Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp thực hiện công tác tự đánh giá hướng đến kiểm định chất lượng của trường CĐSP Hòa Bình năm học 2019-2020
lượt xem 3
download
Mục tiêu của đề tài là đánh giá hiện trạng của nhà trường đáp ứng các tiêu chuẩn đề ra theo sứ mạng, mục tiêu đã được công bố. Xác định chất lượng thực tế và hiệu quả hoạt động tổng thể của Nhà trường trong chu kỳ 5 năm. Đánh giá được hiện trạng những điểm mạnh, hạn chế so với các tiêu chuẩn đề ra, trên cơ sở đó định ra kế hoạch để phát huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế để phát triển, từng bước hình thành văn hoá chất lượng trong nhà trường.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp thực hiện công tác tự đánh giá hướng đến kiểm định chất lượng của trường CĐSP Hòa Bình năm học 2019-2020
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÒA BÌNH TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM Đặng Trọng Nghĩa (chủ trì) Đinh Thị Thảo Nguyễn Thị Bích Ngọc Đỗ Thị Tiến Thành SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số giải pháp thực hiện công tác tự đánh giá hướng đến kiểm định chất lượng của trường CĐSP Hòa Bình năm học 20192020”, HÒA BÌNH 2020
- MỤC LỤC Chương I.TỔNG QUAN ...................................................................................... 1 Chương II. MÔ TẢ SÁNG KIẾN ....................................................................... 10 Chương III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................ 20 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 23 PHẦN PHỤ LỤC ................................................................................................ 25 ii
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TT Tên gọi Chữ viết tắt 1. Ban giám hiệu BGH 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo Bộ GD&ĐT 3. Cán bộ giảng viên CBGV 4. Cán bộ quản lý CBQL 5. Cao đẳng CĐ 6. Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình CĐSP 7. Cơ sở vật chất CSVC 8. Chương trình đào tạo CTĐT 9. Đảm bảo chất lượng ĐBCL 10. Học sinh sinh viên HSSV 11. Hội đồng TĐG HĐTĐG 12. Kiểm định chất lượng giáo dục KĐCLGD 13. Mầm non MN 14. Nghiên cứu khoa học NCKH 15. Nhân viên NV 16. Tiểu học TH 17. Trung học cơ sở THCS 18. Tự đánh giá TĐG 19. Thanh traKhảo thí và Đảm bảo chất lượng TTrKT&ĐBCL 20. Sáng kiến kinh nghiệm SKKN ii
- Chương I.TỔNG QUAN 1. Cơ sở lý luận 1.1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm TĐG là khâu đầu tiên trong quy trình KĐCLGD của trường Cao đẳng. Đây là quá trình nhà trường tự xem xét, kiểm tra, đánh giá trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục của Bộ GD&ĐT. Việc tự xem xét, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục là xem xét tổng thể về tình trạng chất lượng, hiệu quả của toàn bộ quá trình đào tạo, nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất … cũng như các vấn đề liên quan khác, từ đó có những biện pháp điều chỉnh các nguồn lực một cách phù hợp nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đã được xác định. Do đó SKKN được thực hiện trên cơ sở các lý do sau: 1.1.1. Tự đánh giá giúp nhà trường định hướng và xác định chuẩn chất lượng cho từng hoạt động theo Chuẩn chất lượng đã được Bộ GD&ĐT công bố (gồm 10 tiêu chuẩn và 54 tiêu chí), trong đó yêu cầu rõ các chỉ số cụ thể mà các trường cần đạt được để đảm ĐBCL toàn diện. Việc phân tích, mô tả hiện trạng, chỉ ra điểm mạnh, tồn tại, đồng thời lập kế hoạch hành động và đề ra giải pháp nhằm giải quyết các tồn tại này chính là những định hướng phát triển cho giai đoạn tiếp theo đáp ứng yêu cầu về sứ mệnh, mục tiêu đã công bố. 1.1.2. Công tác tự đánh giá chất lượng giúp chúng ta xem xét lại toàn bộ hoạt động của mình một cách có hệ thống, từ đó điều chỉnh các hoạt động theo một chuẩn mực nhất định. Để đánh giá chính xác chất lượng của một trường chuyên nghiệp cần có cái nhìn tổng thể về toàn bộ hoạt động của nhà trường. Bản thân công tác TĐG chất lượng sẽ không tạo ra chất lượng ngay cho nhà trường, mà nó chính là hoạt động phản ánh toàn bộ thực trạng của nhà trường, giúp cho các nhà quản lý nhìn nhận những mặt mạnh, mặt yếu của đơn vị mình để từ đó có bước hành động phù hợp. 1.1.3. Việc thường xuyên TĐG nhằm xác định xem chúng ta đang đứng ở đâu trong thang bậc chất lượng giáo dục và cũng là điều kiện, nền tảng hình thành nên văn hoá chất lượng cho Nhà trường. Như vậy, hoạt động tự đánh giá là quy trình xem xét khách quan công việc của tất cả các hoạt động của trường trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các chỉ số, các chuẩn mực, các minh chứng cụ thể,... do đó, các thông tin này sẽ giúp cho tất cả các nhà quản lý, CBGV, NV, HSSV hiểu rõ hơn công việc của mình, giúp họ chủ động hơn, 1
