
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ não được coi là một bệnh lý có thể phòng ngừa và điều trị được.
Trong vòng hai mươi năm qua, những tiến bộ về khoa khọc đã thay đổi quan
điểm cho đột quỵ não là hậu quả của tuổi tác và không thể phòng ngừa dẫn
đến kết cục là tử vong hoặc tàn tật. Các bằng chứng gần đây cho thấy hiệu
quả của các chiến lược điều trị dự phòng tiên phát và thứ phát, nhận biết các
bệnh nhân có nguy cơ cao và can thiệp có hiệu quả khi triệu chứng đột quỵ
não xuất hiện. Những hiểu biết về điều trị đột quỵ não được nâng cao, kèm
theo đó vai trò của phục hồi chức năng giảm di chứng tàn tật cho bệnh nhân
cũng ngày càng được cải thiện [1],[2].
Tăng áp lực nội sọ là một biến chứng nặng gặp ở các bệnh nhân đột quỵ
não. Bình thường áp lực nội sọ dưới 15 mmHg ở người lớn, khi áp lực nội sọ
trên 20 mmHg là bệnh lý, cần phải được điều trị [3]. Cơ chế bệnh sinh của
tình trạng tăng áp lực nội sọ là chủ đề của rất nhiều các nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu lâm sàng. Những tiến bộ về kỹ thuật đo áp lực nội sọ, các tiến bộ
về chẩn đoán hình ảnh và sự thành lập các trung tâm hồi sức thần kinh đã góp
phần làm giảm tỷ lệ tử vong và tàn phế có liên quan đến tăng áp lực nội sọ
[4]. Một vài biện pháp điều trị tăng áp lực nội sọ trong tai biến mạch não là đề
tài của các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, tuy vậy, hầu hết các
khuyến cáo đều dựa trên các kinh nghiệm lâm sàng. Để điều trị thành công
tăng áp lực nội sọ cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, từ bước nhận biết sớm,
theo dõi bằng các kỹ thuật xâm nhập, điều trị tăng áp lực nội sọ theo các phác
đồ chuẩn đi kèm với xử trí nguyên nhân có thể giải quyết được như: phẫu
thuật lấy khối máu tụ, dùng thuốc tiêu sợi huyết, xử trí giãn não thất cấp.