các tổ chức cộng sản là Đông  Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản  liên đoàn nối tiếp nhau xuất hiện. Nó đã tạo ra tiền đề trực tiếp cho sự ra đời   của Đảng cộng sản Việt Nam.   Tuy đều là các tổ  chức cộng sản nhưng cả  ba tổ chức đều hoạt động  riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành  ảnh hưởng của nhau nên đã gây ra   trở  ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách mạng  Việt Nam là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước để  lãnh  đạo cách mạng. Với tư cách là phái viên của Quốc tế  Cộng sản, Nguyễn Ái  Quốc đã đứng ra triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản   Việt Nam. Hội nghị  diễn ra từ  ngày 3 đến 7­2­1930 tại Cửu Long, Hương   Cảng, Trung Quốc. Với tài năng và uy tín cao của người Hội nghị đã nhất trí   tán thành thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một chính Đảng duy  nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt   Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sự  kết hợp nhuần nhuyễn của ba  6
  7. nhân tố: Chủ  nghĩa mác – Lê nin, phong trào công nhân và phong trào yêu  nước. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự  chuẩn bị  đầu tiên có tính chất   quyết định đến bước phát triển mới và thắng lợi của cách mạng Việt Nam ở  giai đoạn tiếp theo.           Từ sự khái quát tiến trình lịch sử để dẫn dẫn đến sự ra đời của Đảng   cộng sản Việt Nam.  2. Sử dụng kênh hình hiệu quả: Cũng giống như một số môn học khác, trong SGK Lịch sử 5, kênh chữ  giữ vai trò chủ  yếu trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn   có vai trò quan trọng ; nó không chỉ minh hoạ cho kênh chữ, mà còn là nguồn   cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho HS. Trong giờ  dạy Lịch sử, có những giáo viên không hiểu kênh hình nên  không khai thác được kênh hình với đúng vai trò của nó mà chỉ đưa ra như một  sự minh hoạ đơn thuần. Kênh hình trong sách giáo khoa của phân môn Lịch sử  hiện nay nhiều, phong phú, màu sắc và trình bày đẹp, ngoài tính minh hoạ  mỗi bức tranh, bức  ảnh còn hàm chứa những thông tin lịch sử  với mức độ  khác nhau phục vụ việc dạy và học đạt hiệu quả. Có thể phân loại kênh hình  trong sách giáo khoa phân môn Lịch sử như sau: ­ Loại thứ  nhất là bản đồ, lược đồ: Chủ  yếu được bố  trí  ở  loại bài  về  các cuộc khởi nghĩa, các chiến dịch, các trận đánh nhằm giúp học sinh  hiểu được vị  trí của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh… cách bố  trí lực   lượng hai bên và diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh… Khi khai thác lược đồ  giáo viên phải giúp học sinh hiểu được ý nghĩa  sâu xa của cách trọn vị trí trận địa, việc bố phòng và hướng tấn công của hai   bên qua đó làm nổi bật âm mưu của địch, sự  thông minh và nghệ  thuật quân   sự tài tình cũng như tinh thần chiến đấu dũng cảm của ta từ đó giáo dục lòng   yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho các em. Ví dụ ở bài: “Thu ­ đông 1947,   Việt Bắc “ mồ chôn giặc Pháp”( Lịch sử lớp 5), khi hướng dẫn trên lược đồ  người giáo viên không dùng lại  ở  mức độ  chỉ  cho học sinh thấy các hướng   tấn công của địch và cách chọn vị trí tiêu diệt địch của ta một cách đơn thuần  mà còn phải giúp các em phân tích để  thấy âm mưu thâm độc của Thực dân  Pháp trong việc bao vây nhằm tiêu diện gọn, chặt  đứt mọi đường  rút và  đường liên hệ của ta với bên ngoài nhưng với việc “ nắm địch”, “ hiểu địch”   tốt và bằng nghệ thuật quân sự tài tình ta đã hoá giải và đập tan âm mưu của  chúng. Trong quá trình dạy các bài Lịch sử  có liên quan đến các cuộc khởi  nghĩa , các chiến dịch người giáo viên có thể  tận dụng các tranh  ảnh từ  lớp   này để dạy cho lớp khác , giúp cho tiết học phong phú và sinh động hơn.Ví dụ  7