- không ngừng nâng cao chất lượng công việc của mình và hành động theo chất lượng, khi đó văn hóa chất lượng sẽ hình thành. 1.1.4. Kết quả của việc đánh giá sẽ là lời tuyên bố chắc chắn với các bên liên quan, các cơ quan sử dụng lao động về hiện trạng chất lượng của trường. Việc đăng ký KĐCLGD được xem là lời cam kết về chất lượng đào tạo mà nhà trường mang lại cho người học và xã hội. 1.1.5. Để có những kinh nghiệm trong công tác TĐG chất lượng thực tế của trường CĐSP Hòa Bình, đồng thời hướng đến đăng ký KĐCLGD và công nhận chất lượng đối với trường CĐSP Hòa Bình, chúng tôi thực hiện sáng kiến “Một số giải pháp thực hiện công tác TĐG hướng đến kiểm định chất lượng của trường CĐSP Hòa Bình năm học 20192020”, đồng thời đưa ra một số biện pháp nhằm góp phần hoàn thành công tác TĐG và công tác KĐCLGD của Trường. 1.2. Một số quan niệm về chất lượng trong giáo dục: Về bản chất, khái niệm chất lượng giáo dục là một khái niệm mang tính tương đối. Với mỗi người, quan niệm về chất lượng giáo dục khác nhau và vì ở mỗi một vị trí, lĩnh vực người ta nhìn nhận về chất lượng giao dục ở những khía cạnh khác nhau. Các sinh viên, các nhà tuyển dụng, đội ngũ tham gia giảng dạy hoặc không giảng dạy, chính phủ và các cơ quan tài trợ, các cơ quan kiểm duyệt, kiểm định, các nhà chuyên môn đánh giá .... đều có định nghĩa riêng của họ cho khái niệm chất lượng giáo dục. Trong thực tế, có rất nhiều cách định nghĩa chất lượng, nhưng có thể được tập hợp thành các nhóm quan niệm về chất lượng như sau: Nhóm Chất lượng là sự vượt trội: Khái niệm coi chất lượng là sự vượt trội là một khái niệm truyền thống, coi chất lượng là sự nổi trội, có chất lượng xuất sắc (vượt tiêu chuẩn rất cao) và sự đạt được một số tiêu chuẩn đặt trước. Tuy nhiên quan điểm này đi kèm với tính phân biệt trong đó chất lượng được coi là một cái gì đó đặc biệt, dành cho những người ưu tú. Như vậy, chất lượng không được định nghĩa thông qua việc đánh giá những gì được cung cấp mà dựa trên cơ sở cho rằng chính bản thân nó luôn mang tính nổi trội. Đó không phải là chất lượng được đo đếm qua các tiêu chuẩn mà là chất lượng riêng biệt và không thể tiếp cận cho hầu hết mọi người. Theo quan điểm này, chất lượng là cái sẵn có nằm trong nhà trường, và do vậy không cần có cơ quan nào bên trong hay bên ngoài nhà trường để làm nhiệm vụ ĐBCL mà công việc đó được thực hiện bởi chính đội ngũ và nhà trường 2
- đó làm ra. Vì thế cách tiếp cận này chưa hẳn đã hoàn toàn khách quan trong các khâu đánh giá và công nhận chất lượng của một nhà trường khi mà sản phẩm của họ được họ coi là chất lượng mà không cần sự đánh giá từ bên ngoài. Nhóm Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu: Cách tiếp cận này cho rằng chất lượng chỉ có ý nghĩa trong mối liên hệ với mục tiêu. Do vậy nó được đánh giá về mức độ phù hợp với mục tiêu đến đâu. Khái niệm này rất xa lạ với ý tưởng chất lượng là cái gì đó đặc biệt, nổi trội, dành cho những sinh viên ưu tú hay khó đạt được. Nó là một định nghĩa mang tính chức năng hơn là mang tính loại trừ. Một sản phẩm được coi là đạt chất lượng nếu nó thực hiện mục tiêu mà nó đề ra. Thay vì mang tính loại trừ, quan niệm này mang tính bao hàm trong đó mỗi sản phẩm hay dịch vụ có khả năng đạt được mục tiêu đều được coi là chất lượng. Mặc dù khái niệm có vẻ rõ ràng, “phù hợp với mục tiêu” rất dễ đánh lừa người khác vì nó đặt ra câu hỏi “mục tiêu của ai” và “sự phù hợp được đánh giá thế nào?”. Quan niệm phù hợp với mục tiêu đưa ra hai ưu tiên cho việc xác định mục tiêu: thứ nhất là khách hàng, thứ hai là người cung cấp. Thứ nhất: Phù hợp với mục tiêu 1 Xác định theo Khách hàng: Quan niệm này xác định chất lượng theo mức độ một sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Do vậy nó mang tính phát triển vì mục tiêu thay đổi theo thời gian, đòi hỏi liên tục có đánh giá lại mức độ phù hợp của mỗi đặc tính cụ thể. Tuy nhiên, định nghĩa chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu theo nghĩa đáp ứng yêu cầu khách hàng đã đặt ra một vài vấn đề. Thứ nhất khái niệm “khách hàng” là một khái niệm gây tranh cãi trong giáo dục đại học. Khách hàng có phải là người sử dụng dịch vụ (sinh viên) hay những người trả tiền cho dịch vụ (chính phủ, các nhà tuyển dụng)? Các cổ đông khác như đội ngũ giảng viên có được bao gồm trong khái niệm khách hàng? Sinh viên có phải là khách hàng? Hay là sản phẩm đầu ra? Hay cả hai? Cho dù sinh viên có được coi là khách hàng trực tiếp, cũng không thể phủ nhận những khách hàng gián tiếp khác như chính phủ và nhà tuyển dụng. Thứ hai, khách hàng, ví dụ như sinh viên, không có khả năng và không nhất thiết phải là người quyết định các yêu cầu. Làm thế nào để sinh viên quyết định các yêu cầu của mình? Thông thường sinh viên chấp nhận những cái có sẵn cho họ và có thể thiếu những hiểu biết về khóa học. Họ có thể có ảnh hưởng trong việc quyết định sản phẩm đầu ra khi họ đã tham gia vào hệ thống. Và chúng biến đổi theo các lựa 3
