intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

So Sánh 2 Phương Pháp Điều Trị Ung Thư Gan Nguyên Phát

Chia sẻ: Than Kha Tu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:2

168
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này so sánh Đốt Nhiệt bằng Sóng Cao Tần (Radiofrequency thermal ablation) với Tiêm Ethanol Qua Da (percutaneous ethanol injection) để điều trị carcinoma gan nguyên phát nhỏ trên nền xơ gan: phân tích gộp từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: So Sánh 2 Phương Pháp Điều Trị Ung Thư Gan Nguyên Phát

  1. So Sánh 2 Phương Pháp Điều Trị Ung Thư Gan Nguyên Phát Nghiên cứu này so sánh Đốt Nhiệt bằng Sóng Cao Tần (Radiofrequency thermal ablation) với Tiêm Ethanol Qua Da (percutaneous ethanol injection) để điều trị carcinoma gan nguyên phát nhỏ trên nền xơ gan: phân tích gộp từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng. 1. Đối tượng nghiên cứu Đốt nhiệt bằng sóng cao tần (RF) và tiêm ethanol qua da (PEI) đã được dùng để điều trị carcinoma gan nguyên phát (HCC) nhỏ. Mục đích của nghiên cứu này là xem xét lại các chứng cứ có sẵn so sánh RF với PEI áp dụng cho các khối HCC nhỏ. 2. Phương pháp nghiên cứu - Chiến lược tìm kiếm: Sử dụng các dữ liệu của Cochrane, MEDLINE, CANCERLIT, và ENBASE. - Tiêu chuẩn chọn lọc: Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh RF với PEI. - Các dữ liệu được rút ra từ mỗi thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (randomized controlled trial=RCT). - Các kết cục chủ yếu là độ sống còn toàn bộ và sự tái phát tại chỗ. - Dùng các phần mềm phân tích gộp và các khác biệt nguy cơ (risk differences=RDs), khoảng tin cậy CI 95%, Q-test cho tính không đồng nhất (heterogeneity) cũng được tính toán. 3. Kết quả - Đã nhận diện được 5 RCT bao gồm 701 bệnh nhân.
  2. - Độ sống còn toàn bộ cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân được điều trị bằng RF so với những bệnh nhân điều trị bằng PEI (Khác biệt nguy cơ RD 0,116, 95% CI 0,173/0,060; tính không đồng nhất không thấy). - Tỉ lệ tái phát tại chỗ ở những bệnh nhân điều trị bằng phương pháp PEI cao hơn đáng kể so với những bệnh nhân điều trị bằng RF. - Ở nhóm điều trị bằng RF tỉ lệ sống còn 1, 2 và 3 năm không ung thư (cancer- free survival) khá hơn đáng kể so với những bệnh nhân điều trị bằng PEI (lần lượt là: RD 0,098-95% CI 0,006/0,189; độ không đồng nhất P=0,57; RD 0,187, 95% CI 0,082/0,293; độ không đồng nhất P=0,98; RD 0,210, 95% CI 0,095/0,325; độ không đồng nhất P = 0.78). Một số nhỏ các phản ứng phụ được báo cáo ở cả 2 phương pháp điều trị. 4. Kết luận - Đốt u bằng RF hiệu quả hơn PEI trong điều trị các HCC nhỏ về các mặt sống còn toàn bộ, tỉ lệ sống còn 1, 2 và 3 năm, tỉ lệ sống còn 1, 2 và 3 năm không ung thư, và đáp ứng của khối u. - RF cho tỉ lệ tái phát tại chỗ thấp hơn đáng kể.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2