  8. : Dạy bài Chiến thắng lịch sử  Điện Biên Phủ   ở  Lớp 5 có thể  sử  dụng lược  đồ này ở lớp 4 . ­ Loại kênh hình thứ hai là tranh, ảnh tư liệu: Loại này có ở loại bài  về  các cuộc khởi nghĩa, các chiến dịch, loại bài về  chính trị  xã hội và thành  tựu. Đó là tranh ảnh về các cuộc khởi nghĩa, các cuộc biểu tình, về một loại  vũ khí nào đó, về tình hình chính trị, kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân,   về các thành tựu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật…của mỗi triều đại ứng   với mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với loại bài này người giáo viên phải   am hiểu đầy đủ về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, khoa học,   kỹ thuật của mỗi thời kỳ mới có thể hiểu và khai thác tốt kênh hình phục vụ  việc giảng dạy đạt hiệu quả cao.  Việc khai thác tranh ảnh thể hiện các thành tựu văn hoá như điêu khắc,  kiến trúc, các giá trị  văn hoá phi vật thể  là khó khăn hơn cả  với người giáo  viên vì đây là những lĩnh vực không dễ hiểu và càng không dễ chuyển tải đến   học sinh, nhất là học sinh tiểu học.Vì vậy giáo viên cần có sự đầu tư sưu tầm  tranh ảnh liên quan đến nội dung bài học, chuẩn bị chu đáo các tư liệu về các   giá trị  văn hóa của các nhà nghiên cứu Lịch sử  có ở  trên sách báo và trên các  trang mạng.  Tất nhiên khi diễn đạt ý này cho học sinh tiểu học phải bằng   thứ  ngôn ngữ  và cách diễn đạt phù hợp với nhận thức của các em, đặc biệt  phải bằng các hình ảnh tư liệu trực quan. ­ Loại kênh hình thứ  ba là  ảnh chân dung nhân vật lịch sử:  Đây là  ảnh của các nhân vật lịch sử  trong loại bài dạy về  nhân vật lịch sử. Số  bài  dạy về các nhân vật lịch sử tiêu biểu trong chương trình Lịch sử lớp 5 không  nhiều Cái mới của loại bài này so với chương trình cũ là dạy nhân vật lịch sử  thông qua và gắn liền với sự kiện lịch sử chứ không thuần tuý kể về nhân vật   lịch sử như trong chương trình cũ. Vì vậy, việc khai thác ảnh chân dung của   nhân vật phục vụ  bài dạy phải đảm bảo nguyên tắc: Làm nổi bật tư  chất,   nhân cách nhân vật nhưng không quá xa đà, không tách rời nhân vật lịch sử ra   khỏi mối quan hệ với thời đại của nhân vật và sự kiện lịch sử mà nhân vật có  vai trò quyết định. Ví   dụ   khi   dạy   một   số   bài:   “Bình   Tây   đại   nguyên   soái   Trương  Định”;Nguyến Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước; Cuộc phản công ở  kinh thành Huế; Phan Bội Châu và phong trào Đông du; Quyết chí ra đi tìm   đường cứu nước; Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập.Đây là một số bài gắn với   sự  kiện và giai đoạn lịch sử  với sự  xuất hiện của các nhân vật Lịch sử  tiêu  biểu , vì vậy giáo viên cần sử dụng triệt để các hình ảnh, chân dung các nhân   vật lịch sử  và có sự  so sánh vai trò của họ   ở  mỗi giai đoạn lịch sử  khác   nhau( Nguyễn Tất Thành ­ Chủ tịch Hồ Chí Minh) 8