- chọn khác nhau, thông qua sức ép phát triển các lĩnh vực mới hay ứng dụng những lĩnh vực mới trong đó sinh viên là nhân tố chủ yếu trong việc quyết định bản chất của việc học. Thứ hai: phù hợp với mục tiêu, sứ mệnh: Thay vì tìm hiểu khách hàng của giáo dục là ai và yêu cầu của họ là gì, quan điểm này đặt nhiệm vụ đề ra mục tiêu cho chính cơ sở giáo dục, và do vậy chất lượng đối với họ là sự hoàn thành sứ mạng và mục tiêu mà họ đặt ra. Tuy nhiên khi đặt trách nhiệm xác định và hoàn thành sứ mạng lên vai cơ sở giáo dục chúng ta mới giải quyết được một phần câu hỏi đặc tính do khách hàng quyết định là gì? Vấn đề đặt ra ở đây là liệu cơ sở giáo dục đó vẫn còn đạt được mục tiêu nó đặt ra trong tuyên bố sứ mệnh? Và ở đây cần có vai trò của đảm bảo chất lượng.ĐBCL không phải là để cụ thể hoá các tiêu chuẩn để đo lường chất lượng. ĐBCL là nhằm bảo đảm rằng có các cơ chế, quy trình và quá trình được sắp xếp để bảo đảm đạt được chất lượng. Chất lượng do vậy có nguy cơ trở nên được xác định bằng sự tồn tại các cơ chế thích hợp của đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng ĐBCL là nói về công tác quản lý tốt, nó là một cách tiếp cận có hệ thống về việc làm những việc đúng với phương pháp đúng và khiến cho chúng trở nên đúng đắn. Nhóm Chất lượng được xem như là ngưỡng:Theo cách hiểu này, một trường có chất lượng cao là trường tuyên bố rõ ràng sứ mạng (mục đích) của mình và đạt được mục đích đó một cách hiệu quả và hiệu suất nhất. Cách tiếp cận này cho phép các trường tự quyết định các tiêu chuẩn chất lượng và mục tiêu đào tạo của trường mình. Thông qua kiểm tra, thanh tra chất lượng các tổ chức hữu quan sẽ xem xét, đánh giá hệ thống ĐBCL của trường đó có khả năng giúp nhà trường hoàn thành sứ mạng một cách hiệu quả và hiệu suất cao nhất không? Mô hình này đặc biệt quan trọng đối với các trường có nguồn lực hạn chế, giúp các nhà quản lý có được cơ chế sử dụng hợp lý, an toàn những nguồn lực của mình để đạt tới mục tiêu đã định từ trước một cách hiệu quả nhất. Nhóm Chất lượng là sự hài lòng của người sử dụng lao động: Trong những năm gần đây người ta không chỉ nói tới việc sản phẩm phải phù hợp với các thông số kỹ thuật hay tiêu chuẩn cho trước, mà còn nói tới sự đáp ứng nhu cầu của người sử dụng sản phẩm đó. Vì vậy khi thiết kế một sản phẩm hay dịch vụ, yếu tố quyết định là xác định nhu cầu của khách hàng, để sản phẩm có được những đặc tính mà khách hàng mong muốn. 4
- Trong giáo dục, định nghĩa này gây ra một số khó khăn trong việc xác định khái niệm khách hàng. Ai là khách hàng trong giáo dục? Đó là sinh viên (người sử dụng dịch vụ như thư viện, ký túc xá, phòng thí nghiệm. . .) hay là chính phủ, các doanh nghiệp (người trả tiền cho các dịch vụ đó) hay đó là cán bộ giảng dạy, cha mẹ sinh viên v.v. . . Hơn nữa khi xác định sinh viên là khách hàng trong giáo dục đại học, lại nảy sinh thêm khó khăn mới là liệu sinh viên có khả năng xác định được nhu cầu đích thực, dài hạn của họ hay không? Liệu các nhà quản lý có phân biệt được đâu là nhu cầu còn đâu là ý thích nhất thời của họ? Như vậy, mặc dù khó có thể đưa ra được một định nghĩa về chất lượng trong giáo dục mà tất cả mọi người đều thừa nhận, song các nhà nghiên cứu cũng cố gắng tìm ra những cách tiếp cận phổ biến nhất. Cơ sở của các cách tiếp cận này xem chất lượng là một khái niệm mang tính tương đối, động, đa chiều và với những người ở các cương vị khác nhau có thể có những ưu tiên khác nhau khi xem xét nó. Ví dụ, đối với cán bộ giảng dạy và sinh viên thì ưu tiên của khái niệm chất lượng phải là ở quá trình đào tạo, là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình giảng dạy và học tập. Còn đối với những người sử dụng lao động, ưu tiên về chất lượng của họ lại ở đầu ra, tức là ở trình độ, năng lực và kiến thức của sinh viên khi ra trường v.v. Do vậy không thể nói tới chất lượng như một khái niệm nhất thể, chất lượng cần được xác định kèm theo với mục tiêu hay ý nghĩa của nó, và ở khía cạnh này, một trường có thể có chất lượng cao ở một lĩnh vực này nhưng ở một lĩnh vực khác lại có thể có chất lượng thấp. Như vậy có thể coi Chất lượng giáo dục là một hệ thống rõ ràng, mạch lạc các tiêu chí với những chỉ số được lượng hoá, nêu rõ các phương thức ĐBCL và quản lý chất lượng sẽ được sử dụng trong giáo dụcvới xu hướng tiếp cận dần với chuẩn của khu vực và thế giới. 1.3.Đánh giá chất lượng giáo dục Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu vào”: Một số nước phương Tây có quan điểm cho rằng “Chất lượng một trường đại học phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường đó”. Quan điểm này được gọi là “quan điểm nguồn lực” có nghĩa là: Nguồn lực = chất lượng.Theo quan điểm này, một trường tuyển được sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tín, có nguồn tài chính cần thiết để trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem là trường có chất lượng cao. 5
- Quan điểm này đã bỏ qua sự tác động của quá trình đào tạo diễn ra rất đa dạng và liên tục trong một thời gian dài của một khóa học. Thực tế, theo cách đánh giá này, quá trình đào tạo được xem là một “hộp đen”, chỉ dựa vào sự đánh giá “đầu vào” và phỏng đoán chất lượng “đầu ra”. Sẽ khó giải thích trường hợp một trường có nguồn lực “đầu vào” dồi dào nhưng chỉ có những hoạt động đào tạo hạn chế; hoặc ngược lại, một trường có những nguồn lực khiêm tốn, nhưng đã cung cấp cho sinh viên một chương trình đào tạo hiệu quả. Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu ra”: Là một quan điểm khác về chất lượng giáo dục, quan điểm này cho rằng “đầu ra” của giáo dục đại học có tầm quan trọng hơn nhiều so với “đầu vào” của quá trình đào tạo. “Đầu ra” chính là sản phẩm của giáo dục được thể hiện bằng mức độ hoàn thành công việc của sinh viên tốt nghiệp hay khả năng cung cấp các hoạt động đào tạo của trường đó. Có 2 vấn đề cơ bản có liên quan đến cách tiếp cận này. Một là, mối liên hệ giữa “đầu vào” và “đầu ra” không được xem xét đúng mức. Trong thực tế mối liên hệ này là có thực, cho dù đó không phải là quan hệ nhân quả. Một trường có khả năng tiếp nhận các sinh viên xuất sắc, không có nghĩa là sinh viên của họ sẽ tốt nghiệp loại xuất sắc. Hai là, cách đánh giá “đầu ra” của các trường rất khác nhau. Chất lượng được đánh giá bằng “Chất lượng đội ngũ”: Đây là quan điểm truyền thống của nhiều trường đại học phương Tây, chủ yếu dựa vào sự đánh giá của các chuyên gia về năng lực học thuật của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong từng trường trong quá trình thẩm định công nhận chất lượng đào tạo đại học. Điều này có nghĩa là trường đại học nào có đội ngũ giáo sư, tiến sĩ đông, có uy tín khoa học cao thì được xem là trường có chất lượng cao. Điểm yếu của cách tiếp cận này là ở chỗ, cho dù năng lực học thuật có thể được đánh giá một cách khách quan, thì cũng khó có thể đánh giá những cuộc cạnh tranh của các trường đại học để nhận tài trợ cho các công trình nghiên cứu trong môi trường bị chính trị hoá. Ngoài ra, liệu có thể đánh giá được năng lực chất xám của đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khi xu hướng chuyên ngành hoá ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng đa dạng. Chất lượng được đánh giá bằng“Văn hoá tổ chức riêng”: Quan điểm này dựa trên nguyên tắc các trường phải tạo ra được “Văn hoá tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình liên tục cải tiến chất lượng. Vì vậy một trường được 6
- đánh giá là có chất lượng khi nó có được “Văn hoá tổ chức riêng” với nét đặc trưng quan trọng là không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Quan điểm này bao hàm cả các giả thiết về bản chất của chất lượng và bản chất của tổ chức. 1.4. Khái niệm về TĐG TĐG là quá trình nhà trường tự xem xét, nghiên cứu dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục do Bộ GD&ĐT ban hành. Kết quả của TĐG nhằm điều chỉnh các nguồn lực và quá trình thực hiện nhằm đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. 1.5. Khái niệm về KĐCLGD KĐCLGD là một quá trình xem xét chất lượng từ bên ngoài, được giáo dục đại học sử dụng để khảo sát, đánh giá các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo nhằm đảm bảo và cải tiến chất lượng. KĐCLGD là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc KĐCLGD được thực hiện định kỳ trong phạm vi cả nước và đối với từng cơ sở giáo dục. Như vậy, KĐCLGD là hoạt động đánh giá của một cơ quan, tổ chức kiểm định được Bộ GD&ĐT cấp phép nhằm xem xét, đánh giá và công nhận các hoạt động giáo dục theo những tiêu chuẩn do Bộ GD&ĐT công bố. 2. Cơ sở pháp lý Luật Giáo dục năm 2005. Thông tư số 62/2012/TTBGD&ĐT ngày 28/12/2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Quy định về quy trình và chu kỳ KĐCLGD trường Đại học, cao đẳng và TCCN. Quyết định số 08/VBHNBGDĐT ngày 04/3/2014 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường cao đẳng Kế hoạch số 118/KHBGDĐT ngày 23/2/2017 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc triển khai công tác KĐCLGD đối với cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng sư phạm và trung cấp sư phạm năm 2017. 7
- Hướng dẫn số 462/KTKĐCLGD KDĐH ngày 09/5/2013 của Cục Khảo thí và KĐCLGD về việc hướng dẫn TĐG trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp. 3. Cơ sở thực tiễn Yêu cầu của Bộ GD&ĐT về Kiểm định chất lượng giáo dục: Căn cứ Kế hoạch số 118/KHBGDĐT, ngày 23/02/2017 về việc Triển khai công tác KĐCLGD đối với cơ sở giáo dục, trường cao đẳng sư phạm, trung cấp sư phạm năm 2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo đó, đến hết 31/12/2020 tất cả các trường cao đẳng sư phạm, trung cấp sư phạm phải thực hiện kiểm định chất lượng và công bố kết quả kiểm định chất lượng giáo dục. Như vậy, thực tế cho thấy nếu Nhà trường không tiến hành TĐG để có thể đăng ký kiểm định và kiểm định chất lượng, đồng nghĩa với việc nhà trường sẽ không được giao chỉ tiêu tuyển sinh. Không được phép tuyển sinh (dù là ít), có nghĩa là Nhà trường sẽ khó mà duy trì sự tồn tại của một nhà trường đã có truyền thống trên 60 năm phát triển. Nhận thức về hoạt động ĐBCL nói chung và công tác TĐG nói riêng: Công tác TĐG chất lượng giúp chúng ta xem xét lại toàn bộ hoạt động của mình một cách có hệ thống, từ đó điều chỉnh các hoạt động theo một chuẩn mực nhất định. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác chất lượng của một trường chuyên nghiệp cần có cái nhìn tổng thể về toàn bộ hoạt động của nhà trường. Bản thân công tác TĐG chất lượng sẽ không tạo ra chất lượng ngay cho nhà trường, mà nó chính là hoạt động phản ánh toàn bộ thực trạng của nhà trường, giúp cho các nhà quản lý nhìn nhận những mặt mạnh, mặt yếu của đơn vị mình để từ đó có bước hành động phù hợp. Kết quả của việc đánh giá sẽ là lời tuyên bố chắc chắn với các bên liên quan, các cơ quan sử dụng lao động về hiện trạng chất lượng của trường. Việc đăng ký KĐCL được xem là lời cam kết về chất lượng đào tạo mà nhà trường mang lại cho người học và xã hội. Việc thường xuyên TĐG nhằm xác định xem chúng ta đang đứng ở đâu trong thang bậc chất lượng giáo dục và cũng là điều kiện, nền tảng xây dựng nên văn hoá chất lượng cho nhà trường. Như vậy, hoạt động TĐG là quy trình xem xét khách quan công việc của tất cả các hoạt động của trường trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các chỉ số, các chuẩn mực, các minh chứng cụ thể,... do đó, các thông tin này sẽ giúp cho tất cả CBGV, NV, HSSV hiểu rõ hơn công 8
- việc của mình, giúp họ chủ động hơn, không ngừng nâng cao chất lượng công việc của mình và hành động theo chất lượng, khi đó văn hóa chất lượng sẽ được hình thành. 4. Phương pháp tiếp cận Sáng kiến được thực hiện trên cơ sở sử dụng các cách tiếp cận sau: Phương pháp tiếp cận hệ thống: Hệ thống các trường cao đẳng sư phạm nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Do đó công tác TĐG là một yêu cầu bắt buộc đối với các nhà trường có đào tạo giáo viên theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng các trường cao đẳng của Bộ GD&ĐT. Phương pháp tiếp cận theo mục tiêu: Quản lý chất lượng là nhằm duytrì, ổn định và nâng cao chất lượng, nhờ đó để thực hiện mục tiêu giáo dục của trường. Cụ thể, thực hiện quản lý chất lượng thông qua hoạt động TĐG cần đảmbảo: Hoạt động TĐG phù hợp với các quy định hiện hành (tính pháp lý;hoạt động TĐG được chỉ đạo, tổ chức, điều khiển bởi chủ thể quản lý chính thứclà Nhà trường với sự phân công nhiệm vụ cụ thể và được thực hiện bởi những nhân sự nòng cốt để thực hiện; hoạt động TĐG phải đượcđảm bảo các điều kiện để thực hiện và được thực hiện trong môi trường thuận lợi. Phương pháp tiếp cận lý thuyết: Tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu lý luận, các côngtrình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề … nhằm xác định nội hàm của các khái niệmcơ bản, xây dựng những nguyên tắc, xác định đường lối và phương tiện nghiên cứu,hình thành giả thuyết khoa học, xây dựng khung lý luận của đề tài nghiên cứu. Phương pháp tiếp cận từ thực tiễn: Sử dụng các kết quả thực tế trong đợt TĐG và triển khai các hoạt động phục vụ công tác Khảo sát đánh ngoài của Trung tâm Kiểm định chất lượng thuộc Đại học quốc gia Hà Nội. Các phương pháp hỗ trợ: Sử dụng phương pháp thống kê toán học để phân tích về định lượng và định tínhcủa kết quả nghiên cứu. Sử dụng bảng tính Excel để xử lý, tính toán số liệu thu được. 5. Mục tiêu cần đạt được Đánh giá hiện trạng của nhà trường đáp ứng các tiêu chuẩn đề ra theo sứ mạng, mục tiêu đã được công bố. Xác định chất lượng thực tế và hiệu quả hoạt động tổng thể của Nhà trường trong chu kỳ 5 năm. Đánh giá được hiện trạng những điểm mạnh, hạn chế so với các tiêu 9
- chuẩn đề ra, trên cơ sở đó định ra kế hoạch để phát huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế để phát triển, từng bước hình thành văn hoá chất lượng trong nhà trường. Đăng ký và triển khai KĐCLGD và Công nhận chất lượng giáo dục của trường giai đoạn 20152020 Chương II. MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Thực trạng về công tác TĐG của trường CĐSP Hòa Bình 1.1. Khái quát quá trình thực hiện TĐG của trường CĐSP Hòa Bình Quá trình TĐG chất lượng tổng thể của trường CĐSP đã được thực hiện từ năm 2008, khi Trường thành lập Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng (KT&ĐBCL), đây cũng là đơn vị chuyên trách đầu tiên của Trường về công tác ĐBCL. (Tuy nhiên, do yêu cầu thực tế của nhà trường, trong khoảng 10 10
- năm trở lại đây, cơ cấu tổ chức của Nhà trường có nhiều biến động, bộ phận ĐBCL trực thuộc nhiều đơn vị như: Phòng Thanh trapháp chế và Đảm bảo chất lượng; Phòng Thanh tra Khảo thí &ĐBCL; ... cho đến năm 2017, nhà trường mới lại thành lập lại Phòng KT&ĐBCL trên cơ sở tách ra từ phòng TTrKT&ĐBCL). Sau những đợt TĐG của trường (đã nộp cho Bộ GD&ĐT), nhà trường cũng thấy được tầm quan trọng của công tác TĐG, do đó, trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Bộ GD&ĐT và Cục Quản lý Chất lượng (trước đây là Cục Khảo thí và KĐCLGD), nhà trường đã tiến hành 3 đợt TĐG: Đợt 1 chu kỳ trước năm 2008, nộp báo cáo TĐG về Cục Khảo thí và KĐCLGD vào tháng 3 năm 2009. Đợt 2 chu kỳ từ 2010 đến 2015, nộp báo cáo TĐG về Cục Khảo thí và KĐCLGD vào tháng 5 năm 2015. Đợt 3 chu kỳ từ năm 2015 đến 2017, trong đợt TĐG này, Nhà trường đã tiến hành thực hiện từ tháng 01/2017 đến tháng 08/2017, nộp báo cáo TĐG vào tháng 9/2017. Trên cơ sở Báo cáo TĐG của năm 2017, để hướng tới đăng ký Kiểm định chất lượng giáo dục (đánh giá ngoài), tháng 7/2019 Nhà trường tiếp tục thành lập Hội đồng TĐG với mục tiêu đánh giá một cách toàn diện về hiệu quả và chất lượng hoạt động của các đơn vị bên trong Nhà trường, bao gồm: Công tác đào tạo, công tác HSSV, tổ chức cán bộ, kế hoạch tài chính, NCKH và các hoạt động liên quan khác. Từ đó, Nhà trường tiếp tục phát huy được những mặt mạnh, khắc phục một số điểm tồn tại và đưa ra những giải pháp phù hợp để tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường và hướng tới đăng ký Kiểm định và công nhận chất lượng giáo dục. * Quy trình TĐG của Nhà trường: Căn cứ vào Hướng dẫn của Bộ GD&ĐT và Bộ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường cao đẳng, nhà trường tiến hành quy trình TĐG với 09 bước cơ bản: Bước 1. Xác định mục đích, phạm vi TĐG. Bước 2: Thành lập Hội đồng TĐG, Ban Thư ký giúp việc Hội đồng và các nhóm chuyên trách. Bước 3. Lập kế hoạch TĐG Hội đồng TĐG xây dựng kế hoạch TĐG nhằm sử dụng có hiệu quả thời gian và các nguồn lực của trường nhằm đảm bảo đạt được mục đích đề ra. 11
