intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 viết tốt đoạn văn miêu tả ở Trường Tiểu học Xuân Lâm

Chia sẻ: Mai Huy Dũng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

62
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu nhằm giúp các học sinh viết được bài văn hay, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc dạy học văn miêu tả. Trên cơ sở đó giúp các học sinh rèn kĩ năng sản sinh văn bản, tạo điều kiện để các học sinh tự tìm tòi và tự thể hiện những ý kiến, suy nghĩ của mình một cách độc lập, chủ động, không máy móc, rập khuôn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 viết tốt đoạn văn miêu tả ở Trường Tiểu học Xuân Lâm

  1. 1. Mở đầu. 1.1. Lí do chọn vấn đề nghiên cứu. Tiếng Việt được coi là môn học trung tâm ở trường Tiểu học.  Đó là môn  học bắt buộc suốt cấp Tiểu học và chiếm vị trí quan trọng cả về dung lượng   và thời gian. Thông qua môn học bồi dưỡng cho các em năng lực tư  duy,  tưởng tượng, cảm xúc thẩm mĩ, lòng yêu quý và gìn giữ  sự  trong sáng của   Tiếng Việt.  Phân môn Tập làm văn mang tính tổng hợp cao của các kiến thức ngôn   ngữ  và kĩ năng ngôn ngữ. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc trau dồi và  rèn luyện ngôn ngữ  cho học sinh, giúp các em cảm thụ  được văn bản (thơ,   văn…). Khi học, các em được rèn kĩ năng viết văn miêu tả  gắn với quá trình  tạo lập văn bản như  tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, diễn đạt thành đoạn văn,  bài văn hoàn chỉnh. Trong đó kĩ năng viết đoạn văn là quan trọng nhất. Bên   cạnh đó môn Tập làm văn còn làm nảy sinh năng lực mới của các em: Năng   lực sáng tạo văn bản nói, viết để  làm công cụ  tư  duy, giao tiếp, học tập…   góp phần phong phú thêm kiến thức và tiếng mẹ đẻ. Tuy vậy, thực tế  việc dạy và học viết văn miêu tả  còn nhiều hạn chế,  học sinh làm bài chất lượng chưa cao. Nhiều em chưa nắm được kiểu bài  miêu tả, chưa có kĩ năng xây dựng bố  cục, chọn ý, xếp ý…. Bài văn của các  em còn mắc khá nhiều lỗi cả về nội dung và hình thức. Thực tế dạy học như  vậy không đáp ứng được nhu cầu giao tiếp. Ngoài ra bài văn miêu tả của học sinh còn nặng về kể lể, liệt kê các sự  vật, sự  việc, lời văn lủng củng thiếu ý hoặc sắp xếp ý một cách lộn xộn,  chưa có sự  liên kết giữa các ý và câu…nên khi đọc lên ta thấy tẻ  nhạt và   nhàm chán. Trăn trở  những vấn đề  nêu trên, tôi mạnh dạn áp dụng nghiên cứu và  đưa ra: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 viết tốt đoạn văn miêu  tả ở Trường Tiểu học Xuân Lâm.” Với mong muốn giúp các em viết được  bài văn hay, nâng cao chất lượng, hiệu quả  của việc dạy học văn miêu tả.  Trên cơ sở đó giúp các em rèn kĩ năng sản sinh văn bản, tạo điều kiện để các  em tự  tìm tòi và tự  thể  hiện những ý kiến, suy nghĩ của mình một cách độc  lập, chủ động, không máy móc, rập khuôn.  1.2. Mục đích nghiên cứu.      Tìm hiểu thực trạng và đưa ra biện pháp rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn  miêu tả cho học sinh lớp 5, Trường Tiểu học Xuân Lâm.        ­ Quan sát, tìm ý.        ­ Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, diễn đạt.        ­ Xây dựng quy trình để hoàn thiện cách viết đoạn văn miêu tả ở lớp 5.     1.3. Đối tượng nghiên cứu.         ­ Thể loại văn miêu tả lớp 5. 1
  2.       ­ Học sinh lớp 5B Trường Tiểu học Xuân Lâm.            1.4. Phương pháp nghiên cứu.       ­ Phương pháp nghiên cứu lí luận:  Đọc các tài liệu, sách có liên quan đến đề  tài.      ­ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.     ­ Phương pháp trao đổi, tọa đàm với đồng nghiệp.     ­ Phương pháp thực nghiệm.     ­ Phương pháp thống kê.                                                  2. Nội dung.        2.1. Cơ sở lí luận.        Theo Đào Duy Anh trong Hán Việt từ  điển thì miêu tả  là: “Lấy nét vẽ   hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật” .        Còn theo nhà văn Tô Hoài trong cuốn sách Một số kinh nghiệm viết văn   của tôi thì nhấn mạnh: “Nói miêu tả, dễ tưởng miêu tả chỉ là vẽ phong cảnh   trời nắng, trời mưa, chớp bể  mưa nguồn và thiên nhiên: cây vườn, bãi cỏ,   con sông… Không, hàng đầu miêu tả là chú trọng sự việc, con người.”       Miêu tả là hòn đá thử vàng đối với các tài năng văn học, tạo nên sức hấp  dẫn của tác phẩm văn học. Có những tác giả đã tốn công vô ích ghi chép rồi đưa   vào tác phẩm của mình vô vàn chi tiết khi miêu tả, nhưng người đọc vẫn chẳng  nhìn thấy gì hết ngoài các dòng chữ  tẻ  nhạt. ngược lại, chỉ  vài nét thôi các tài  năng đích thực đã tạo nên bức tranh phong cảnh, những bức chân dung…tuyệt   diệu.        Văn miêu tả là một bức tranh vẽ các sự vật, hiện tượng, con người bằng   ngôn ngữ  một cách sinh động, cụ  thể. Nhưng văn miêu tả  không phải là sự  sao chép thực tế khách quan mà đó là sự kết tinh của các nhận xét tinh tế, của  trí tưởng tượng phong phú và những rung động sâu sắc mà người viết thu  lượm được khi quan sát cuộc sống. Trước hết ta tìm hiểu Thế  nào là đoạn   văn?      * Khái niệm đoạn văn:      Trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4 định nghĩa đoạn văn như  sau: “Mỗi   đoạn văn miêu tả  một nội dung nhất định. Khi viết, hết mỗi đoạn văn cần   xuống dòng”. Việc định nghĩa như  trên chủ  yếu giúp học sinh nhận ra dấu  hiệu để  nhận biết đoạn văn còn chức năng của đoạn văn trong văn bản thì   không được nhắc đến.       Theo quan điểm của tác giả  Lê Phương Nga trong Phương pháp dạy   học Tiếng Việt  ở Tiểu học: “Đoạn văn là một bộ  phận của văn bản bao   gồm một số  câu liên kết với nhau chặt chẽ, thể  hiện một cách tương đối   trọn vẹn về một tiểu chủ đề. Nó có một cấu trúc nhất định và được tách ra   2