  9. 3. Vận dụng các kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử: Việc vận dụng một cách hợp lý kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử sẽ  làm cho giờ Lịch sử hay hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, cuốn hút học sinh   hơn và cuối cùng là làm cho tiết dạy ­ học Lịch sử  mang lại hiệu quả  cao   hơn. Thường là việc người giáo viên đọc những trích đoạn thơ  về  nhân vật  lịch sử, sự kiện lịch sử ở phần giới thiệu bài học, phần củng cố, liên hệ, cũng   có khi là cả trong phần chính của bài. Ví dụ  khi giới thiệu bài “ Quyết chí ra  đi tìm đường cứu nước” ( Lịch sử  lớp 5), người giáo viên bằng giọng đọc  truyền cảm của mình có thể  đọc hoặc ngâm một trong số  các trích đoạn thơ  như: “ Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới thân tàu đưa tiễn Bác Khi bờ bến dần lui, làng xóm khuất Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở Xa nước rồi càng thấy nước đau thương...” ( Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên) Hay đoạn thơ trong bài “ Bác ơi” của nhà thơ Tố Hữu: “Từ đó người đi những bước đầu Lênh đênh bốn biển một con tàu Cuộc đời sóng gió trong than bụi Tay đốt lò, lau chảo, thái rau”. Hoặc bài thơ miêu tả Bác Hồ trong buổi lễ đọc bản Tuyên Ngôn Độc lập: “Hôm nay, sáng mồng 2 tháng 9 Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình Muôn triệu tim chờ chim cũng nín  Bỗng vang lên tiếng hát ân tình. Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh. Người đứng trên đài lặng phút giây 9
  10. Trông đàn con đó vẫy hai tay Cao cao vầng trán ngời đôi mắt Độc lập bây giờ mới thấy đây. …………………….. Thường thì các anh hùng dân tộc và các sự  kiện lịch sử  hào hùng của   ông cha ta đều được phản ánh trong văn học nên rất dễ  để  người giáo viên  lựa chọn những câu thơ  hay, những đoạn trích hay, phù hợp, trong các tác   phẩm văn học đưa vào bài giảng của mình, làm cho tiết dạy ­ học Lịch sử có   được những hiệu ứng mà một tiết dạy sử thông thường không thể đạt được.  Mặt khác, các bài thơ  gắn với các sự  kiên lịch sử  giúp cho các em dễ  nhớ  các sự  kiện lịch sử  đã học vừa bổ  trợ  thêm các kiến thức về  văn học,  cảm thụ văn học cho các em. 4. Chia các bài học thành các dạng bài học cơ bản và đưa ra phương  pháp dạy học đặc trưng cho các dạng bài đó:  Ví dụ: Chương trình phân môn Lịch sử lớp 5 có thể chia ra các dạng bài: 4.1 Dạng bài thứ nhất: Dạng bài về thành tựu kinh tế – chính trị, văn hoá ­ xã hội. * Nội dung chính: ­ Hoàn cảnh ra đời của thành tựu đó. ­ Vài nét tiêu biểu của thành tựu. ­ Giá trị thực tiễn của thành tựu. ­ Kết quả , ý nghĩa của thành tựu. ` * Gồm các bài dạy: ­ Vượt qua tình thế hiểm nghèo (lớp 5) ­ Hậu phương những năm sau chiến dịch Biên giới (lớp 5) ­ Nước nhà bị chia cắt (lớp 5) * Vấn đề cần lưu ý: ­ Phải mô tả được tình hình nước ta như thế nào, tình cảnh đất nước, quan  lại, chính quyền, cuộc sống nhân dân. ­ Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm gì,  làm như thế nào và kết quả của những việc làm đó. * PPDH đặc trưng: 10
  11. ­ Kể chuyện ­ Phương pháp vấn đáp – tìm tòi .­ Phương pháp thảo luận nhóm. ­ Sử dụng đồ dùng dạy học. 4.2 Dạng bài thứ hai: Dạng bài về nhân vật lịch sử *Nội dung chính:  ­ Nhân vật lịch sử nảy sinh trong hoàn cảnh lịch sử như thế nào? ­ Hoàn cảnh cụ thể của nhân vật( tên, nơi sống, nguyện vọng..) ­ Suy nghĩ , hành động cụ thể của nhân vật  ­ Những đóng góp của nhân vật. * Gồm các bài dạy: “Bình Tây Đại Nguyên Soái” Trương Định ­ Nguyễn Trường Tộ mong muốn  canh tân đất nước ­ Cuộc phản công ở kinh thành Huế  ­ Phan Bội Châu và  phong trào Đông du ­ Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước . * Vấn đề cần lưu ý: ­ Cần khai thác tốt hình ảnh (tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử. ­ Cho HS biết nhân vật lịch sử là người như thế nào? (sinh năm nào, ở đâu,  làm gì, có đặc điểm tính cách gì nổi bật, đời sống nội tâm, tư tưởng, tình cảm  thế nào, tài năng đức độ ra sao?) ­ Qua đó GV tiến hành giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho HS về lòng  biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với nhân vật lịch sử. * PPDH đặc trưng: ­ Kể chuyện. ­ Sắm vai. ­ Miêu tả, tường thuật kết hợp với đàm thoại. 4.3 Dạng bài thứ ba: Dạng bài về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch *Nội dung chính: ­ Hoàn cảnh lịch sử (thời gian , địa điểm, lí do) ­ Diễn biến chính. 11
  12. ­ Kết quả. ­ Ý nghĩa. * Gồm các bài dạy: ­ Chiếm tỉ lệ khá nhiều trong chương trình Lịch sử lớp 5. * Vấn đề cần lưu ý: ­ Giúp HS nắm được nguyên nhân (hoàn cảnh) dẫn đến cuộc khởi nghĩa,  kháng chiến, chiến dịch.­ Diễn biến.­ Kết quả và ý nghĩa. * PPDH đặc trưng: ­ Kể chuyện. ­ Sắm vai. ­ Thảo luận. ­ Vấn đáp. Kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan. 4.4 Dạng bài thứ tư: Dạng bài về triều đại, hoạt động xây dựng, sản xuất phát triển kinh tế. * Gồm các bài dạy: Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta ­ Xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà  Bình. * Vấn đề cần lưu ý: ­ Sự ra đời của triều đại đó. Phải giúp HS nắm được Vì sao nhà nước/ triều  đại/ Đảng (Chính phủ) phải tiến hành hoạt động đó? Hoạt động đó nhằm  mục đích gì? Mô tả hoạt động/ quá trình đó diễn ra như thế nào?Kết  quả/thành tựu/vai trò/ý nghĩa của hoạt động đó đối với đất nước. * PPDH đặc trưng: ­ Phương pháp vấn đáp – tìm tòi. ­ Phương pháp thảo luận nhóm. 4.5 Dạng bài thứ năm Dạng bài ôn tập, tổng kết. * Gồm các bài dạy: Bài 11: Ôn tập: Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ­  Bài 18: Ôn tập: Chín năm kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc (1945­1954) Bài 29: Ôn tập: Lịch sử nước ta từ giữa thế kỉ XIX đến nay. 12
  13. * Vấn đề cần lưu ý: ­ Hệ thống hoá và củng cố lại những kiến thức đã học cho học sinh. Vẽ sơ  đồ. ­ Lập bảng niên biểu. Thống kê. Tìm các dẫn chứng. Nêu ý nghĩa của những  sự kiện lịch sử tiêu biểu. * PPDH đặc trưng: ­ Phối hợp nhiều phương pháp dạy học của môn học. 5. Những giải pháp được xem là có hiệu quả nhất. 5.1: Căn cứ vào việc nghiên cứu kĩ nội dung chương trình và những đặc  trưng của môn học để người giáo viên có thể phân chia các bài  thành các  dạng bài học cơ bản và đưa ra phương pháp dạy học đặc trưng cho các dạng  bài đó. Trong quá trình dạy học môn Lịch sử ở lớp 5, tôi luôn bám sát việc :  Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.Trên tinh thần sử dụng  đúng mức, đúng chỗ, đúng lúc các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học  truyền thống cũng như hiện đại để phát huy tối đa mặt mạnh của từng  phương pháp và sự phối hợp giữa các phương pháp. Để thực hiện yêu cầu  trên, tôi đã vận dụng dạy theo quy trình sau:  Bước 1: GV đặt vấn đề cần giải quyết trong bài học thông qua việc  nêu các tình huống có vấn đề, liên quan tới nội dung bài học. Bước 2: Tổ chức cho HS khai thác các tư liêu trong SGK, tranh ảnh ,  bản đồ, lược đồ,..Qua đó, các em có thể hình dung, có biểu tượng về các sự  kiện, hiện tương lịch sử. Bước 3: Trên cơ sở các biểu tượng về lịch sử đã được hình thành GV  sẽ đặt các câu hỏi, đưa ra các bài tập và vận dụng các hình thức tổ chức dạy  học (cá nhân, nhóm, cả lớp) giúp HS bước đầu biết so sánh các điểm giống và  khác nhau nêu đặc điểm, tổng hợp những nét chung của sự kiện, hiện tượng  lịch sử. Bước 4: Từ những hiểu biết trên, GV tổ chức cho HS trình bày dưới  nhiều hình thức khác nhau ( nói, viết , vẽ,...) về một sự kiện, hiện tượng lịch  sử một cách sinh động và chính xác; đồng thời các em cũng biết vận dụng các  kiến thức đã học vào các nội dung như tích  hợp bảo vệ di tích lịch sử và di  tích văn hóa của dân tộc. 5.2: Một trong những kinh nghiệm bản thân tôi đã vận dụng trong quá  trình dạy học phân môn Lịch sử ở lớp 5 góp phần to lớn vào việc nâng cao  chất lượng môn học là việc sử dụng các tư liệu cho môn học( Tư liệu viết,  tư liệu băng hình, tư liệu tranh ảnh)để minh họa cho các sự kiện, nhân vật  lịch sử trong bài giảng trên lớp. Hình thức này dễ sử dụng và đem lại hiệu  13
  14. quả tốt cho tiết học,  nhất là các bài học lịch sử dân tộc, bài lịch sử địa  phương có các sự kiện liên quan đến lễ hội. Đặc biệt, bản thân tôi đã mạnh  dạn việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy một số tiết học dưới dạng  trình chiếu và đã đem lại một số hiệu quả nhất định. lôi cuốn HS trong học  tập.Với những hình ảnh, tư liệu sống động, phong phú của các lễ hội sẽ góp  phần làm tái hiện cho HS những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử bổ xung  những kiến thức lịch sử đã học trên lớp một cách cụ thể hơn. 5.3: Một số địa chỉ cụ thể minh họa cho việc vận dụng linh hoạt các  phương pháp và hình thức tổ chức dạy học môn Lịch sử và bước đầu áp dụng  CNTT vào dạy học. *Ví dụ khi dạy bài: Tiến vào Dinh Độc Lập( Trang 55) Đây là loại bài Lịch sử sự kiện, vì vậy GV cần nêu được nội dung  chính như: Phần bài mới:  ­ Giới thiệu hoàn cảnh, kết hợp với chỉ bản đồ ­  Hs xem đoạn  băng về chiến dịch Hồ Chí Minh.(đã được BGD cung  cấp), kết hợp với sử dụng lược đồ Chiến dịch Hồ Chí Minh( Từ 26/4 đến  30/4/1975) ­ Sau khi xem tư liệu, HS trả lời chiến dịch Hồ Chí Minh được bắt đầu  vào thời gian nào? Hãy kể 5 cánh quân cùng tiến công giải phóng Sài Gòn?  Khí thế của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy?  Chiến dịch kết thúc bằng sự  kiện nào? ­ GV giới thiệu: Chúng ta vừa được sống trong không khí hào hùng của  lịch sử dân tộc ... ­Vậy tiến vào Dinh Độc Lập là lữ đoàn nào? * GV bổ sung thêm. ­Yêu cầu HS làm việc nhóm đôi: Kể lại sự kiện lữ đoàn xe tăng của ta  tiến vào Dinh Độc Lập. ­ GV theo dõi động viên các nhóm làm việc. ­ Đại diện nhóm trình bày sự kiện xe tăng của ta tiến vào Dinh Độc  Lập. ­ Gv chốt ý, nhấn mạnh sự kiện xe tăng ta tiến vào Dinh Độc Lập và lá  cờ cách mạng được cắm trên nóc Dinh Độc Lập.  * Để tìm hiểu các nội dung còn lại của bài học GV cho Hs sắm vai đoạn hội  thoại  Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện (Thảo luận nhóm 3 gồm  3  nhân vật : Dương Văn Minh, chiến sĩ cách mạng, người dẫn chuyện.) 14
  15.             ­Thảo luận nhóm về ý nghĩa của chiến dịch.             ­ Hoạt động củng cố GV có thể cho Hs xem băng về Dinh Độc Lập  ngày nay hoặc niềm vui giải phóng.  Tóm lại, bên cạnh việc trú trọng dạy học theo hướng tích cực thì việc  ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn Lịch sử là một hướng đi đúng  đắn. Công việc này nếu được GV áp dụng thường xuyên và hợp lí không chỉ  giúp HS nắm vững kiến thức, mà còn làm cho HS thêm say mê, hứng thú yêu  thích học môn Lịch sử. 6. Các giải pháp khác: Một trong ba đặc trưng của phân môn lịch sử  đã chỉ  ra rằng: Lịch sử  qua đi nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại “dấu vết ” của nó qua  kí  ức của nhân loại như  văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ  hội,.. qua  các chứng tích lịch sử, các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa.  