- Bước 4. Thu thập thông tin và minh chứng Bước 5. Xử lý, phân tích các thông tin và minh chứng thu được. Bước 6. Viết báo cáo TĐG. Bước 7. Hoàn thiện báo cáo TĐG. Bước 8. Công bố báo cáo TĐG trong toàn trường để xin ý kiến đóng góp trong tập thể CBGV, HSSV và các chuyên gia về các nội dung trong báo cáo TĐG. Bước 9. Triển khai các hoạt động sau khi hoàn thành TĐG. * Phương pháp và công cụ đánh giá Trên cơ sở Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường cao đẳng bao gồm 10 tiêu chuẩn 55 tiêu chí theo Văn bản hợp nhất số 08/VBHNBGDĐT ngày 04/3/2014 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường cao đẳng; Quyết định số 66/2007/QĐBGDĐT ngày 01/11/2007 và Thông tư số 37/2012/TTBGDĐT ngày 30/10/2012. Đối với mỗi tiêu chí của tiêu chuẩn, Nhà trường tiến hành xem xét như sau: Mô tả và phân tích các hoạt động của nhà trường liên quan đến tiêu chí. Phân tích, so sánh với mặt bằng chung, với chính các hoạt động đó trong những năm trước hay với các quy định của Nhà nước để thấy được hiện trạng của Nhà trường. Đưa ra những nhận định về điểm mạnh và những yếu tố cần phát huy, chỉ ra những tồn tại và giải thích các nguyên nhân. Xác định những vấn đề cần cải tiến và đề ra những biện pháp để cải tiến những vấn đề đó. * Thành lập Hội đồng TĐG và các nhóm chuyên trách Hội đồng TĐG bao gồm 25 thành viên được thành lập theo Quyết định số 108/QĐCĐSP ngày 08/07/2019 của Hiệu trưởng trường CĐSP Hòa Bình. Ban Thư ký gồm 07 thành viên được thành lập theo Quyết định số 137/QĐ CĐSP ngày 08/07/2019 của Hiệu trưởng trường CĐSP Hòa Bình. Các nhóm chuyên trách: Gồm 07 nhóm chuyên trách giúp việc cho Hội đồng TĐG và thực hiện nhiệm vụ theo phân công tại Kế hoạch số 137/KH CĐSP ngày 08/07/2019 của Chủ tịch HĐTĐG trường. 12
- Các nhóm chuyên trách đã thực hiện thu thập thông tin minh chứng, xây dựng phiếu phân tích tiêu chí, lập danh mục minh chứng, viết phiếu đánh giá tiêu chí, báo cáo tiêu chí theo từng tiêu chuẩn được phân công, đồng thời mã hóa minh chứng theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT. Các khoa, đơn vị thuộc trường triển khai phổ biến về chủ trương, mục đích, yêu cầu về hoạt động TĐG đến toàn thể cán bộ viên chức và HSSV trong Nhà trường nhằm cùng phối hợp công tác. Ban thư ký đã tổng hợp, chỉnh sửa báo cáo từng tiêu chuẩn thành bản báo cáo TĐG của trường. Bản báo cáo này đã được HĐTĐG, cán bộ lãnh đạo và toàn thể CBVC góp ý, chỉnh sửa và bổ sung hoàn thiện. * Kết quả TĐG: Sau thời gian thực hiện công tác TĐG (từ tháng 7/2019 đến nay) Nhà trường đã hoàn thành Báo cáo TĐG và tiến hành các thủ tục đăng ký đánh giá ngoài với Trung tâm KĐCLGD, Đại học Quốc gia Hà Nội; đồng thời đã gửi Báo cáo về Cục Quản lý Chất lượng, Bộ GD&ĐT (sau khi tiếp thu các ý kiến góp ý của Cục và đã được Cục QLCL phản hồi là nhát trí cho nhà trường tiến hành các bước tiếp theo). Trên cơ sở những kết quả trên, ngày 21/02/2020, nhà trường đã hoàn thành phiên khảo sát sơ bộ chuẩn bị cho đợt khảo sát chính thức của Trung tâm KĐCLGD. Từ ngày 08/5 đến ngày 12/5/2020, Nhà trường đã được đoàn chuyên gia đánh giá ngoài của Trung tâm KĐCL, Đại học quốc gia Hà Nội tiến hành khảo sát chính thức và đạt kết quả khả quan. Trên cơ sở kết quả đánh giá của đoàn chuyên gia, Nhà trường tiếp tục hoàn thiện các thủ tục theo quy định và đề nghị Bộ GD&ĐT cấp Chứng nhận KĐCLGD chu kỳ 5 năm cho Trường. 1.2. Thuận lợi trong triển khai thực hiện Thực hiện Hướng dẫn số 462/KTKĐCLGDKĐĐH ngày 9/5/2013về việc hướng dẫn TĐG trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp của Cục KT&KĐCL Giáo dục, Nhà trường đã tiến hành TĐG chất lượng cơ sở giáo dục và tiến hành đăng kí đánh giá ngoài với Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dụcĐại học Quốc gia Hà Nội. Trong quá trình thực hiện TĐG, nhà trường có những thuận lợi sau: Các văn bản chỉ đạo hướng dẫn về công tác TĐG và đăng kí kiểm định chất lượng được nhà trường cập nhật đầy đủ và thực hiện theo đúng văn bản. 13
- Công tác TĐG được phổ biến và tuyên truyền rộng rãi không chỉ tới CBGV, NV, HSSV trong nhà trường mà còn được phổ biến tới các đối tượng liên quan như nhà sử dụng lao động và cựu sinh viên đã từng học tại trường. Nhà trường đã thành lập được HĐTĐG và Ban thư ký là các đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Các thành viên HĐTĐG có tinh thần trách nhiệm cao, biết phân tích, tổng hợp và đánh giá khách quan chất lượng giáo dục của nhà trường. HĐTĐG đã xây dựng được Kế hoạch TĐG một cách chi tiết và khoa học như: Phân công nhiệm vụ cho từng thành viên, thời gian biểu hoạt động TĐG, xây dựng kinh phí và cơ sở vật chất thực hiện công tác TĐG... Cơ sở vật chất tại trường đủ điều kiện để nhà trường tiến hành công tác TĐG và đăng kí đánh giá ngoài. 2.2. Khó khăn trong triển khai thực hiện Công tác TĐG và kiểm định chất lượng giáo dục là công tác hoàn toàn mới, đội ngũ nắm vững về công tác kiểm định còn hạn chế, chưa có kinh nghiệm nên ít nhiều cũng dẫn đến những sai sót trong quá trình TĐG chất lượng cơ sở giáo dục. Việc sắp xếp hồ sơ chưa hợp lý, chưa thực sự khoa học nên dẫn tới việc thu thập thông tin minh chứng của các nhóm chuyên trách gặp khó khăn và mất thời gian. Có những thông tin minh chứng phục vụ cho công tác TĐG bị thất lạc nên các nhóm mất nhiều thời gian trong việc khôi phục và tìm kiếm minh chứng. Các thành viên trong HĐTĐG là cán bộ quản lý hoặc là giảng viên kiêm nhiệm, bận nhiều công việc ở trường, nên không đầu tư được thời gian thoả đáng cho hoạt động TĐG. Các nhóm chuyên trách không có nhiều kinh nghiệm trong việc thu thập, xử lý thông tin, minh chứng và cách viết báo cáo tiêu chí. Thiếu sự phối hợp giữa các nhóm chuyên trách trong quá trình TĐG, các buổi thảo luận chung giữa các nhóm chuyên trách, giữa các nhóm chuyên trách với HĐTĐG về các báo cáo tiêu chí/tiêu chuẩn còn ít. Cách viết một số báo cáo tiêu chí còn nặng tính chủ quan, không dựa trên minh chứng, văn phong báo cáo tiêu chí không thống nhất (do nhiều người viết), nhiều chỗ trùng lặp và chưa đáp ứng yêu cầu của báo cáo TĐG phục vụ mục đích cải tiến nâng cao chất lượng và đăng ký kiểm định. 14
- 1.3. Một số kinh nghiệm trong quá trình triển khai TĐG hướng tới đăng ký KĐCLGD của Nhà trường Để hướng tới công tác KĐCLGD là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Nhà trường trong giai đoạn hiện nay, trong đó phải nói đến vai trò to lớn của hoạt động TĐG đối với nhiệm vụ này. Có TĐG thì nhà trường mới biết được mình đã làm được gì, chưa làm được gì và từ đó xây dựng kế hoạch nhằm khắc phụ hạn chế và tiếp tục hoàn thiện chất lượng giáo dục tổng thể trong thời gian tiếp theo. Qua quá trình TĐG và KĐCLGD, chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm sau: a) Cần tăng cường nhận thức về công tác ĐBCL, đặc biệt là chất lượng bên trong nhà trường thông qua công tác tuyên truyền, vận động CBGV, HSSV và các bên liên quan: Đây được xem là bước khởi đầu quan trọng nhằm thay đổi nhận thức của đội ngũ, đặc biệt là những người đứng đầu các đơn vị chuyên môn, các tổ chức đoàn thể, đội ngũ các cán bộ quản lý nhà trường, GV, NV, HSSV … hiểu rõ hơn về nhiệm vụ của mình, đặc biệt là các hoạt động quản lý, hoạt động chuyên môn theo hướng tiếp cận bằng chứng và có trách nhiệm hơn trong việc quản lý hồ sơ, xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng trong từng nội dung, từng giai đoạn cụ thể. Ban giám hiệu, Bí thư các chi bộ, cán bộ quản lý các đơn vị trực thuộccần tăng cường tuyên truyền bằng nhiều hình thức, coi đây là việc làm thường xuyên, liên tục, hướng tới KĐCLGD toàn diện, cụ thể như: Đưa vào kế hoạch tháng, nội dung sinh hoạt Chi bộ, sinh hoạt đơn vị và các hoạt động chung khác của nhà trường nhằm giúp cho đội ngũ CBGV, NV, HSSV thấy được tầm quan trọng của công tác TĐG chất lượng giáo dục để học tự nguyện trực tiếp tham gia vào các khâu trong hoạt động này. Có như vậy chất lượng giáo dục đào tạo của Nhà trường mới phát triển, mới tiến bộ từ đó mới thu hút được người học đến với Nhà trường và tạo niềm tin trong HSSV và cộng đồng. b) Thành lập hội đồng TĐG: Thành lập HĐTĐG:Để đảm bảo tiến độ thực hiện cũng như việc kiểm tra, truy tìm minh chứng; tiến hành việc viết phiếu đánh giá, mã hóa từng tiêu chí đúng với chuyên môn, lĩnh vực của từng bộ phận. Hiệu trưởng thành lập TĐG gồm có chủ tịch, phó chủ tịch, ban thư ký và các nhóm chuyên trách. Mỗi 15
- nhóm chuyên trách gồm có nhóm trưởng, thư ký và các thành viên phụ trách đánh giá từng tiêu chuẩn theo phân công của chủ tịch. c) Xây dựng kế hoạch TĐG: Đây là khâu quan trọng quyết định tiến độ, chất lượng của quá trình TĐG. Để xây dựng được một kế hoạch TĐG có tính khả thi cao, HĐTĐG phải nghiên cứu kỹ các văn bản hướng dẫn, kiểm tra thực trạng hồ sơ lưu trữ tại nhà trường (tại văn phòng, các bộ phận, giảng viên). Dựa vào hồ sơ lưu trữ hiện có của từng loại (đủ, thiếu, không phù hợp), kế hoạch sẽ vạch ra từng bước cụ thể cả về nội dung, thời gian, nguồn gốc cần truy tìm, kinh phí phục vụ cho việc truy tìm, người sẽ thực hiện truy tìm, dự kiến những khó khăn gặp phải khi phải phục hồi những hồ sơ thiếu, thất lạc quá lâu… Sau khi nghiên cứu, đưa ra đối chứng giữa thực tế và quy định tại các văn bản quy định về KĐCLGD, các nhóm truyên trách tiến hành viết sơ bộ báo cáotheo kiểu dàn ý theo quy trình từng tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số để đưa ra thảo luận, phân tích, bàn bạc cùng HĐTĐG nhằm thống nhất và tiến hành hoàn chỉnh báo cso và hồ sơ minh chứng. d) Thu thập, xử lý và phân tích các minh chứng: Để công tác thu thập, xử lý và phân tích các minh chứng được tiến hành thuận lợi, HĐTĐG sẽ họp toàn bộ các thành viên trong hội đồng và các nhóm chuyên trách để tiến hành đối chiếu các yêu cầu về chỉ số, minh chứng của từng từng tiêu chuẩn, tiêu chí. Công đoạn này phải thực hiện chậm, cân nhắc kỹ từng chỉ số. Các thành viên phải ghi chép đầy đủ, có ý kiến góp ý, phân tích, chỉ số nào thuộc lĩnh vực do nhóm nào chịu trách nhiệm, nhóm đó sẽ trình bày cụ thể và phải được ghi vào biên bản cũng như sổ ghi chép cá nhân. Sau khi thu thập từng chỉ số, tiêu chí, các nhóm và cá nhân phụ trách sẽ dự kiến những thuận lợi, khó khăn về nội dung mà mình chịu trách nhiệm; đề nghị hỗ trợ nhân lực ở những lĩnh vực mà mình không chịu trách nhiệm chuyên môn; chuẩn bị giấy giới thiệu liên hệ với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể mà mình cần phải truy tìm minh chứng… Đây là một nội dung hết sức quan trọng mà không phải HĐTĐG nào cũng thực hiện được. Nó thể hiện được nguyên tắc thống nhất trong quản lý và trách nhiệm của mỗi cá nhân. Nếu quy trình này thực hiện trôi chảy, có sự đồng thuận cao thì việc thu thập, phân tích các minh chứng cũng như viết phiếu tiêu chí sau này sẽ diễn ra thuận lợi, tránh được những minh chứng thiếu khoa học, thiếu thuyết phục, trùng lặp không cần thiết. 16