  3. khỏi đoạn văn khác bằng dấu hiệu chấm xuống dòng và bắt đầu bằng chữ   cái viết hoa thụt đầu dòng”.       Đoạn văn miêu tả  hoàn chỉnh được cấu thành bởi ba loại đoạn văn xét   theo  chức năng là đoạn mở (phần mở bài), đoạn phát triển (phần thân bài) và đoạn  kết bài (phần kết bài). Phần mở  bài và kết bài thường chỉ  là một đoạn, còn   phần  thân bài thường gồm nhiều đoạn liên kết với nhau, mỗi đoạn sẽ  làm sáng tỏ  một khía cạnh, một đặc điểm của đối tượng miêu tả.          2.2. Thực trạng.      2.2.1 Thực trạng chương trình, nội dung văn miêu tả  và sách hướng  dẫn học Tiếng việt 5 chương trình VNEN:      Trong chương trình VNEN Tập làm văn lớp 5 học sinh được trang bị  kiến  thức cần thiết về văn miêu tả, về kĩ năng viết đoạn văn, bài văn miêu tả. Các   kiến thức này được cung cấp qua các nội dung: Cấu tạo bài văn miêu tả,   Luyện tập quan sát, Luyện tập lập dàn dàn ý, Luyện tập xây dựng đoạn văn,   Bài viết và trả  bài viết. Các nội dung này là một khuôn mẫu, được lặp lại ở  các kiểu bài văn miêu tả. Ngoài ra, còn có thêm cả những kiến thức lí thuyết   sơ  giản giúp học sinh nắm chắc về  đặc điểm, kết cấu và phương pháp làm  bài của từng kiểu văn miêu tả. Chương trình nhấn mạnh yếu tố  thực hành,  coi trọng việc rèn luyện kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng xây dựng đoạn văn. Học  sinh học cách viết đoạn văn với nhiều nội dung và nhiều kiểu khác nhau  ở  một số dạng bài văn miêu tả các đối tượng quen thuộc, gần gũi với các em.        Với   sách   hướng   dẫn   học   của   chương   trình   VNEN   thì   Tập   làm   văn  thường  ở nội dung học bài C với các tổ  hợp bài tập liên tiếp từ  1 đến 3 tiết   học. Đầu bài không thể hiện rõ tên phân môn.            2.2.2. Thực trạng học văn miêu tả  của lớp 5 trường Tiểu học Xuân  Lâm, năm học 2016­2017.      Học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Xuân Lâm điều kiện còn nghèo, chủ  yếu là con em nông nghiệp hoặc là công nhân nhà máy giày ARONA, phần  lớn, các em chưa thực sự  chủ  động trong lĩnh hội kiến thức trong quá trình  học tập nói chung, trong bài văn cũng ít có sáng tạo. Nhiều khi chưa nắm   vững được các kỹ  năng cơ  bản để  làm bài (tìm hiểu đề, quan sát­tìm ý, lập   dàn ý, triển khai ý, liên kết ý, liên kết đoạn…) dẫn đến nhiều em khi làm bài   còn bị lạc đề, các ý trong bài văn miêu tả  sắp xếp lộn xộn, không chân thực  dẫn đến việc viết những câu văn sáo rỗng, cảm xúc mơ hồ không trung thực.      Chẳng hạn với đề  bài: Em hãy viết một đoạn tả  cảnh sum họp của gia   đình em vào buổi tối. Có học sinh của lớp viết như sau: “Ánh đèn của chiếc   3
  4. đèn tuýp chiếu sáng cho cả  gian nhà. Em rửa bát xong thì em vào bật vô   tuyến. Hôm nay có một bộ phim hoạt hình em rất thích. Trên chiếc ti vi là lọ   hoa chị em vừa cắm lúc chiều. Những bông hoa đó đua nhau tỏa hương, thơm   nức cả gian phòng. Mấy cái rèm cửa bị gió thổi bay lên. Buối tối, đứng ở bên   ngoài trông ngôi nhà thật là đẹp, lại còn có cả những tiếng gió thổi vi vu làm em   cảm thấy dễ chịu hẳn”.      ­ Khi miêu tả học sinh không biết chọn lọc những nét tiêu biểu để tả, để  kể nên bài văn miêu tả trở thành một bài văn kể lể, liệt kê lan man.      Chẳng hạn với đề  bài:  Trong các buổi lao động tập thể  do trường, lớp   (hoặc khu phố, thôn xóm) tổ chức, em thấy buổi nào gây cho em nhiều hứng thú   nhất. Em hãy viết một đoạn tả lại cảnh tượng mọi người đang lao động trong   buổi đó. Thì các em: Lê Thế  Anh, Hoàng Đình Dũng, Đặng Duy Hiếu, Trần  Tiến   Mạnh   lại   sa   vào   việc  liệt   kê   các   công  việc.   Chẳng   hạn,  em   Mạnh   viết:“…Tổ một, hai đi quét dọn vệ sinh sân trường, chăm sóc cây. Tổ ba, bốn   trực nhật lớp. Tổ ba, bốn chúng em giặt giẻ lau, kê bàn ghế, quét lớp từng nhát   một và lau bảng thật sạch sẽ”.       ­ Đối với loại lỗi viết câu lặp từ, lặp ý học sinh cũng mắc rất nhiều.  Đây là loại lỗi phổ  biến nhất, hầu như có trong bất kỳ  một bài văn miêu tả  nào của học sinh lớp. Chẳng hạn:     “Năm nay Hà vừa tròn mười tuổi, Hà dong dỏng cao. Da Hà trắng và rất   mịn. Mái tóc Hà dài, đen nhánh. Khuôn mặt Hà có hình trái xoan.”    “Nhìn từ xa cây to và cao, cây đứng cao và to”.v.v...      ­ Ngoài ra học sinh làm bài văn không biết cách tách đoạn. Các em quan  niệm phần mở  bài, thân bài, kết bài là ba đoạn. còn phần thân bài dù có bao   nhiêu ý thì cũng chỉ được các em viết thành một đoạn văn. Do đó trường hợp   dung lượng đoạn quá khổ (lỗi về hình thức) là lỗi phổ biến trong bài văn của   học sinh của lớp.        Sau đây là kết quả  khảo sát kĩ năng viết đoạn văn phần thân bài:  Viết   một đoạn văn tả buổi sáng trên cánh đồng làng quê em  ­ Bài tập 2, Bài 1C­  sách HDH Tiếng Việt 5, tập 1A (trang 19). Viết đoạn văn  Viết đúng đoạn  Viết đoạn văn  Viết chưa HT  Số  hay văn lủng củng đoạn văn HS SL % SL % SL % SL % 25 3 12 9 36 8 32 5 20    Như vậy: Tỉ lệ học sinh viết được đoạn văn đang ở mức độ thấp. Sau 2  năm nghiên cứu, trải nghiệm, năm học 2015 – 2016 và 2016 – 2017, tôi mạnh  dạn đề  xuất với nhà trường cho áp dụng đối với học sinh lớp 5, nhằm giúp  các em viết tốt đoạn văn miêu tả theo biện pháp mô hình trường học mới và  bước đầu có kết quả khá khả quan.       4
  5.      2.3. Các giải pháp thực hiện.  2.3.1. Phân loại đối tượng học sinh phù hợp, chú ý nhiều đến đối   tượng học sinh chưa hoàn thành về viết đoạn văn.      Ngay từ đầu năm học tôi chia các đối tượng học sinh theo nhóm học tập.  Ở  mô hình trường học mới VNEN đang thực nghiệm thì điều này rất thuận   lợi bởi các em luôn được học tập theo nhóm qua 10 bước học tập. Tuy nhiên,  nếu không thay đổi linh hoạt vai trò của từng thành viên trong nhóm sẽ  dẫn  đến việc chỉ  có nhóm trưởng điều hành và hỗ  trợ  những bạn năng lực còn  hạn chế. Bạn ít nói sẽ  luôn  ỷ  lại và không độc lập tư  duy, tự  ra quyết định   cho chính mình.        Ý thức được điều đó nên tôi đã chủ  động đổi vai trò của các em trong  nhóm hàng tuần. Chú ý quan tâm đặc biệt đến đối tượng học sinh chưa viết   được đoạn văn, nên phân tích cặn kẽ  từng yêu cầu đề, chỉ  cần các em viết  được đoạn văn đơn giản rồi dần dần nâng cao và phải cổ  vũ động viên học  sinh kịp thời.     Ví dụ: Với đề bài: Em hãy viết đoạn mở bài tả lại người thân yêu nhất của   em.     Yêu cầu học sinh chưa hoàn thành chỉ cần viết được đoạn mở bài trực tiếp.   Với đối tượng học sinh còn lại thì tùy mức độ mà yêu cầu các em viết đoạn mở bài  gián tiếp. Nhóm 1: Tôi cho em Phạm Tiến Dũng ngồi cùng nhóm với em Lê Thế  Đại là  những học sinh rụt rè, thiếu tự tin. Sau 1 tuần các em phải học tập nhóm trưởng  để tuần sau sẽ  thay các bạn đó điều hành nhóm mình trong một số  hoạt động  học. Nhóm 2: Các em Lê Chí Kiên, Nguyễn Ngọc Ánh, Trần Thị Minh, Phạm Văn Long biết cách dùng từ nhưng không biết sử dụng các biện pháp tu từ để làm cho câu   văn hay hơn. Tôi chia vào nhóm đó bạn Nguyễn Tuấn Dũng viết văn tốt để giúp đỡ  các bạn.      Cứ như vậy, hết một tuần tôi cho các em đổi vai trò của nhau, mỗi nhóm học đều có  tất cả các đối tượng để giúp nhau cùng tiến bộ trong việc viết đoạn văn.           2.3.2 Hướng dẫn học sinh biết cách nắm yêu cầu đề bài và quan sát,  tìm ý.     Thể loại văn miêu tả có vị trí rất quan trọng trong phân môn Tập làm văn  ở Tiểu học. Cần phải cung cấp hệ thống lí thuyết về các thể loại cũng như  các kiểu bài cùng với những yêu cầu trong việc hình thành các kỹ năng, để từ  đó hướng dẫn học sinh từng bước nắm vững kiến thức và thành thạo các   phương pháp xây dựng bài văn theo thể loại, yêu cầu.     Mỗi đề bài văn tả cảnh đều có yêu cầu khác nhau, quan sát, tìm ý là một  hoạt động không thể  thiếu trong việc dạy­ học văn miêu tả  nên trong quá  trình dạy các tiết quan sát­tìm ý, giáo viên cần tổ  chức cho học sinh được   5
  6. trực tiếp quan sát sự vật, sự việc…để các em có điều kiện quan sát trực tiếp   đối tượng miêu tả, tránh để tình trạng các em ngồi tưởng tượng để viết bài.   Khi viết đoạn văn miêu tả  thì học sinh phải có yếu tố  tưởng tượng nhưng  phải bắt nguồn từ thực tế nên hình ảnh được miêu tả phải có tính chân thực,   bắt đầu bằng sự  quan sát, không tô hồng, bóp méo hoặc hư  cấu quá. Giáo  viên cần giúp học sinh quan sát với những hình ảnh khác nhau. Góc nhìn của   trẻ thơ khác với người lớn, của nông thôn khác với thành thị. Học sinh quan  sát kết hợp bằng nhiều giác quan.      Ví dụ: Hướng dẫn các em quan sát, viết đoạn văn: “Tả  cảnh một buổi   sáng trên cánh đồng quê em”, Giáo viên giúp các em quan sát:      ­   Quan   sát   bằng   thị   giác:   Ánh   nắng   ban   mai,   bầu   trời,   cây   cối   xung   quanh…      ­ Bằng thính giác: Tiếng giói thổi, chim hót, tiếng người….      ­ Bằng khứu giác: Mùi của hương lúa, hoa, cỏ dại….      ­ Quan sát từ  những hình  ảnh quen thuộc, quan sát cả  bên ngoài lẫn bên   trong để đoạn văn miêu tả sinh động, cuốn hút người nghe. Quan trọng hơn sau   khi quan sát các em phải biết lựa chọn không viết lan man, khô khan và sáo   rỗng.                                                    Học sinh đang quan sát cánh đồng lúa quê em.    6
  7.       Học sinh quan sát quang cảnh trường em.      Bên cạnh việc quan sát, cần dạy cho học sinh các thao tác liên hoàn khi  làm  một đoạn văn: Đọc kĩ đề  ­ gạch chân các từ  quan trọng ­ tìm ý ­ lập dàn ý ­  dựa trên dàn ý viết thành đoạn văn và cuối cùng là đọc lại, tự kiểm tra.     Dạy học trên lớp học sinh chỉ được quan sát với giác quan chủ yếu là thị  giác vì vậy học sinh thường không thể  hiện được đầy đủ  đặc điểm của đối  tượng cần tả… Đôi khi giáo viên còn lúng túng khi hướng dẫn quan sát như thế  nào cho tốt.      Để  khắc phục điều này, tôi luôn giúp học sinh có thể  quan sát, tìm ý, nói  đoạn văn bằng các tiết học ngoài trời, thực tế. Sau khi áp dụng đã đem lại sự  sôi nổi, hào hứng và kết quả rõ rệt. 2.3.3. Xây dựng quy trình rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn miêu tả.       Để  viết một đoạn văn miêu tả  hoàn chỉnh, học sinh phải trải qua quá  trình luyện tập về khả năng quan sát, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, chọn và sử  dụng các phương tiện lên kết câu. Nếu một trong những kĩ năng bị  khiếm   khuyết sẽ dẫn đến việc viết đoạn văn miêu tả không tốt và ảnh hưởng nhiều   đến khả  năng hình thành ngôn ngữ  cho học sinh sau này. Vì vậy, việc giáo  viên phải dạy đúng quy trình viết đoạn văn  ở  mỗi kiểu bài thật cần thiết vì  nó vừa giúp học sinh viết tốt đoạn văn, vừa giúp học sinh rèn các kĩ năng bộ  phận trong quá trình sản sinh văn bản. Quy trình viết đoạn văn miêu tả được  thực hiện qua các bước sau:       Bước 1: Tìm hiểu yêu cầu của đề bài 7
  8.       Bước 2: Hướng dẫn học sinh thực hiện yêu cầu đề bài.       Bước 3: Học sinh thực hành kĩ năng       Khi thực hành kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tuân  theo 3 thao tác sau: viết nháp; đọc, hội ý, sửa chữa văn bản nháp; trình bày bài   viết.       Bước 4: Đánh giá, nhận xét kết quả thực hành       Các bước của quy trình được tôi minh họa cụ thể qua ví dụ sau:      Đề  bài: Dựa theo dàn ý đã lập ở  bài 13B, phần Hoạt động thực hành 4,  để  viết đoạn văn tả ngoại hình của một người mà em thường gặp. (Bài 13C­tiết   2, trang 57, tập 1B Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5)    Bước 1: Tìm hiểu yêu cầu của đề bài       ­ Đọc to yêu cầu đề bài.       ­ Xác định yêu cầu đề  bài: Đoạn văn này viết cho ai đọc? Đề  bài thuộc   thể  loại nào? Đối tượng miêu tả  của đoạn văn cần viết là gì? Đoạn văn sẽ  tập  trung miêu tả  những đặc điểm chủ  yếu nào của đối tượng? Đoạn văn được  viết thuộc phần nào của bài văn miêu tả?       ­ Gạch chân dưới những từ ngữ quan trọng của yêu cầu đề bài: Em hãy   viết đoạn văn tả ngoại hình của một người mà em thường gặp. Bước 2: Thực hiện yêu cầu của đề bài     * Quan sát, tìm ý (Dựa theo dàn ý mà em đã lập trong bài trước)      ­  Cần lựa chọn những đặc điểm ngoại hình tiêu biểu nào? (mái tóc, đôi   mắt,..)       ­ Nên lựa chọn các chi tiết thế nào để tả đúng những đặc điểm ấy?      ­ Yêu cầu học sinh xem lại dàn ý đã chuẩn bị hoặc đổi kết quả dàn ý với   bạn.      * Hướng dẫn học sinh xác định mô hình đoạn văn cho phù hợp.      ­ Giáo viên giới thiệu mô hình cấu trúc câu chủ  đề  của đoạn văn qua   việc phân tích một số ví dụ tả người.      ­ Yêu cầu học sinh lựa chọn một mô hình viết đoạn văn tương ứng cho   đoạn thân bài tả hình dáng của người.   Bước 3: Học sinh thực hành kĩ năng      ­ Học sinh sắp xếp ý, sử  dụng các biện pháp nghệ  thuật, lựa chọn hình  ảnh phù hợp, các phép liên kết câu để  viết đoạn văn theo mô hình đã lựa   chọn. 8
  9.      ­ Học sinh đọc lại bài và trao đổi với bạn kế bên, góp ý để sửa đoạn văn   về nội dung, chính tả, từ ngữ liên kết câu, ý trong đoạn.      ­ Học sinh viết lại đoạn văn vào vở hoặc giấy.        Bước 4: Đánh giá, nhận xét kết quả thực hành      ­ Giáo viên chấm một số bài, góp ý cách viết đoạn, dùng từ, liên kết câu.      ­ Giáo viên nhắc lại tiêu chuẩn đánh giá, nhận xét về  hình thức và nội  dung.      ­ Học sinh thảo luận theo nhóm trình bày đoạn văn trong nhóm.      ­ Nhóm nhận xét, sửa chữa, lựa chọn đoạn văn hay để  trình bày trước  lớp.      ­ Đại diện nhóm trình bày đoạn văn trước lớp. Học sinh nhận xét đoạn  văn của bạn theo các tiêu chí đã được đưa ra.      ­ Giáo viên chốt các ý nhận xét, giúp học sinh sửa chữa những thiếu sót,  lỗi sai hoặc lưu ý các em cách sửa chữa những lỗi thường gặp trong quá trình   viết đoạn văn. Sau đó giáo viên cần giúp các em thâu tóm được kiến thức và  biết tác dụng của bài tập này là gì. Dưới đây là một đoạn văn của học sinh   lớp tôi khi thực hiện đề bài trên:           2.3.4. Giúp học sinh biết cách sử  dụng từ  ngữ  và các biện pháp tu  từ:      2.3.4.1. Giúp học sinh biết cách sử  dụng từ ngữ thích hợp trong câu  văn.      Từ thực tế là vốn từ ngữ của các em quá nghèo nàn nên việc giúp các em   có vốn và biết sử dụng từ ngữ để miêu tả là yếu tố rất quan trọng. Học sinh  phải biết làm giàu vốn từ và biết vận dụng vào viết đoạn văn như: 9
  10.      ­ Sử dụng các lớp từ: Tính từ, từ tượng thanh, tượng hình, từ láy…từ các  từ  chỉ  màu sắc: xanh, đỏ, tím…có thể  thể  hiện bằng các gam màu khác nhau,   cung bậc khác nhau giúp hình ảnh miêu tả thêm phong phú, giàu chất văn:       Ví dụ: Từ ‘Thơm” có thể diễn tả mùi thơm khi miêu tả các loài hoa. ­ Thơm lừng: Mùi thơm tỏa ra mạnh mẽ và rộng. ­ Thơm ngát: Mùi thơm dễ chịu, lan tỏa ra xa. ­ Thơm nức: Thơm rực lên, tỏa hương nồng khắp nơi. ­ Thơm thoang thoảng: Thoảng nhẹ qua, chỉ đủ cảm nhận.        2.3.4.2. Bài tập rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu trong đoạn văn.       Ở loại bài tập này, tôi chia thành các dạng bài tập đi từ mức độ thấp đến cao.       a. Bài tập yêu cầu nhận diện từ ngữ miêu tả.        Mục đích của dạng bài tập này là cung cấp, mở  rộng thêm một số  vốn  từ miêu tả cho học sinh. Dữ kiện của bài tập là các đoạn văn miêu tả các sự  vật gần gũi với cuộc sống của các em cũng như phù hợp với chương trình văn   miêu tả. lệnh của bài tập yêu cầu của học sinh tìm và gạch dưới các từ  ngữ  miêu tả  quan trọng, nổi bật hoặc nêu được những tác dụng của chúng trong  đoạn.      Ví dụ: Đọc đoạn văn sau và thực hiện yêu cầu bên dưới.                                                Chú bé vùng biển     Thằng Thắng, con cá vược của thôn Bần và là địch thủ bơi lội đáng gờm   nhất của bọn trẻ, lúc này đang ngồi trên chiếc thuyền đậu ở ngoài cùng. Nó   trạc tuổi thằng Chân “phệ” nhưng cao hơn hẳn cái đầu. Nó cởi trần, phơi   nước da rám đỏ khỏe mạnh của những đứa trẻ lớn lên với nắng, gió mặn và   nước biển. Thân hình nó rắn chắc, nở nang: cổ mập, vai rộng, ngực nở căng,   bụng thon hằn rõ những múi, hai cánh tay gân guốc như hai cái bơi chèo, cặp   đùi dế to, chắc nình nịch. Thắng có cặp mắt to và sáng. Miệng tươi, hay cười.   Cái trán hơi dô ra, trông có vẻ là một tay bướng bỉnh và gan dạ.                        (Bài 13B­tiết2, trang 5, tập 1B sách Hướng dẫn học Tiếng Việt   5) 1. Ghi lại những từ ngữ tả ngoại hình của Thắng. 2. Cách sử  dụng từ ngữ trong đoạn văn cho biết Thắng là cậu bé như  thế  nào?    b. Bài tập điền các từ ngữ miêu tả.     Mục đích của dạng bài tập này nhằm giúp học sinh dùng các từ  ngữ  miêu tả  chính xác, có hiệu quả  dựa trên những hiểu biết về  ngữ  nghĩa, về  cấu tạo cũng như khả năng kết hợp của chúng trong câu. Dữ kiện là các đoạn  văn đã được lược bỏ các từ ngữ miêu tả hoặc đoạn văn gồm các câu văn miêu   tả chưa hoàn chỉnh. Lệnh của bài tập được nâng cao dần từ việc lựa chọn từ  ngữ cho sẵn rồi  đến tự tìm từ ngữ hợp lí điền vào chỗ thích hợp. 10
  11.    Ví dụ: Hãy điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống trong đoạn văn sau:    Trước mặt chúng tôi là cánh đồng lúa chín… những bông lúa…đang chờ   tay người đến gặt, hạt lúa căng tròn béo múp…hứa hẹn một mùa…no ấm bội  thu.     c. Bài tập yêu cầu học sinh dùng từ, đặt câu với các từ ngữ, hình ảnh miêu   tả.     Những bài tập này có mục đích giúp học sinh vận dụng sự hiểu biết về  ngữ  nghĩa, cấu tạo, khả  năng kết hợp giữa các từ  trong câu, để  đặt câu phù  hợp với tình huống nói, viết. Câu văn học sinh viết ra phải đúng nghĩa, đúng  ngữ  pháp. Dữ kiện của bài tập là các hình  ảnh, từ  ngữ, câu văn miêu tả  đặc  điểm, hoạt động của đối tượng. Lệnh bài tập yêu cầu học sinh đặt câu hoặc   viết lại thành câu văn miêu tả từ những từ ngữ cho sẵn.       Ví dụ: Tìm những từ ngữ gợi tả các loại âm thanh trên sân trường. Hãy   đặt câu với các từ đó. d. Bài tập luyện tập mở rộng câu.      Qua quá trình khảo sát các bài văn của học sinh lớp 5B, tôi nhận thấy các   em thường viết những câu “cụt”, nội dung nghèo nàn, nông cạn. Các em chưa  biết phát triển các câu hoặc có phát triển nhưng không đúng ý, không sát chủ  đề. Từ đó tôi thấy cần phải luyện cho học sinh viết những câu văn mở rộng  nhằm khắc phục hạn chế  trên. Nhóm bài tập này được xây dựng thành hai  loại bài tập. Trong mỗi loại bài tập đó lại được chia thành các dạng bài tập   nhỏ hơn để luyện tập cho học sinh đi từ dễ đến khó.         ­ Loại bài tập luyện viết câu mở rộng.       Loại bài tập luyện viết câu mở  rộng bằng cách thêm các thành phần  phụ, giúp học sinh viết những câu văn sinh động, gợi cảm từ các ý nòng cốt   câu cho trước, từ đó học sinh có ý thức viết câu văn ngày càng sinh động, gợi  cảm.        Ví dụ: Từ  những câu chỉ  có thành phần nòng cốt dưới đây, em hãy   mở rộng câu bằng cách thêm các thành phần phụ.      + Chim hót.      + Gió thổi.      + Cô giáo giảng bài.      Học sinh có thể  viết:  Trên cành cây, những chú chim ri đang hót líu lo   như  vẫy chào chúng em.       ­ Loại bài tập luyện viết câu mở rộng bằng cách dùng biện pháp so   sánh, liên tưởng.       Ví dụ: Viết tiếp vào chỗ trống các dòng chưa rõ ý.     + Trên cành cây, những chú chim sâu đang hót líu lo………….…………………….…     + Nhìn từ xa, cánh đồng lúa xanh rờn…………………………………………………………………… 11
  12.     +   Trên   cột   cờ,   lá   cờ   đỏ  thắm……………………………………………………………………………………..      2.3.4.3. Bài tập rèn kĩ năng sử  dụng các biện pháp tu từ  trong đoạn   văn.      Trong chương trình Tiếng Việt  ở Tiểu học, học sinh đã được làm quen  với biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh nhưng các bài tập rèn kĩ năng sử  dụng   biện pháp tu từ khi viết văn chưa được đề cập nhiều trong sách giáo khoa lớp   5. Do đó, khi viết đoạn văn miêu tả, học sinh thường chưa biết cách so sánh,   nhân hóa hiện tượng, sự vật để chọn lựa được những từ ngữ có hình ảnh gợi  tả, gợi cảm, làm cho câu văn thêm uyển chuyển, mềm mại.       a. Bài tập nhận diện các biện pháp tu từ trong đoạn văn.      Đây là dạng bài tập nhằm mục đích giúp học sinh nhận ra biện pháp tu  từ (so sánh, nhân hóa) trong đoạn văn. Dữ kiện là những đoạn văn miêu tả có  sử dụng các biện pháp tu từ. Lệnh của bài tập yêu cầu học sinh tìm ra những  từ ngữ, hình ảnh có sử dụng biện pháp tu từ và nêu tác dụng của chúng trong  đoạn văn đó.    Ví dụ: Gạch dưới các từ ngữ có sử dụng biện pháp nhân hóa và cho biết  nó có tác dụng gì trong đoạn văn sau:    Mắt, mỏ  Chào Mào nhâng nháo, phởn phơ. Đứng đâu cũng nhún nhảy   làm điệu, đã thế đỉnh đầu lại chênh vênh đội lệch cái mũ nhung đen nháy.                                                                                (Theo Tô Hoài) b. Bài tập rèn kĩ năng sử dụng các biện pháp tu từ.       Bài tập này có mục đích giúp học sinh vận dụng những kiến thức đã học   về  biện pháp tu từ (nhân hóa, so sánh) để  thêm bộ  phận còn thiếu trong câu,   đoạn nhằm tạo ra những câu văn, đoạn văn gợi tả, gợi cảm. Bài tập được xây  dựng theo 2 mức độ: Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh so sánh hay nhân hóa vào chỗ  thích hợp và sử  dụng các biện pháp tu từ  để  luyện viết câu văn có hình ảnh,  cảm xúc.       Ví dụ:  Điền các cụm từ  ngữ  cho trong ngoặc đơn vào chỗ  trống trong   đoạn văn sau để có những hình ảnh so sánh đúng.                                                Chàng gà chọi    Đầu chàng to và hung dữ như………cái cổ bạnh và hai bắp đùi thì để lộ   ra. Da chàng đỏ  gay, đỏ  gắt, đỏ  tía, đỏ  bóng lên như……Mặt chàng lùi sùi   những mào, những tai, những mấy cái ria mép tím lịm như…….Một bên mắt   thì lép mịt mờ, còn một bên thì cứ chớp chớp nháy nháy như……….                                                                              (Theo Tô Hoài)  (có quét một lớp sơn thắm, mặt anh say rượu, cái vòng tròn vàng hoe, chiếc nắm   đấm)       2.3.5. Giúp học sinh làm các dạng bài tập rèn kĩ năng sắp xếp, liên kết   ý… trong đoạn văn. 12
  13.     2.3.5.1. Dạng bài tập rèn kĩ năng sắp xếp ý.    Với bài tập rèn kĩ năng sắp xếp ý, học sinh sẽ  ý thức rõ hơn về  sự  liên  kết này để viết ra để viết ra những đoạn văn miêu tả có các câu văn được sắp   xếp hợp lí, logic, thống nhất, mạch lạc về nội dung. Bài tập này yêu cầu học   sinh dựa vào ý để  sắp xếp các câu trong đoạn văn thành một chuỗi các hành  động, sự  việc liên tiếp nhau đề  cập đến một đối tượng chung hoặc các đối   tượng có mối quan hệ mật thiết với nhau.     Dữ kiện là các câu văn miêu tả một bộ phận, một phần của đối tượng  sắp xếp lộn xộn, rời rạc. Lệnh của bài tập yêu cầu học sinh dựa vào sự liên  kết ý của cáccâu văn để sắp xếp lại trật tự của chúng  thành một đoạn văn  hoàn chỉnh.    Ví dụ: Hãy sắp xếp lại các câu sau trong đoạn văn sau sao cho hợp lí.        (1) Vườn nhà tôi khá rộng với đủ  loại hoa quả, nhưng tôi thích nhất là   góc vườn phía đông trồng toàn cây ăn quả. (2) Nó được tôi rào lại như  một   khu vườn  riêng  biệt. (3)   Ngay  sát  chiếc  cổng nhỏ, một bụi  chuối  đã trổ   buồng.       (4)Cách đó không xa là cây dừa được trồng từ hồi ba tôi còn nhỏ   xíu. (5) Những trái chuối còn non lớn nhanh như thổi. (6) Mỗi lần nhìn mảnh   vườn này, tôi lại nhớ  tới nội tôi, người đã dày công vun xới cho khu vườn   thêm xanh tốt.       Khi thực hiện yêu cầu bài tập này, học sinh phải nắm được trình tự  phát  triển ý của bài văn miêu tả cây cối, từ đó với có thể lựa chọn, sắp xếp một cách   chính xác.                  Đoạn văn đã được sắp xếp lại: (1), (2), (3), (5), (4), (6)       2.3.5.2. Dạng bài tập rèn kĩ năng xây dựng và liên kết đoạn văn.       Chương trình Tiếng Việt lớp 5 chỉ giới thiệu ba phép liên kết: phép lặp,  phép thế và phép nối với nội dung ngắn gọn, đơn giản và dễ hiểu. Hệ thống   kĩ năng liên kết câu chủ yếu được hình thành qua các bài tập thực hành. Tuy   nhiên kiến thức về  các phép liên kết câu chưa được học sinh sử  dụng vào   việc viết văn, nên đoạn văn của các em thường rời rạc. Do đó tôi thiết kế  những bài tập rèn kĩ năng sử  dụng phương tiện liên kết trong đoạn văn và  được chia thành ba nhóm với mức độ đi từ thấp đến cao.       * Bài tập nhận diện phương tiện liên kết.        Mục đích của bài tập giúp học sinh phát hiện ra các phép liên kết dựa  vào các từ ngữ liên kết giữa các câu trong đoạn văn. Bên cạnh đó, sau khi phát  hiện được phép liên kết, các em thấy được công cụ  của nó trong đoạn văn  miêu tả. Dữ kiện của bài tập yêu cầu học sinh phép hiện phép liên kết đã học   trong chương trình. Lệnh của bài tập yêu cầu học sinh phát hiện phép liên kết  và nêu được tác dụng của chúng trong đoạn văn.       Ví dụ: Từ ngữ nào được lặp lại trong đoạn văn? Việc lặp lại các từ   ngữ này có tác dụng gì?     Chấm có một thân thể nở nang rất cân đối. Hai cánh tay béo lẳn và chắc   nịch, hai vai tròn và cái cổ  cao. Chấm  ước ao có một mái tóc của Chấm từ   13
  14. thuở  bé cứ  đỏ  quạch và không sao dài được. Đôi lông mày của Chấm không   tỉa bao giờ, nó mọc lòa xòa tự nhiên, làm cho đôi mắt sắc sảo của Chấm dịu   dàng đi…                                                                          (Chị Chấm, Đào Vũ)      * Bài tập vận dụng việc sử  dụng các phép liên kết câu để  hoàn  chỉnh đoạn văn miêu tả.      Dạy liên kết câu phải đi từ việc giúp học sinh nhận diện các hiện tượng  liên kết câu trên ngữ  liệu sinh động, điển hình, từ  đó rút ra những vấn đề  mang tính lý thuyết, khái quát để hướng các em vào quá trình giao tiếp cụ thể.       Bài tập có dữ  kiện là đoạn văn đã bị  lược bỏ  các từ  ngữ  liên kết. Yêu  cầu học sinh lựa chọn trong số  các từ  ngữ  đã cho hoặc phải tự  tìm từ  ngữ  hợp lý nhất điền vào chỗ trống để hoàn chỉnh đoạn văn.      Ví dụ: Tìm các từ  ngữ  thích hợp (trong ngoặc đơn,  ở  cuối bài) để  điền  vào  chỗ trống trong đoạn trích sau:     Sông Hương là một bức tranh phong cảnh khổ  dài mà mỗi đoạn, mỗi   khúc đều có vẻ đẹp riêng của nó. Cứ mỗi mùa hè tới,……bỗng thay chiếc áo   xanh hằng ngày bằng thành dải lụa đào  ửng hồng cả  phố  phường. Những   đêm trăng sáng….…là một đường trăng lung linh dát vàng……là một đặc ân   của thiên nhiên dành cho Huế.                                     (dòng sông, sông Hương, Hương Giang)           2.3.5.3. Dạng bài tập rèn kĩ năng phát hiện, sửa chữa lỗi và thực  hành viết đoạn văn.      Đoạn văn là yếu tố cấu thành  văn bản, có chủ đề thống nhất, có kết cấu   hoàn chỉnh, được đánh dấu bằng việc viết thụt vào, kết thức bằng dấu ngắt   xuống dòng.      Căn cứ  vào đặc điểm của đoạn văn: “Đoạn văn mang những đặc điểm   gần giống như văn bản: hoàn chỉnh về nội dung và hình thức”. Đồng thời căn  cứ  vào những loại lỗi học sinh mắc phải, tôi xây dựng thành hai bài tập lớn như  sau:        a. Loại  bài tập luyện phát hiện và sửa lỗi về nội dung.    ­ Dạng bài tập luyện phát hiện và sửa lỗi lạc chủ đề.    Giúp học sinh có kĩ năng nhận ra lỗi lạc chủ đề trong đoạn văn của mình   cũng như  của người khác. Tức là học sinh có khả  năng nhạy bén trong việc  nhận ra những câu phá vỡ tính liên kết chủ đề của đoạn văn.    Ví dụ:  Đoạn văn dưới đây có bị mắc lỗi lạc chủ đề  không?  Nếu có,   em hãy sửa lại cho hợp lí. “Chú mèo có bộ  lông rất đẹp. Những đốm hai màu nâu, vàng nổi bật   trên màu trắng trông chú như  một con báo gấm nhỏ. Mình chú to bằng quả   14
  15. mướp, đầu như  quả  cam, đôi mắt xanh lè, bộ  ria mép luôn luôn động đậy.   Dáng đi của chú uyển chuyển, nhịp nhàng. Phốc! Chú vọt ra chộp lấy con   chuột. Khi nằm ngủ hay sưởi nắng, cả thân hình chú cuộn tròn, cái đuôi giấu   kín trong lòng”. Trong bài tập này, học sinh sẽ phải tìm ra câu phá vỡ tính liên kết chủ đề  của đoạn văn. Chủ đề đang tả hình dáng lại có câu tả hoạt động “Phốc! Chú  vọt....”. Khi đã hiểu được sự bất hợp lí thì học sinh sẽ ghi nhớ và có cách sửa   lại hợp lí.     ­ Dạng bài tập luyện phát hiện và sửa lỗi câu mâu thuẫn nhau trong đoạn   văn.     Dạng bài tập này giúp học sinh có kĩ năng nhận ra lỗi câu mâu thuẫn  nhau  trong đoạn văn của mình cũng như của người khác.      Ví dụ: Không phải tất cả  các đoạn văn dưới đây đều mắc lỗi logic   (các câu mâu thuẫn nhau). Em hãy phát hiện ra đoạn mắc lỗi và đánh dấu   x vào                              trước đoạn đó và sửa lại cho hợp lí.     “Trong nhà là ba gian phòng nhỏ. Một gian là buồng có kê hai cái giường   ngủ. Một gian tiếp khách và một gian dành cho em và chị  Hương làm phòng   học tập. Tối tối, gia đình em thường ngồi quây quần bên ngọn đèn tỏa sáng   ấm áp. Êm đềm nhất là những buổi trời mưa, chúng em ngồi nghe bố  kể   chuyện kháng chiến vô cùng thú vị”.     “Hôm nay em được mẹ đi thăm đồng. Cánh đồng trông đẹp như  một tấm   thảm khổng lồ. Em nhìn thấy các cô, các bác nông dân đang say mê cấy lúa.   Những bông lúa chín vàng đang rung rinh như  thầm cảm  ơn các bác nông   dân”.       Như  vậy, học sinh sẽ phải tìm ra câu văn trong đoạn văn tả  cánh đồng.  Câu  “Những bông lúa chín vàng….” không cùng chủ  đề  với nội dung đoạn  văn tả  cánh đồng đang vào vụ cấy. Từ đó các em nắm được kiến thức và vận  dụng sửa lại.      ­ Dạng bài tập phát hiện và sửa lỗi phần mở bài, kết bài không phù  hợp với nội dung bài viết.      Giúp học sinh phát hiện lỗi viết đoạn mở bài hoặc kết bài không phù hợp   với nội dung bài viết, các em sửa lỗi và từ đó tránh được việc mắc lỗi này trong  bài làm văn.        Ví dụ đề bài như sau: “Em hãy tả một cây đang ra hoa”.      Với đề bài này, một bạn đã viết phần mở bài, kết bài dưới đây. Em hãy  xem mở đề ấy xem có phù hợp với nội dung bài viết theo yêu cầu của đề bài  không? Nếu chưa thỏa đáng, em hãy sửa lại. Mở  bài:  “Hôm nay là ngày chủ nhật, em được bố  mẹ cho đi thăm công viên Bách   Thảo”. 15
  16. Kết bài:“Em rất thích được đi công viên như  thế. Vì ở đây có nhiều trò chơi   đa dạng lí thú và bổ ích. Có lẽ vì thế mà mọi người hay đến đây để chơi”.           Học sinh sẽ  nhận biết được sự  bất hợp lí trong mở  bài trên vì chưa ăn  nhập với đề bài hay chưa nêu được đối tượng sẽ tả theo yêu cầu của đề bài.  Kết bài cũng vậy, chưa sát với yêu cầu nội dung của đề.        Sau khi phát hiện và sửa sai trong mỗi bài tập là cơ hội để học sinh được  trải nghiệm, được thực hành, từ đó mà tích lũy được những kiến thức bổ ích  để áp dụng vào việc viết bài văn tả cảnh của mình.       ­ Dạng bài tập luyện phát hiện và sửa lỗi lặp chủ đề (lặp ý).       Học sinh có kĩ năng nhận diện được đoạn văn mắc lỗi lặp từ, lặp ý  trong bài văn của mình cũng như của người khác.      Ví dụ: Đoạn văn sau có bị  mắc lỗi lặp từ, lặp ý không? Nếu có em   hãy chỉ ra những từ ngữ, ý bị lặp và sửa lại cho hợp lí.     “Bạn Tuấn năm nay vừa tròn mười tuổi. bạn có thân hình chắc khỏe.   Bạn có mái tóc cắt ngắn đen mượt. bạn có hàm răng trắng đều. Bạn có giọng   nói truyền cảm. Bạn có đôi mắt đen và to”.   Ở đây, học sinh sẽ phải tìm ra từ  bị lặp là “bạn”. Khi đã hiểu được sự  bất hợp lí thì học sinh sẽ  được ghi nhớ  và thực hành sửa lại bằng cách thay  thế bằng các đại từ khác.      b. Loại bài tập phát hiện và sửa lỗi hình thức.      Trong các đoạn văn của các em học sinh lớp 5 chúng tôi nhận thấy học  sinh  thường sử  dụng sai phương tiện liên kết: đại từ, phép nối, cặp từ  chỉ  quan   hệ…Từ đó, tôi xây dựng bài tập giúp các em sửa lỗi này trong khi viết văn.      ­   Dạng bài tập nhận diện lỗi về  phương tiện liên kết trong đoạn  văn.       Giúp học sinh phát hiện được lỗi dùng sai phương tiện liên kết trong   đoạn văn. Các em hiểu được việc dùng sai này sẽ  khiến cho nội dung đoạn  văn có thể bị hiểu sai lạc hoặc mâu thuẫn,…       Ví dụ: Các đoạn văn dưới đây có bị mắc lỗi về sử dụng phương tiện   liên kết không? Nếu có em hãy sửa lại cho phù hợp với nội dung đoạn   văn.      + Con đường bây giờ  phẳng phiu thẳng tắp, hai bên có hàng phi lao   thẳng tắp. Và mặt đườngcòn đầy những  ổ  gà, sống trâu…, bạch đàn khi  ấy   mới trồng bên đường, cây còn thấp, lá lơ thơ…      + Nhà em có nuôi một con gà mái hoa mơ. Chú gà đã được khoảng một   kilôgam rồi. Mình chú tròn và to giống như cái ấm tích. Chú có bộ lông vàng   rất đẹp. Những cái cổ cao và dài luôn nghiêng ngóng để tìm thức ăn. 16
  17.       Trong bài tập này, học sinh sẽ tìm được trong đoạn thứ 2: Tả một con gà  mái những từ liên kết không phù hợp là: “Chú” (để gọi gà trống); “Những” để  chỉ nhiều con gà. Từ đó các em sẽ tìm được các từ thay thế hợp lí.              c. Dạng bài tập luyện cho học sinh tự tách đoạn văn trong bài văn.        Thực tế cho thấy, rất nhiều học sinh viết bài văn chưa biết tách đoạn ở  đâu  cho đúng dẫn đến tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia” câu mang nội dung   của đoạn này lại bị tách sang đoạn kia, dẫn đến sai chủ đề. Bài tập dạng này   giúp cho học sinh có kĩ năng viết văn bản trong đó biết cách tách đoạn theo sự  thay đổi của nội dung.       Ví dụ đề bài: “Em hãy tả lại cô giáo của em”.    Yêu cầu: Trong bài văn của mình các phần tả  hình dáng, tính tình, công  việc… nếu viết tách thành từng đoạn mang ý rõ ràng (cách này học sinh dễ  viết hơn) thì cần trình bày thành các đoạn mang đúng nội dung của đoạn và   đúng hình thức đoạn văn.         2.3.6 Bồi dưỡng vốn sống, tình yêu văn học cho học sinh thông qua   các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ Tiếng Việt:         Để  làm được điều này tôi đã tổ  chức những buổi học ngoài lớp. Công  khai kế  hoạch học ngoại khóa như: Giới thiệu cảnh đẹp quê em: Cảnh đẹp  cánh đồng lúa vàng thơm, Nhà máy giày da ANORA, Cảnh đẹp sông nước,   Đài tưởng niệm lịch sử, Đền Khánh Trạch, Chùa Thiên Vương, Khu nhà  ở  của chuyên gia Lọc hóa dầu,... (thăm cảnh biển, cánh đồng lúa, quang cảnh   trong sân trường…) cho  học sinh với những định hướng cụ thể.          Ngoài ra tôi cũng phối hợp với Tổng phụ  trách Đội tổ  chức giờ  hoạt  động  tập thể  với các hình thức trò chơi dân gian, thi rung chuông vàng, đuổi hình  bắt chữ... để  tất cả  các em được tham gia, được giao lưu nhằm phát triển  ngôn ngữ, kĩ năng giao tiếp. Cùng học sinh tham gia vào các buổi sinh hoạt  câu lạc bộ  Tiếng Việt nhằm giúp học sinh có vốn từ  ngữ  phong phú, định  hướng nội dung viết đoạn văn tốt hơn. 17
  18.                                                                                                       Một buổi sinh hoạt ngoại khóa của lớp       Luôn quan tâm, nhắc nhở các em tham gia tích cực giờ  đọc sách tại thư  viện nhà trường, bên cạnh đó tôi còn xây dựng “Góc thư  viện”, “Tủ  sách,  truyện đọc” của lớp để  các em có điều kiện đọc và học hỏi thường xuyên   hơn. Hướng các em tới những tác phẩm văn học gần gũi với cuộc sống của   trẻ  thơ  như  Dế  Mèn phiêu lưu kí (Tô Hoài), Góc sân và khoảng trời (Trần   Đăng Khoa),… Khuyến khích các em xem và tự  học, tự đọc, tự  tìm hiểu văn  miêu tả trên sách báo, trên kênh giáo dục và phương tiện truyền thanh, truyền   hình, Internet. Hàng tuần tôi thường tổ chức cho các em cuộc thi tập viết, tập   nhìn nhận, tập quan sát về các đối tượng miêu tả. Ngoài ra, trong 10 phút sinh   hoạt đầu giờ tôi còn tổ chức cho học sinh nghe những đoạn, bài văn hay. Các   em còn được đọc nhiều sách, truyện hay, bổ ích, ý nghĩa do Tủ Sách Lam Sơn   mến tặng, sau mỗi câu truyện, mỗi cuốn sách các em biết viết cảm nhận vào   sổ tay của mình để rèn luyện thêm kĩ năng viết đoạn văn. 18
  19.                                 Học sinh đọc sách, truyện ngoài giờ        2.4. Hiệu quả.      Qua thời gian áp dụng các biện pháp nhằm giúp học sinh trong lớp viết  tốt hơn đoạn văn trong bài văn miêu tả, Kết quả thu được khá khả quan.      ­ Tất cả  học sinh của lớp đều đã nhận thức, nắm vững được tầm quan  trọng  của việc viết các đoạn văn miêu tả. Kĩ năng viết đoạn văn của các em được   nâng  lên rõ rệt. Có nhiều bài viết hay đã áp dụng được các biện pháp nghệ thuật văn   học.      ­ Từng bước đưa chất lượng giảng dạy của mình đạt hiệu quả, vốn từ ngữ  của học sinh phong phú hơn. Học sinh biết liên kết đoạn văn ở bài Tập làm văn  của mình.      Dưới đây là kết quả  đánh giá kĩ năng viết đoạn văn giữa kì II của   lớp.     Đề bài: Em hãy tả lại cánh đồng lúa chín vào một buổi sáng. Kết quả bài thi của học sinh như sau: Viết đoạn   Viết đoạn văn   Viết đúng   Chưa viết được   văn lủng   Số   hay đoạn văn đoạn văn củng HS SL % SL % SL % SL % 19
  20. 25 7 28 17 68 1 4 0 0      Nhìn vào bảng thống kê ta thấy: Tỷ  lệ  học sinh biết vận dụng kĩ năng   viết đoạn văn đạt hiệu quả khá cao. Dưới đây là một đoạn văn trong bài kiểm   tra của em Nguyễn Như Bảo.             Nhiều học sinh đã có sự  tiến bộ  đáng kể. Trước đây, các em   Nguyễn   Ngọc  Ánh, Trần  Thị  Minh  mắc khá nhiều lỗi. Dùng từ, đặt câu còn sai   nhiều; dùng nhầm lẫn các dấu câu; kĩ năng viết đoạn văn rất hạn chế. Nay   các em đã biết dùng từ khá hợp lí trong các tình huống cụ thể, và quan trọng là   kĩ năng viết đoạn văn được nâng lên rõ rệt.      Đây là một đoạn văn khi học bài 7C – Cảnh sông nước, của học sinh  Nguyễn Tuấn Dũng được tôi lưu lại. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2