Những chứng cứ  vật chất đó chính là cơ  sở  để  trình bày hay nhận thức về  lịch sử. Vì vậy Gv cần phải hết sức quan tâm đến các hình thức tổ chức dạy  học lịch sử đa dạng, tạo điều kiện để HS tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói   trên. Vì vậy có thể chia thành các nhóm giải pháp như sau: a . Gắn kỷ niệm các ngày lễ  lớn, các sự  kiện lịch sử  với việc dạy   học phân môn Lịch sử:  Trong quá trình trực tiếp giảng dạy, giáo viên cần  hướng dẫn học sinh tìm hiểu về các ngày lễ  lớn, các sự  kiện lịch sử qua các  hoạt động: đọc báo, xem truyền hình (các hình ảnh tư liệu), đài phát thanh …  để giúp các em hiểu rõ, nắm sâu hơn về các sự kiện và nhân vật lịch sử.  b . Gắn việc tham quan dã ngoại với việc tham quan bảo tàng, di tích   lịch sử dâng hoa lên tượng anh hùng để các em cảm nhận được hồn sử:  Tổ chức cho học sinh tham quan dã ngoại các di tích lịch sử ­văn hóa, các  cảnh đẹp ở địa phương, gặp gớ các cá nhân , tập thể trực tiếp tham gia vào  những sự kiện lịch sử và hoạt động xã hội; tham quan các bảo tàng lịch sử để  các em được trực tiếp nắm được các sự kiện, nhân vật lịch sử. c. Hướng dẫn học sinh cách học ở nhà: Việc chuẩn bị bài ở nhà của  học sinh rất quan trọng. Giáo viên cần phải giải thích bài học lịch sử sắp tới  để học sinh ở nhà có thể sưu tầm tài liệu, tranh ảnh liên quan để tham gia  thảo luận, các em sẽ thích thú nếu được hướng dẫn tự sưu tầm tài liệu cho  tiết học mới. 15
  16. IV­ KIỂM NGHIỆM: 1. Kết quả về chất lượng thu được: Ngay từ đầu năm học, tôi đã đưa sáng kiến vào áp dụng giảng dạy  tại  các lớp 5A, 5B, 5C của trường tiểu học thị trấn Cẩm Thủy. Kết quả thu  được như sau: So với đầu năm chất lượng học tập của học sinh khi học phân  môn Lịch sử đã tiến bộ rõ rệt.  Số lượng học sinh có điểm kiểm tra thường  xuyên là điểm khá, giỏi ngày càng tăng, chất lượng thi kiểm tra cuối kì I tăng  rõ rệt. Cụ thể: Đối chiếu kết quả môn Lịch Sử HKI với chất lượng đầu năm. Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Đầu  Kì I Đầu  Kì I Đầu  Kì I Đầu  Kì I năm năm năm năm 5A 24 13 20 03 04 08 0 \ \ 5B 26 11 16 05 07 10 03 \ \ 5C 20 05 07 06 09 09 04 \ \ 2. Kết quả về tình cảm với bộ môn:      Trước đây, nhiều học sinh sợ khi đến giờ Lịch sử và không thích học Lịch  sử. Đến nay, các em chờ đón được học một tiết sử hiếm hoi trong tuần với  tất cả lòng nhiệt tình và hào hứng của mình, trong giờ học các em chăm chú,  chủ động tiếp thu kiến thức. Các em đã coi mỗi giờ học là một cuộc tranh tài,  một cuộc thi nho nhỏ để tìm ra kiến thức mới, bản thân tôi cũng thấy rất vui  khi sau mỗi tiết học các em lại ghi chép các con số, sự kiện liên quan đến nội  dung Lịch sử vừa học vào sổ tay của mình để nhớ và vận dụng sau này.Các  em được trở lại khí thế hào hùng của dân tộc trước kia đã cách xa các em rất  lâu. Từ đó làm cho các em thêm yêu quê hương, yêu đất nước hơn.  KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT. 16
  17. I­ Kết luận:        Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực đã khiến mối  quan hệ  thầy ­ trò trong nhà trường bắt đầu có sự  thay đổi. Vị  trí trung tâm   của người  thầy giáo không còn  ở  nghĩa truyền thống và đã bắt đầu dịch   chuyển sang học sinh. Giáo viên không chỉ  đơn thuần truyền thụ  kiến thức   cho học sinh tiếp nhận mà còn là sự  phản ảnh trở lại của các em. Trong thời  đại bùng nổ  thông tin, khi học sinh có nhiều kênh tiếp nhận thông tin thì   trường học phải là kênh duy nhất truyền đạt kiến thức một cách có hệ thống,  trong đó giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn. Trên quan điểm như vậy,   cần khuyến khích mọi học sinh phải chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp để  có thể hình dung trước những khái niệm, kiến thức sẽ  phải tiếp thu và khắc  sâu trong từng tiết học.         Nhân cách con người không thể  phát triển qua việc tiếp thu tri thức mà   còn phát triển bằng hoạt động và trong các hoạt động của chính người  ấy.  Tính chất của hoạt động ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành nhân cách:  hoạt động rập khuôn, bắt chước máy móc, học tập theo lối tái hiện sẽ  cho  kết quả  là những con người chỉ  biết thực hành theo mệnh lệnh, thiếu năng  động, sáng tạo. Vì vậy muốn có những con người năng động, sáng tạo cần  phải tổ  chức các hoạt động vui chơi, học tập tích cực, sáng tạo. Muốn có  những con người có năng lực hợp tác, có khả  năng làm việc cùng đồng đội,  cần tổ  chức các hoạt động vui chơi, học tập theo nhóm, mang tính chất tập   thể.        Do đó việc đổi mới phương pháp dạy học trong quá trình dạy học phân   môn Lịch sử đã giúp học sinh: ­ Bồi dưỡng tình cảm, giáo dục thái độ: HS chủ  động, sáng tạo; GV   dạy học theo phương pháp nêu vấn đề, hướng dẫn, tổ  chức hoạt động dạy  học cho HS. ­ Học sinh hứng khởi tiếp thu bài, kiến thức được hình thành một cách  vững chắc. Học sinh hiểu được giá trị  của các sự  kiện lịch sử  trọng đại của  nước ta, các em tự  hào là người Việt Nam và có ý thức trách nhiệm đối với  tiền đồ  của đất nước. Tự  hào và thích thú sẽ  giúp các em nhớ  lâu và càng   muốn hiểu sâu thêm về lịch sử đất nước. ­ Bắt đầu tiết học nhẹ nhàng, tự nhiên phù hợp với đặc điểm tâm sinh   lí của học sinh tiểu học sẽ là yếu tố quan trọng lôi cuốn HS hiểu sâu, nhớ lâu  và có cảm tình với môn học. Tất cả  những kinh nghiệm và cách thức tổ  chức dạy học trên đã góp  phần   hoàn   thiện   hơn   nữa   4   mục   tiêu   mà   tổ   chức   Quóc   tế   về   Giáo   dục  17
  18. UNECO đã chỉ ra về nền tảng của GD là: “Học để biết, học để làm, học để   biết chung sống và học để làm người” II­ Ý kiến đề xuất: Mỗi giáo viên cần xác định vai trò chủ đạo trong việc đổi mới phương  pháp dạy học, trước hết phải tìm tòi phương pháp truyền đạt có hiệu quả,  kích thích tích tư  duy và sự  sáng tạo của học sinh. Chủ  động tự  bồi dưỡng  chuyên môn, tìm tài liệu chuẩn,  phù hợp với nhận thức của học sinh để cung   cấp cho các em như: Giáo viên thường xuyên theo dõi cập nhật những thông   tin, những số  liệu liệu sự  kiện Lịch sử  qua các phương tiện thông tin đại   chúng (sách, báo phim  ảnh, thư  viện điện tử...) để  có thể  cập nhật tư  liệu   chính xác, đầy đủ, sinh động, gây hứng thú cho học sinh trong quá trình học  tập. Qua đó hướng dẫn học sinh sưu tầm tài liệu để chủ động sáng tạo trong   tiếp thu kiến thức góp phần thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học là  tập trung vào cách dạy : Giúp HS có nhu cầu và biết cách tự học. Trong việc soạn giảng, giáo viên nên thiết kế  bài bám sát chuẩn kiến   thức kỹ  năng của môn học, bài học. Sắp xếp các hoạt động của giáo viên,  học sinh một cách phù hợp đặc điểm của từng bài và sử  dụng thiết bị  dạy   học: Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.   Cụ  thể: Đối với những bài mới, khó trong chương trình, giáo viên cần thông  qua họp tổ  chuyên môn, thảo luận và thống nhất những nội dung trọng tâm  cần truyền đạt cho học sinh và thống nhất những hoạt động của học sinh  trong các mục của bài đó để phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của các   đối tượng học sinh. Do đó để  giúp học sinh có thể  hiểu nắm được nội dung bài học một   cách tích cực, giáo viên cần có cách tổ  chức cho học sinh biết sưu tầm tư  liệu, thông tin nhằm chuẩn bị  cho bài học mới, tăng cường  ứng dụng công  nghệ  thông tin, sử  dụng đồ  dùng thiết bị, phương tiện trực quan, thăm quan  thực tế phục vụ cho tiết dạy đạt hiệu quả. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể của các nhà trường hiện nay, nhiều   nhà trường cơ  sở  vật chất còn thiếu thốn, đặc điểm về  nhận thức và chất  lượng HS không đồng đều, nhiều em còn thụ  động trong việc tiếp thu kiến   thức, chưa tích cực, chủ động,  sáng tạo trong học tập. Điều đó đòi hỏi người   giáo viên cần phải quan tâm hơn cho sự  đổi mới phương pháp giảng dạy   trong các giờ lên lớp , cụ thể phải chú ý một số vấn đề như sau: 1/ Cần phải có sự thay đổi tư duy trong quá trình dạy học. 2/ Do đặc trưng của bộ môn nên người giáo viên phải tạo hứng thú cho   học sinh trong quá trình nắm bắt kiến thức, tránh sự  nhàm chán, căng thẳng   18
  19. trong mỗi giờ học, tích cực dạy học theo phương pháp đổi mới đặc biệt  tập  trung vào cách dạy để giúp HS có nhu cầu và biết cách tự học. 3/ Giúp học sinh nâng cao tính tự  học, tham gia họat động nhóm đạt  hiệu quả cao và cá thể hoá trong quá trình học tập. 4/ Nhà trường, chính quyền địa phương, gia đình học sinh cần tạo môi  trường đẩy đủ nhắm phát triển toàn diện cho các em (kiến thức, kĩ năng, thái  độ). Ngoài giờ học chính khoá nên có những buổi nói truyện về lịch sử, tham  quan dã ngoại mang tính thực tế  hơn. Sưu tầm và in  ấn các tài liệu về  các  nhân vật lịch sử, các sự  kiện lịch sử  của quê hương Thanh Hóa để  GV có  cẩm nang dạy tốt hơn  các tiết Lịch sử địa phương. Bản thân tôi nghĩ, nếu làm được như  vậy thì chúng ta sẽ  gặt hái được  kết quả đáng kể hơn trong việc dạy và học, đặc biệt đối với môn Lịch sử  ở  Tiểu học sẽ  góp phần không nhỏ  vào việc hình thành phẩm chất con người   Việt Nam theo 5 điều Bác Hồ  dạy đối với thiếu niên và nhi đồng, góp phần   hình thành  ở  học sinh những phẩm chất cao đẹp của người Việt Nam trong  thời đại mới. Trong năm học vừa qua, với sự  quan tâm của những người con quê  hương Cẩm Thủy bác Hoàng Bằng là Chính ủy thuộc viện Khoa học và Công  nghệ  quân sự  cùng các chiến sĩ trong đơn vị  đã  ủng hộ  cho nhà trường một  phòng máy vi tính hiện đại với 16 máy để  phục vụ  cho công tác dạy và học   của nhà trường. Hội phụ  huynh của các lớp đã tự  nguyện mua sắm và lắp  thêm cho phòng học lớp 2A một máy chiếu góp phần để  bản thân tôi và các  đồng nghiệp trong trường có thể   ứng dụng tốt hơn việc dạy học bằng hình   thức trình chiếu và cập nhật các tư  liệu giáo dục. Đây cũng là một nhân tố  góp phần đem lại sự  thành công trong dạy học nói chung và dạy học môn  Lịch sử nói riêng cho bản thân tôi và nhà trường. Trên đây là toàn bộ  những kinh nghiệm bản thân tôi đúc rút trong quá  trình giảng dạy để  góp phần giúp học sinh lớp 5 học tốt hơn đối với phân  môn Lịch sử. Thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm của bản thân cũng  chưa nhiều nên sáng kiến kinh nghiệm của tôi không tránh khỏi những thiếu   sót, kính mong BGH, hội đồng khoa học các cấp cùng các đồng nghiệp góp ý  để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn  góp phần dạy tốt hơn   nữa phân môn Lịch sử trong những năm học tiếp theo. XÁC NHẬN CỦA  Cẩm Thủy, ngày 31 tháng 3 năm 2013 19
  20. THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ         Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến  kinh nghiệm do mình viết, không sao  chép nội dung của người khác. Hiệu trưởng NGƯỜI THỰC HIỆN …………………….. Lê Thị Hà MỤC LỤC: STT NỘI  DUNG TRANG 1 A. Đặt vấn đề 1 2 B. Giải quyết vấn đề I. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu 2 II. Thực trạng của việc dạy học lịch sử ở  3 trường tiểu học. 4­13 III. Các giải pháp để nâng cao chất  lượng.... 14 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2