- e) Đánh giá mức độ đạt được từng tiêu chí và mã hóa minh chứng: Sau khi các cá nhân, nhóm kiểm tra rà soát, bổ sung, truy tìm đầy đủ các minh chứng theo phân công của HĐTĐG, hội đồng sẽ họp và đánh giá lại những minh chứng theo trình bày của từng nhóm. Những minh chứng phù hợp theo yêu cầu sẽ được giữ lại, những minh chứng thiếu thuyết phục sẽ bị loại bỏ, những minh chứng thiếu sẽ được đề nghị tiếp tục bổ sung. Khi tất cả các nhóm hoàn thành sơ bộ công đoạn này, HĐTĐG cho phép viết phiếu đánh giá tiêu chí, mã hóa minh chứng theo quy định. Việc mã hóa sẽ được hướng dẫn cụ thể để bỏ vào đúng hộp, đúng tệp giúp cho việc truy tìm sau này diễn ra dễ dàng, nhanh chóng cũng như tạo thuận lợi cho người viết dự thảo báo cáo TĐG, lập bảng thông tin minh chứng, danh mục các chữ viết tắt... Mức độ đạt được từng tiêu chí được nhà trường kiểm chứng là phù hợp khi các minh chứng đó chứng minh được giá trị của các chỉ số đưa ra, hoặc ít nhất là có giá trị tương đương với yêu cầu của chỉ số. Hạn chế tối đa các minh chứng nhân bản. Những tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số có minh chứng trùng nhau chỉ mã hóa một lần nhằm tránh sự trùng lặp không cần thiết cũng như không làm tăng số lượng hồ sơ lưu trữ. Cũng cần lưu ý rằng, nếu các minh chứng là bản gốc được lưu trữ là đáng tin cậy. Tuy nhiên, nếu không thể truy tìm được bản gốc (do nhiều nguyên nhân) thì bản sao vẫn có giá trị thay thế nhưng cần có cơ quan chức năng chứng thực. Những hồ sơ trước đây chưa thực hiện hoặc thất lạc thì khi thực hiện công tác TĐG nhà trường yêu cầu các bộ phận chức năng bổ sung lại. Sau khi các nhóm viết xong phiếu tiêu chí, mã hóa hồ sơ và đánh giá mức độ đạt được từng tiêu chí, HĐTĐG họp và thống nhất đánh giá lại lần cuối trước khi chấp bút viết báo cáo TĐG; lập bảng thông tin minh chứng để truy tìm hồ sơ khi cân thiết cũng như bổ sung hồ sơ cho những năm tiếp theo. f) Viết báo cáo TĐG: Báo cáo TĐG được viết dựa trên những quy định nghiêm ngặt về quy trình, cấu trúc, nội dung, kỹ thuật trình bày văn bản, văn phong, chính tả... do đó, khi viết phải lựa chọn từ ngữ, ngữ cảnh cũng như mô tả chi tiết từng nội dung, phạm trù, chỉ số; đánh giá được những mặt mạnh, mặt yếu và đặc biệt kế hoạch cải tiến chất lượng không được dùng những từ mang tính trừu tượng, khái quát chung chung như “tham mưu”, “đề nghị”, “tương đối”…; kế hoạch cải tiến chất lượng phải khắc phục được điểm yếu. Chẳng hạn điểm yếu nêu “chưa có phòng tin học” thì kế hoạch cải tiến không được ghi “tham mưu cho Nhà trường xây thêm phòng tin học”. “Tham mưu” ở đây được hiểu 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khi soạn câu hỏi trắc nghiệm Vật lý
13 p | 3116 | 1746
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm nâng cao công tác chủ nhiệm học sinh lớp 5
14 p | 2597 | 686
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết đúng chính tả
55 p | 2384 | 450
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn tập làm văn
10 p | 2127 | 376
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam
10 p | 1802 | 336
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học
24 p | 1891 | 327
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp luyện đọc khi dạy tập đọc lớp 2
9 p | 1569 | 305
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
11 p | 1177 | 281
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đầu cấp
28 p | 780 | 213
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 phân môn kể chuyện
20 p | 591 | 112
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 2 trong phân môn Tiếng Việt
11 p | 600 | 100
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức học sinh trường tiểu học
9 p | 441 | 80
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
15 p | 617 | 74
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khai thác triệt để mô hình để giảng dạy môn Sinh học lớp 7
17 p | 385 | 69
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kỹ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
13 p | 361 | 66
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn vẽ tranh môn Mĩ thuật
23 p | 365 | 59
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp giải phương trình mũ – phương trình Logarit
29 p | 353 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số sai lầm thường gặp của học sinh khi giải phương trình lượng giác cơ bản
13 p | 307 | 29
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn