So sánh các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học trong Hiến pháp Trung Quốc và hiến pháp một số nước Đông Nam Á – Những kinh nghiệm có thể tiếp thu
lượt xem 12
download
So sánh Khác với nhóm quốc gia Châu Âu hay Bắc Mỹ, nơi mà các nguyên tắc về dân chủ và nhà nước pháp quyền được chấp nhận và thực thi đầy đủ trên thực tiễn và có sự tương đồng cao về chính trị, thì Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lại có sự khác biệt lớn về chế độ chính trị, quan niệm về dân chủ, nhà nước pháp quyền, kể cả về chức năng, bản chất của hiến pháp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: So sánh các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học trong Hiến pháp Trung Quốc và hiến pháp một số nước Đông Nam Á – Những kinh nghiệm có thể tiếp thu
- So sánh các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học trong Hiến pháp Trung Quốc và hiến pháp một số nước Đông Nam Á – Những kinh nghiệm có thể tiếp thu
- 1. So sánh Khác với nhóm quốc gia Châu Âu hay Bắc Mỹ, nơi mà các nguyên tắc về dân chủ và nhà nước pháp quyền được chấp nhận và thực thi đầy đủ trên thực tiễn và có sự tương đồng cao về chính trị, thì Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lại có sự khác biệt lớn về chế độ chính trị, quan niệm về dân chủ, nhà nước pháp quyền, kể cả về chức năng, bản chất của hiến pháp. Do sự khác biệt này dẫn đến các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ trong Hiến pháp Trung Quốc 1982 và hiến pháp một số nước Đông Nam Á khác biệt nhau khá lớn. Nhà nước cai trị và nhà nước phục vụ Do ảnh hưởng bởi quan niệm triết học “nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp không thể dung hòa được nữa, công cụ bạo lực của giai cấp này đối với giai cấp khác1[1]”. Nên Lời nói đầu của Hiến pháp Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định nhà nước Trung Quốc là “nhà nước chuyên chính vô sản)”2[2]. Với cách quan niệm này thì nhà nước tiếp tục thực hiện chức năng cai trị giống như chức năng cai trị của nhà nước phong kiến hàng ngàn năm trước, chỉ khác ở chỗ là nhà nước phong kiến phục vụ giai cấp phong kiến, còn nhà nước Trung Quốc hiện nay phục vụ giai cấp vô sản. Khi quan niệm nhà nước sinh ra là để cai trị, thì sẽ dẫn đến tiếp cận vấn đề văn hóa, giáo dục, khoa học trước hết là vấn đề “quản lý nhà nước đối với văn hóa, giáo dục, khoa học”, để bảo đảm sự thống trị về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản,
- chứ không tiếp cận văn hóa, giáo dục, khoa học là một quyền cơ bản của công dân. Ngược lại với quan niệm trên về nhà nước thì hiến pháp các nước Thái Lan, Singapore, Indonesia, Malaysia, Philipines coi nhà nước sinh ra sau con người và do tất cả thành viên trong xã hội lập ra để phục vụ chính mình, nên nhà nước có chức năng phục vụ. Do các bản hiến pháp này quan niệm nhà nước là của dân, do dân, vì dân chứ không phải là của giai cấp, do giai cấp, vì giai cấp như Hiến pháp Trung Quốc. Và khi nhà nước là của dân, do dân và vì dân hay nói cách khác nhà nước là của toàn bộ xã hội thì văn hóa, giáo dục, khoa học không có chức năng nhằm bảo đảm sự thống trị về mặt tư tưởng của một nhóm người nào cả, mà thay vào đó là bảo vệ quyền về văn hóa, giáo dục, khoa học của tất cả các thành viên và phục vụ nhu cầu văn hóa, giáo dục của công dân trên cơ sở công dân trả tiền thuế. Chính vì quan niệm này, nên hiến pháp các nước ASEAN tiếp cận các vấn đề văn hóa, giáo dục, khoa học chủ yếu với tư cách là các quyền cơ bản của công dân, chứ không tiếp cận với mục tiêu áp đặt tư tưởng, để bảo đảm sự thống trị về mặt tư tưởng của thế lực cầm quyền. Pháp luật tự nhiên và pháp luật thực chứng: quyền của công dân và quyền của nhà nước cái nào có trước? Người Trung Quốc xây dựng hiến pháp dựa trên chủ nghĩa pháp luật thực chứng. Pháp luật thực chứng với mệnh đề điển hình: “Luật là luật,
- mệnh lệnh là mệnh lệnh, bất chấp nội dung của nó thế nào” 3[3]. Theo quan niệm của chủ nghĩa pháp luật thực chứng thì quyền của công dân có được là do nhà nước trao cho, hay nói cách khác nhà nước là người đóng vai trò ban phát quyền cho công dân. Còn quyền lực nhà nước bắt nguồn từ đâu? Họ quan niệm quyền lực nhà nước bắt nguồn từ cuộc đấu tranh giai cấp4[4] và bạo lực cách mạng; quyền lực gắn liền với sức mạnh và chỉ sức mạnh, không nhất thiết phải có tính chính đáng (legitimation). Chủ nghĩa pháp luật thực chứng được học giả biết đến với câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông5[5]: quyền lực hình thành từ nòng đại bác. Tư duy của chủ nghĩa pháp luật thực chứng thể hiện rõ nhất tại Điều 43, 44, 45, 46 Hiến pháp Trung Quốc 1982, khi quy định về quyền của công dân theo công thức “nhà nước quy định”, “nhà nước bảo đảm”, “nhà nước phát triển”6[6]. Cũng chính vì quan niệm này, mà thực tiễn pháp luật ở Trung Quốc cho thấy, phạm vi quyền tự do mà công dân được hưởng trên thực tế sẽ được cân nhắc trong mối quan hệ lợi ích nhà nước – công dân, chứ không chú trọng quan hệ công dân – công dân. Và hệ quả của đặt trọng tâm của việc cân nhắc vào lợi ích nhà nước, là một vấn đề nào đó khó quản lý thì cách đơn giản nhất là “cấm”. Ngược lại với Hiến pháp Trung Quốc, hiến pháp các nước Malaysia, Indonesia, Singapore, Thái Lan xuất phát từ quan niệm về pháp luật tự nhiên để đi đến quan niệm hiến pháp là bản khế ước xã hội. Và thông
- qua khế ước xã hội này, nhân dân trao quyền cho nhà nước. Hay nói cách khác, những quyền mà nhà nước có là do dân ủy cho. Quyền cơ bản của công dân trong hiến pháp không phải là "quà tặng" của nhà nước trao cho nhân dân, mà là quyền tự nhiên vốn có của nhân dân, và nhân dân quyết định giữ lại hoàn toàn mang tính bất khả xâm phạm hoặc trao cho nhà nước quyền hạn chế một vài quyền tự do cơ bản trong những điều kiện và theo những nguyên tắc mà hiến pháp đã ấn định. Khi cân nhắc hạn chế hay chi tiết hóa các quyền cơ bản của công dân, các nhà lập pháp, lập quy phải cân nhắc việc hạn chế quyền tự do trước hết là trong mối quan hệ công dân – công dân, giữa quyền tự do của người này với quyền tự do của người khác, giữa hai quyền tự do mang tính loại trừ và trong một trường hợp cụ thể thì cần phải ưu tiên quyền tự do nào trước quyền tự do này7[7]. Và tất cả sự cân nhắc này là vì quyền tự do của công dân, nhằm mục đích bảo đảm quyền tự do của công dân tốt hơn, chứ không phải vì mục đích tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quản lý nhà nước. Điều này thể hiện ra trong kỹ thuật soạn thảo hiến pháp các nước Thái Lan, Indonesia, Singapore, Malaysia thường đặt ra các nguyên tắc chặt chẽ đối với các nhà lập pháp trong quá trình ban hành các quy định hạn chế hoặc chi tiết hóa các quyền tự do cơ bản của công dân, đặc biệt hạn chế sự tùy tiện của nhà nước trong vấn đề này8[8]. Cũng chính vì quan niệm về quyền tự nhiên của con người, nên hiến pháp các quốc gia này phân biệt rõ nhân quyền, quyền cơ bản của công dân, quyền của
- công dân theo các văn bản luật và dưới luật. Sự khác biệt theo quan điểm của họ không chỉ dừng lại ở cấp độ văn bản thể hiện nội dung các quyền đó, mà sự khác biệt về mặt bản chất và biện pháp bảo vệ. Còn Hiến pháp Trung Quốc, xuất phát từ quan niệm của chủ nghĩa pháp luật thực chứng cho rằng tất cả các loại quyền mà người dân có được là do nhà nước trao cho, kể cả quyền con người phải được nhà nước công nhận thì mới có giá trị, nên quyền con người, quyền cơ bản của công dân và quyền công dân trong các văn bản luật, dưới luật chỉ khác nhau ở cấp độ thể hiện của văn bản, chứ không khác nhau về bản chất và tất cả ba loại quyền này đều là quyền “theo quy định của pháp luật”, không có quyền nào là quyền tự nhiên vốn có của con người cả. Giới hạn và định hướng cho khoa học Về mục đích và giới hạn của nghiên cứu khoa học trong Hiến pháp Trung Quốc 1982 và hiến pháp các nước Malaysia, Indonesia, Singapore, Thái Lan có sự khác biệt rất đáng kể. Hiến pháp các nước ASEAN vừa liệt kê đưa ra một vài giới hạn cho nghiên cứu khoa học như: cấm các khoa học phát triển các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Còn Hiến pháp Trung Quốc 1982 thì chưa yên tâm với việc vạch ra các vùng cấm như hiến pháp các nước ASEAN mà còn áp dụng một biện pháp hạn chế thứ hai: định hướng, đặt ra kim chỉ nam cho khoa học, đặc biệt là đối với khoa học xã hội, phạm vi nghiên cứu phải tuân theo một trục tiền định, được đặt ra từ hàng trăm năm trước, để bảo đảm rằng khoa học sẽ phục vụ tốt nhất cho nhà nước. Để bảo đảm được điều này thì đòi hỏi nhà nước Trung Quốc phải đóng vai trò lớn hơn so với
- các nhà nước ASEAN, bà đỡ cho nghiên cứu khoa học. Điều này thể hiện ra về mặt hình thức: từ “nhà nước” được nhắc đến rất nhiều lần trong Chương 2 của Hiến pháp Trung Quốc 1982 nói chung và các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học nói riêng. Quyền và nghĩa vụ Theo quan niệm của các nước theo chủ nghĩa pháp luật tự nhiên thì đối với nhân quyền thì chỉ có quyền mà không đề cập nghĩa vụ. Và đối với một vấn đề thì hoặc là chủ thể có quyền hoặc là có nghĩa vụ, vì vậy trong hiến pháp của các quốc gia này không tìm thấy quy định theo kiểu “công dân có quyền đồng thời có nghĩa vụ...”. Ngược lại trong Chương các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của Hiến pháp Trung Quốc 1982 có một số điều khoản quy định công dân vừa có quyền đồng thời nghĩa vụ đối với một số vấn đề (Điều 42: làm việc , Điều 46: học tập). Điều này, thực sự gây lúng túng cho những công dân thực sự tin tưởng vào hiến pháp, họ sẽ băn khoăn tự hỏi nếu họ có nhà cho người khác thuê, có tiền gửi ngân hàng lấy lãi và dùng tiền đó để chi tiêu và thời gian còn lại đi ngao du tứ hải thì có bị bỏ tù vì vị phạm nghĩa vụ làm việc ở Điều 42 Hiến pháp Trung Quốc1982; và nếu bỏ học đại học giữa chừng theo gương Billgate thì có bị xem là không thực hiện nghĩa vụ học tập tại Điều 46 Hiến pháp Trung Quốc 1982 không? 2. Khuyến nghị
- Qua phân tích, so sánh các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học trong Hiến pháp Trung Quốc 1982 và hiến pháp một số nước Đông Nam Á, có thể rút ra một số bài học sau cho Việt Nam: Xây dựng các quy định hiến pháp nói chung, cũng như các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học nên dựa vào quan niệm "nhà nước phục vụ" thay vì quan niệm "nhà nước cai trị". Khi đưa ra các quy định hiến pháp về quyền cơ bản của công dân liên quan văn hóa, giáo dục, khoa học thì nên xem rõ quyền đó là "vị nhà nước" hay “vị nhân dân", và quyền đó mang tính tự nhiên hay do nhà nước ban phát. Đối với một vấn đề thì công dân chỉ có quyền hoặc nghĩa vụ, chứ không nên quy định quyền đồng thời nghĩa vụ. Nên đưa ra con đường cụ thể cho công dân bảo vệ các quyền tự do cơ bản của mình khi cho rằng quyền của mình đang bị xâm phạm. Theo đó, "khi quyền và tự do của một người được công nhận bởi hiến pháp này nhưng bị xâm phạm thì có thể viện dẫn các điều khoản của hiến pháp này để khởi kiện ra trước tòa án hoặc sử dụng các điều khoản hiến pháp để bảo vệ mình trước tòa án". Một người có thể khởi kiện trực tiếp chống lại nhà nước phù hợp với các điều khoản của hiến pháp. Nên đặt ra các tiêu chí, điều kiện, phạm vi hạn chế đối với cơ quan lập pháp mà Điều 29 Hiến pháp Thái lan 2007 là một ví dụ tốt. Các đạo luật vượt ra ngoài phạm vi này ngay lập tức bị coi là vi hiến. Trong bốn
- tiêu chí này có một tiêu chí về hình thức và ba tiêu chí về nội dung. Các tiêu chí này gồm: tố quyền kèm theo (Rechtswegsgrantie), phải viện dẫn điều khoản hiến pháp (Zitiergebot), không được ban hành luật nhắm vào áp dụng cho một trường hợp cụ thể (Einzelverbot), tính bất khả xâm phạm của vùng lõi của quyền tự do (Wesensgehaltsgarantie) và nguyên tắc mối quan hệ tương đối (Verhältnisprinzip). Nên tham khảo kỹ thuật lập hiến đơn giản của Hiến pháp Singapore năm 1965. Kỹ thuật này đưa ra quyền tự do + đưa ra hai nhóm tiêu, hai nhóm quan hệ xã hội mà các quyền tự do có thể bị hạn chế. Nghĩa là ngoài hai nhóm này thì công dân hoàn toàn tự do. Trong quá trình xây dựng các quy định liên quan quyền của công dân liên quan văn hóa, giáo dục, khoa học nên phân biệt rõ hai loại quyền: các quyền tự do mang tính loại trừ và các quyền tự do phải được tổ chức, triển khai. Đối với quyền tự do thuộc nhóm thứ nhất thì chỉ cần không bị người khác cấm đoán, xâm phạm thì tự nó đã được xem là hiện thực hóa. Còn đối với nhóm quyền thứ hai, nếu không có sự tổ chức triển khai thì sẽ không thể trở thành hiện thực. Nên quyền này mang tính chất là “quyền thụ hưởng" hơn là quyền tự do./.
- [1] Hans Kelsen. (1976). The communist Theory of law. Scientia Verlag. Newyork. p.53. [2] Bằng tiếng Anh: “The people's democratic dictatorship led by the working class and based on the alliance of workers and peasants, which is in essence the dictatorship of the proletariat, has been consolidated and developed“. [3] Gustav Radbruch (2003), Fünf Minuten Rechtsphilosophie, in: Rechtsphilosophie – Studienaufgabe: Herausgeben von Ralf Dreier und Stanley L.Paulson, S. 209. [4] Friedrich Engels (1884), Kapitel „Entstehung des athenischen Staats“ in "Der Ursprung der Familie, des Privateigentums und des Staats"; vgl. Karl Max (1850), Die Klassenkämpfe in Frankreich 1848 bis 1850 [5] Christopher Enright (2005), Introduction to Legal Theory, am 28.5.2005 S. 2 [6]Xem Hiến pháp Trung Quốc 1982 tại http://english.peopledaily.com.cn/constitution/constitution.html 9[7] Xem Điều 28 Khoản 1 Hiến pháp Thái Lan năm 2007.
- 10[8] Điển hình là Điều 29 Hiến pháp Thái Lan năm 2007. TS. Võ Trí Hảo - Khoa Luật Kinh tế, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ luật so sánh
7 p | 63 | 13
-
Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng – so sánh quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam và Bộ luật dân sự Pháp
10 p | 54 | 11
-
Nghiên cứu so sánh các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của Campuchia, Lào và Việt Nam
15 p | 15 | 8
-
Hoàn thiện khái niệm nhãn hiệu trong luật sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 dưới góc độ luật so sánh
7 p | 92 | 7
-
Một số khía cạnh so sánh và bình luận các quy định của CISG và luật thương mại Việt Nam về nghĩa vụ nhận hàng và quyền từ chối nhận hàng của người mua
15 p | 46 | 7
-
Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – so sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam
10 p | 50 | 6
-
Các quy định của pháp luật về hòa giải trong tố tụng Trọng tài tại Việt Nam hiện nay
19 p | 46 | 6
-
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng thương mại vô hiệu do giao kết không đúng thẩm quyền - kinh nghiệm các nước thành viên Liên minh Châu Âu
16 p | 78 | 5
-
So sánh hình phạt tiền trong Pháp luật Hình sự Việt Nam với một số nước trên thế giới
13 p | 13 | 4
-
So sánh các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong luật hình sự Cộng hòa Pháp và luật hình sự Việt Nam
4 p | 40 | 3
-
Bài giảng Luật học so sánh: Tổng quan về luật học so sánh
44 p | 13 | 3
-
Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến đề nghị giao kết hợp đồng trong bộ luật dân sự
8 p | 62 | 3
-
Nghiên cứu so sánh các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Luật Hình sự An-giê-ri, Ma-rốc và Việt Nam
15 p | 78 | 3
-
Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống dưới góc độ so sánh luật
7 p | 45 | 3
-
So sánh các quy định của pháp luật về cho thuê lại lao động được ban hành trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2023
10 p | 7 | 2
-
So sánh tham chiếu với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và các quy định của Tổ chức thương mại thế giới: Phần 2
200 p | 8 | 1
-
So sánh tham chiếu với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và các quy định của Tổ chức thương mại thế giới: Phần 1
54 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn