intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trường kinh doanh

Chia sẻ: Meo Con Kitty | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

1.026
lượt xem
130
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bất cứ một doanh nghiệp nào đều tham gia trong một môi trường và đều phụ thộc vào nó. Trong môi trường ấy có những điều kiện thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cũng không hiếm những nguy cơ, thách thức. Vì vậy nghiên cứu môi trường kinh doanh nghiệp nhận thức được đâu là cơ hội, là điều kiện thuận lợi, đâu là thách đố, là nguy cơ, thuận lợi là chủ yếu hay nguy cơ là chủ yếu… Từ đó quyết định các vấn đề có liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trường kinh doanh

  1. Bài kiểm tra môn Marketing Đề bài: Vì sao trong hoạt động kinh doanh cần thiết phải nghiên cứu môi trường marketing? Lấy ví dụ cụ thể của sự ảnh hưởng tới mỗi môi trường Marketing vĩ mô khi Việt Nam gia nhập WTO. Bài làm Ι. Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trường marketing trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một doanh nghiệp nào đều tham gia trong một môi trường và đều phụ thộc vào nó. Trong môi trường ấy có những điều kiện thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cũng không hiếm những nguy cơ, thách thức. Vì vậy nghiên cứu môi trường kinh doanh nghiệp nhận thức được đâu là cơ hội, là điều kiện thuận lợi, đâu là thách đố, là nguy cơ, thuận lợi là chủ yếu hay nguy cơ là chủ yếu… Từ đó quyết định các vấn đề có liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình. Môi trường marketing bao gồm môi trường Marketing vĩ mô và môi trường Marketing vi mô. -Môi trường marketing vĩ mô bao gồm các yếu tố, các lực lượng mang tinh chất xã hội rộng lớn, chúng có ảnh hưởng đến toàn bộ môi trường marketing vi mô, tất cả các yếu tố của môi trường này người làm marketing không thể kiểm soát được. Vì vậy, họ phải nghiên cứu thật kĩ để tìm cách thích nghi. Trong đó: + Nghiên cứu về dân số giúp doanh nghiệp nắm bắt được thị trường của mình, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với từng đối tượng khách hàng và biết được sức cầu của công chúng nhằm cung ứng một lượng hàng nhất định. + Nghiên cứu môi trường kinh tế giúp doanh nghiệp nắm được sức mua và cơ cấu chi tiêu
  2. của dân cư, từ đó đưa ra kế hoạch sản xuất phù hợp. +Nghiên cứu môi trường văn hóa-xã hội giúp doanh nghiệp hiểu được những phong tục tập quán thói quen, tiêu dùng của từng nhóm dân cư ở các vùng và từ đó cung ứng những sản phẩm và dịch vụ hợp với nền văn hóa của nơi đó. + Nghiên cứu môi trường chính trị và pháp luật: hiểu được những qui định, pháp lý, những quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp sẽ có kế hoạch để tận dụng tối đa những quyền lợi mà pháp luật đem lại đồng thời kinh doanh đúng pháp luật,thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Việc xem xét tình hình chính trị có ổn định hay không tạo điều kiện cho doanh nghiệp có những quyết định đầu tư an toàn nhất. + Nghiên cứu môi trường khoa học và công nghệ: có ảnh hưởng trực tiếp tới việc tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là một trong những nhân tố mang tính chất quyết định khi doanh nghiệp cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường. + Nghiên cứu môi trường tự nhiên giúp doanh nghiệp trả lời câu hỏi về nguyên nhiên vật liệu và việc xử lý phụ phẩm. II. Tác động của việc VN gia nhập WTO tới mỗi môi trường marketing vĩ mô. 1. Môi trường dân số 2. môi trường kinh tế Phần lớn các chuyên gia kinh tế của chúng ta đều cho rằng những vận hội và thách thức này đan xen nhau, trong vận hội có thách thức, trong thách thức có vận hội. Trong vận hội có thách thức ở chỗ, dù có vận hội to lớn, nhưng nếu ta không có khả năng nhận biết nó, có gan giành lấy nó, có sức nắm bắt, khai thác nó, thì nó sẽ trôi đi hoặc người khác sẽ giành lấy mất.
  3. Những vận hội và thách thức nào đang chờ đón chúng ta khi gia nhập WTO? Về vận hội, đây là thời cơ mới để chúng ta thúc đẩy việc mở rộng quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế với các nước khác, tạo vị th ế vững chắc hơn trong tham gia phân công lao động quốc tế, đồng thời đẩy mạnh công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở trong nước, tạo năng lực cạnh tranh mạnh hơn, đưa nền kinh tế đất nước lên trình độ phát triển cao hơn. Hai mặt này gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau, có thể cùng nhau tạo một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển của nước ta. Về mở rộng quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế với các nước, những cơ hội cụ thể của chúng ta là: - Tận dụng việc các nước mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ của nước ta, dành cho ta quy chế tối huệ quốc (MFN), không phân biệt đối xử để phát triển xuất khẩu, nhập khẩu một cách hiệu quả hơn. Do chưa phải là thành viên WTO, trong những năm qua hàng hoá của chúng ta xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài vẫn bị nhiều rào cản, bị phân biệt đối xử (điển hình nhất là hàng rào hạn ngạch đối với hàng dệt may, những hạn chế về xuất khẩu nông sản...). Những rào cản này khi được dỡ bỏ sẽ mở đường cho nhiều sản phẩm của VN thâm nhập mạnh hơn các thị trường bên ngoài, vừa đáp ứng nhu cầu về “đầu ra” cho nhiều ngành, nhiều sản phẩm và doanh nghiệp, vừa tạo thêm việc làm cho nhiều người lao động, vừa mang lại nguồn ngoại tệ cần thiết cho đất nước. Về nhập khẩu, do thuế giảm và các hàng rào khác được dỡ bỏ, chúng ta có thêm sự lựa chọn để nhập khẩu hiệu quả hơn những sản phẩm cần thiết về phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng
  4. trong nước. Nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc cung cấp công nghệ, thiết bị, vật tư “đầu vào” phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta; hiệu quả của nhập khẩu vừa góp phần tạo nên hiệu quả của nền kinh tế, vừa mang lại lợi ích lớn cho người tiêu dùng. - Tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài, kết hợp hiệu quả hơn các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Khi nước ta gia nhập WTO, các cam kết quốc tế của chúng ta sẽ làm các nhà đầu tư nước ngoài thực sự yên tâm về môi trường đầu tư ở nước ta; đồng thời cam kết của các nước khác về mở cửa thị trường cho VN, triển vọng phát triển xuất nhập khẩu và mở rộng thị trường nội địa ở VN cũng tạo nên rất nhiều cơ hội mới cho họ để có thể đầu tư, khai thác thị trường VN về nhiều mặt. Thu hút thêm đầu tư nước ngoài, chúng ta không những có thêm các nguồn vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý tốt hơn, mà còn khai thác hiệu quả hơn những nguồn lực và lợi thế sẵn có trong nước, tăng cường hơn quan hệ hợp tác nhiều mặt với các thị trường bên ngoài. - Tăng khả năng tham gia phân công lao động quốc tế một cách thuận lợi hơn, giành vị trí ổn định và có thể cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Chưa có tư cách thành viên WTO, từ trước tới nay chúng ta tham gia phân công lao động quốc tế với nhiều hạn chế, thường chỉ tập trung vào khâu sản xuất, gia công, lắp ráp, ít tham gia được vào các khâu khác có giá trị gia tăng cao hơn hẳn như các dịch vụ nghiên cứu, thiết kế sản phẩm, tiếp thị, phân phối... Ngay trong khâu sản xuất, gia công, lắp ráp, sự cạnh tranh ngày càng mạnh trên thị trường cũng khiến chúng ta không dễ giữ được vị trí của mình. Gia nhập WTO tạo cho chúng ta vị thế
  5. bình đẳng, cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế, tăng niềm tin của các đối tác nước ngoài đối với chúng ta, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chúng ta khai thác, phát triển các năng lực mới của mình để tham gia phân công lao động quốc tế trên trình độ cao hơn, ở các khâu tạo giá trị gia tăng lớn hơn. - Đỡ phải gánh chịu những vụ khiếu kiện bất công, bất bình đẳng trong quan hệ thương mại với các đối tác do những quy định khá minh bạch, không phân biệt đối xử trong cơ chế giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế của WTO. - Tạo vị thế mới cho nước ta trong việc tham gia các vòng đàm phán toàn cầu, khu vực và song phương trong tương lai. Vị trí thành viên WTO cho phép chúng ta chủ động và bình đẳng khi tham gia các vòng đàm phán tiếp theo của WTO, bảo vệ và giành những lợi ích mới cho mình trong những lĩnh vực sẽ được đưa ra đàm phán. Trong các quan hệ ở các tổ chức khu vực cũng như các quan hệ song phương, vị thế của ta cũng bình đẳng hơn. Trên cơ sở này, chúng ta có thể tiến hành những cuộc đàm phán song phương mới nhằm nâng tầm quan hệ kinh tế của ta với các đối tác quan trọng. Về thúc đẩy công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế trong nước, những cơ hội cụ thể của chúng ta là: - Hoàn thiện thể chế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh. Đây vừa là nhiệm vụ chúng ta xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010 và Kế hoạch 5 năm 2006-2010, vừa là yêu cầu của việc thực hiện các cam kết với WTO. Hai nhiệm vụ cùng được tiến hành theo cùng một hướng sẽ thúc đẩy
  6. chúng ta thực hiện tốt hơn, tạo được thể ch ế kinh tế và môi trường kinh doanh vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của mình, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. - Cấu trúc lại nền kinh tế về các mặt cơ cấu ngành, sản phẩm, thị trường, các khu vực doanh nghiệp theo hướng phát huy lợi thế so sánh, tạo lợi thế mới. Trên cơ sở những cơ hội mới ở các thị trường bên ngoài và bối cảnh mới về mở cửa thị trường trong nước, đây là cơ hội để chúng ta rà soát, điều chỉnh lại các chiến lược phát triển của mình, cấu trúc lại nền kinh tế, phân bổ lại các nguồn lực để tăng tính hiệu quả và cạnh tranh của nền kinh tế. - Phát triển khoa học công nghệ, thúc đẩy các ngành công nghệ cao, phát triển doanh nghiệp, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân thông qua việc nắm bắt, khai thác các cơ hội thị trường và quan hệ hợp tác kinh tế mới ở trong và ngoài nước. Về thách thức, chúng ta sẽ phải đương đầu với những thách thức nặng nề, chủ yếu do cạnh tranh tăng lên ở ngay thị trường trong nước khi chúng ta thực hiện những cam kết mở cửa thị trường của mình với WTO, do những năng lực còn hạn chế trong nội bộ nền kinh tế, do yêu cầu tuân thủ hệ thống các quy định của WTO, do sự gắn chặt hơn nền kinh tế nước nhà với thị trường quốc tế đầy cạnh tranh và nhiều biến động. 3. Môi trường văn hóa . 4. Môi trường pháp luật chính trị
  7. Việc gia nhập WTO có ảnh hưởng đến nhiều mặt của pháp luật nước ta. Trong đó, có thể kể đến một số mặt sau: a, Pháp luật lao động. WTO cho phép các nước thành viên can thiệp vào quá trình trao đổi hàng hoá nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ của con người và động vật hoặc bảo tồn các loài thực vật, nhưng với điều kiện là nước đó không được phân biệt đối xử và không được lạm dụng bảo hộ trá hình. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài thì pháp luật lao động Việt Nam hiện nay không có bất kỳ chính sách nào bị liệt vào dạng chính sách trợ cấp đèn đỏ. Đó là những trợ cấp bị cấm trong WTO. Chúng ta cũng không có những trợ cấp đèn vàng là những trợ cấp mà phía đối tác có thể đưa ra những biện pháp đối kháng. Việt Nam chỉ có những chính sách và chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm cho những đối tượng và những vùng khó khăn. Đây đều là những trợ cấp mang tính xã hội, không mang tính chất kinh tế nên 3 được coi là trợ cấp thuộc nhóm đèn xanh và được phép áp dụng trong WTO nên Việt Nam không phải chỉnh sửa về vấn đề này. Vấn đề đầu tiên mà pháp luật lao động cần quan tâm chính là phải xử lý vấn đề tiêu chuẩn lao động. Những tiêu chuẩn lao động không nằm trong cam kết của WTO cũng như trong những cam kết thương mại song phương, đa phương nhưng do lao động là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất nên tiêu chuẩn lao động luôn đi cùng thương mại quốc tế và được các nước quan tâm. Về những tiêu chuẩn lao động trong WTO thì Hội nghị Bộ trưởng Singapore 1996 đã khẳng định Tổ chức lao động quốc tế (ILO) là tổ chức có thẩm quyền xây dựng các tiêu chuẩn về lao động. Nhưng WTO phản đối việc sử dụng các tiêu chuẩn lao
  8. động nhằm mục tiêu bảo hộ. Các tiêu chuẩn lao động quốc tế với mục đích là để xây dựng một môi trường làm việc lành mạnh hơn, có lợi hơn cho người lao động. Tuy nhiên việc thực hiện các tiêu chuẩn này cũng đòi hỏi nhất định về những điều kiện kinh tế, xã hội. Trước đây, trong hệ thống thương mại đa phương WTO, các nước phát triển muốn đưa những tiêu chuẩn lao động riêng biệt vào trong khuôn khổ WTO đã gặp phải những phản ứng của các nước đang phát triển (vốn chiếm đa số trong WTO) vì cho rằng việc tuân thủ những tiêu chuẩn lao động làm tăng chi phí tiền lương và làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Và theo tuyên bố chung tại Hội nghị Bộ trưởng WTO năm 1996 tại Singapore, các Bộ trưởng đã thống nhất các vấn đề về tiêu chuẩn lao động thuộc phạm vi điều chỉnh của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Nghĩa là, WTO sẽ không quy định trực tiếp về các tiêu chuẩn lao động. Sau này, trong Hiệp định thương mại tự do bắc Mỹ được bổ sung với một Hiệp định về lao động trong đó có đề cập đến những nguyên tắc về lao động mà sau này được coi là tiêu chuẩn lao động của WTO: Các nước thành viên thống nhất tuân thủ và tăng cường các tiêu chuẩn về lao động được xây dựng trên 12 nguyên tắc chung về lao động. Trong đó có 4 nguyên tắc của ILO (quyền công đoàn, tổ chức công đoàn; thương lượng tập thể; không lao động cưỡng bức và không lợi dụng lao động trẻ em) và 8 nguyên tắc khác (quyền được đình công; tiêu chuẩn tối thiểu về lương làm ngoài giờ; xoá bỏ phân biệt sắc tộc; bình đẳng nam nữ; bồi thường tai nạn lao động; tiêu chuẩn làm việc tối thiểu; bảo hộ lao động; lương tối thiểu) Trước mắt, pháp luật lao động cần tập trung vào hai vấn đề lương tối thiểu và tự donghiệp đoàn.
  9. *Lương tối thiểu Hiện nay pháp luật lao động Việt Nam quy định nhiều mức lương tối thiểu khác nhau. Lương tối thiểu của công chức nhà nước, lương tối thiểu cho công nhân viên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này rõ ràng đã thể hiện sự phân biệt đối xử đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vi phạm điều khoản về “quyền công dân kinh doanh” của WTO. Việc khống chế mức lương trong doanh nghiệp nhà nước, quy định về thang bảng lương cũng thể hiện sự bảo hộ của nhà nước. Điều này là không phù hợp khi Việt Nam tham gia WTO. Việt Nam hiện nay chưa có chính sách lương tối thiểu giống nhau cho toàn nền kinh tế và cũng chưa cam kết thực hiện quy ước này của ILO. Theo ông 4 Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội thì chính sách tiền lương của Việt Nam khi gia nhập WTO phải giải quyết 2 vấn đề quan trọng: thứ nhất, tiền lương phải theo định hướng thị trường, nghĩa là lương phải đủ cho người lao động sống, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường lao động và phải dựa trên sự thoả thuận, đối thoại qua thoả ước tập thể. Thứ hai là, không được vi phạm nguyên tắc phân biệt đối xử về tiền lương, cần tháo bỏ quy định gò bó thang bảng lương trong doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Theo lộ trình đến 2010 mới sáp nhập lương tối thiểu giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, việc thực hiện thống nhất một mức lương tối thiểu đối với Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Tiền lương tối thiểu của Việt Nam có quá nhiều ràng buộc với hệ thống an sinh, là cơ sở để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc. Chính vì vậy việc thống nhất một mức lương tối thiểu cao như ở khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
  10. nước ngoài sẽ là một gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Ở các nước, lương tối thiểu gắn với lạm phát và thường được điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với chỉ số giá sinh hoạt. Trước tình hình đó, Việt Nam định hướng sẽ cải cách tiền lương theo hướng giảm dần các yếu tố can thiệp của Nhà nước và tăng cường sự tự chủ của các doanh nghiệp trong việc trả lương. b, Pháp luật chống bán phá giá và cạnh tranh. Chính sách và pháp luật về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ cũng là nền tảng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và đông đảo người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là thực thi các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong việc mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài, bước vào sân chơi chung toàn cầu. Trong quá trình xây dựng Luật Cạnh tranh, các Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Ch ống trợ cấp và Pháp lệnh Tự vệ, cùng các văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ Thương mại đã nhận sự quan tâm và tham gia góp ý của các bộ, ngành quản lý nhà nước, các hiệp hội ngành hàng, các chuyên gia từ các trung tâm giảng dạy nghiên cứu pháp luật, các hãng luật trong nước và ngoài nước và toàn thể cộng đồng doanh nghiệp. Sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước và đông đảo các tầng lớp xã hội chính là chìa khóa cho thành công trong công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm đưa pháp luật đi vào đời sống, thật sự phát huy được tác dụng và hiệu quả. Tuy nhiên, việc xây dựng và ban hành Luật Cạnh tranh, các Pháp lệnh đã khó, việc thực thi hiệu quả để Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống còn khó hơn nhiều, cần có sự nỗ lực từ cả hai phía là các cơ quan nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp. Về phía Chính phủ và các bộ, ngành, cần triển khai những biện pháp đồng bộ sau:
  11. -Tiếp tục phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và đông đảo người tiêu dùng về tầm quan trọng và các yêu cầu thực thi Luật Cạnh tranh; các Pháp lệnh Chống bán phá giá, Chống trợ cấp và Tự vệ trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế thông qua quy chế thành viên WTO. -Hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ và các quy định khác theo hướng nhất quán, phù hợp, không ảnh hưởng môi trường cạnh tranh, không ngăn cản các hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp. -Kiện toàn cơ cấu tổ chức và đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ quan thực thi pháp luật... Tại nhiều thành viên của WTO, số lượng người trong các cơ quan chịu trách nhiệm điều tra những vụ việc này lên đến con số hàng trăm người (Hoa Kỳ, Canada, Ấn Ðộ...) trong khi ở nước ta mới chỉ có hơn 20 người. Với công việc còn mới mẻ, đội ngũ nhân sự của Cục Quản lý cạnh tranh chưa có nhiều kinh nghiệm để xử lý và điều tra các vụ việc phức tạp và kéo dài như các cuộc điều tra cạnh tranh, chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ. Vì vậy, cần sớm có chính sách nâng cao năng lực và tăng cường nguồn nhân lực cho Cục để hình thành một đội ngũ cán bộ chuyên môn hóa về xử lý các vụ việc về cạnh tranh chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. -Xây dựng cơ chế phối hợp công tác giữa Bộ Thương mại và các cơ quan ngành, đặc biệt các ngành có cam kết mở cửa khi gia nhập WTO. Trong quá trình thực thi pháp luật về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, cơ quan điều tra cần có sự phối hợp chặt chẽ với các bộ trực tiếp quản lý sản xuất để
  12. làm rõ hơn về ngành sản xuất, thực trạng cạnh tranh, các vấn đề mang tính chất chuyên môn, thông lệ kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành. -Việc đào tạo nâng cao năng lực về các biện pháp chống phá giá, chống trợ cấp và tự vệ cho đội ngũ cán bộ làm công tác này là hết sức cần thiết và cấp bách, góp phần tăng cường sự hợp tác và hỗ trợ của các bộ, ngành trong việc thi hành các quy định pháp luật liên quan. -Ðối với các địa phương, cần xây dựng phương án, kế hoạch khả thi nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp địa phương, phát huy thế mạnh sẵn có, vượt qua những thách thức. Các cơ quan, đơn vị tại địa phương cũng cần tránh ý thức cục bộ, địa phương chủ nghĩa, đưa ra các chủ trương, chính sách thiên vị làm suy yếu sức cạnh tranh của các doanh nghiệp địa phương, tổn hại đến môi trường kinh doanh chung và trái với những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. -Ðối với cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng: Việc tìm hiểu và tiếp thu tốt các nội dung và định hướng cơ bản của Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp và Pháp lệnh Tự vệ cùng các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao chuẩn mực và chất lượng hoạt động của mình. Mặc dù ngăn cấm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh, nhưng các văn bản pháp luật này có nhiệm vụ chính là hướng dẫn doanh nghiệp cách hành xử đúng đắn trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Cạnh tranh lành mạnh trong khuôn khổ pháp luật sẽ giúp doanh nghiệp lớn mạnh và bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung. Doanh nghiệp cần nhận thức được đầy đủ và tuân thủ nghiêm túc các yêu cầu cạnh tranh lành mạnh không chỉ trong nước mà còn tại các thị
  13. trường thành viên của WTO, do nguy cơ các vụ kiện thương mại quốc tế ngày càng gia tăng. Cần có những đầu tư nghiêm túc cho các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, tư vấn pháp lý... nhằm giảm thiểu những rủi ro cho doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, nhất là trước những cơ chế phức tạp mà các thành viên khác trong WTO dựng lên thông qua các quy định về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, nhằm bảo hộ cho sản xuất nội địa kém cạnh tranh của họ. Luật Cạnh tranh và các Pháp lệnh đã cung cấp những công cụ pháp lý cần thiết giúp doanh nghiệp có thể tự bảo vệ mình trước hoạt động trái pháp luật của các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng như ngoài nước. Các doanh nghiệp cần sử dụng tốt các công cụ đó để yêu cầu sự can thiệp của công quyền, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của mình trên thương trường. Chỉ có doanh nghiệp mới có thể bảo vệ tốt nhất cho chính bản thân mình. Cần tăng cường liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh nghiệp với hiệp hội ngành hàng và cơ quan quản lý Nhà nước. Do khả năng phối hợp các doanh nghiệp trong số nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam là chưa cao; các hiệp hội ngành hàng chưa phát huy được vai trò dẫn dắt các doanh nghiệp kinh doanh lành mạnh, đúng pháp luật. Việc tăng cường liên kết, phối hợp có ý nghĩa quan trọng để có thể giúp các tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ cần đáp ứng yêu cầu về tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước. Ðể điều tra một vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, pháp luật chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đã đưa ra quy định về "tư cách khởi kiện" của ngành sản xuất
  14. nội địa Việt Nam. Theo quy định này, bên khởi kiện phải đại diện cho ít nhất 25% khối lượng, trị giá hàng hóa sản xuất trong nước và số nhà sản xuất ủng hộ vụ kiện phải lớn hơn số nhà sản xuất chống lại vụ kiện. Ðiều đó đã đặt ra một yêu cầu là phải có sự hợp tác, thống nhất hành động của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ đơn kiện yêu cầu điều tra để áp dụng các biện pháp nêu trên. Việc đáp ứng đầy đủ, chính xác các điều kiện theo luật định là một thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp nước ta. Các doanh nghiệp và hiệp hội cũng cần hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lý cạnh tranh Nhà nước trong việc nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng về pháp luật và chính sách về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, tích cực phòng chống các vi phạm pháp luật nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và cơ chế kinh tế thị trường phát triển bền vững. Cạnh tranh là một lĩnh vực rất mới ở Việt Nam, do đó mặc dù đã có những nỗ lực rất lớn công tác soạn thảo, các văn bản pháp luật về cạnh tranh không thể tránh khỏi những bất cập. Trong quá trình thực thi, rất cần cộng đồng doanh nghiệp có những kiến nghị, góp ý bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật. Bộ Thương mại hết sức hoan nghênh và sẵn sàng tiếp thu, sửa đổi kịp thời trong khả năng cho phép. c, Pháp luật về dịch vụ ngân hàng- tiền tệ Để thực thi các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và chuẩn bị cho gia nhập WTO, trong thời gian qua hệ thống pháp luật về ngân hàng của Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản. Các văn bản pháp luật cơ bản về tiền tệ, ngân hàng được hoàn thiện, như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Ngân hàng nhà
  15. nước Việt Nam ngày 17/6/2003; Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/6/2004; Luật các công cụ chuyển nhượng ngày 29/11/2005; Pháp lệnh Ngoại hối của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 13/12/2005; Nghị định số 22/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 2 năm 2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 74/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/6/2005 về phòng, chống rửa tiền... Như vậy, nếu đối chiếu với các cam kết của Việt Nam trong Phụ lục Biểu Cam kết cụ thể đối với thương mại dịch vụ (tài liệu WT/ACC/VNM/48/Add.2) kèm Nghị định thư về việc gia nhập WTO, với pháp luật Việt Nam hiện hành có thể nhận thấy những tương thích cơ bản. Tuy nhiên, những thành tựu lập pháp nói trên chỉ là khởi động của một quá trình, để dịch vụ tiền tệ ngân hàng phát triển bền vững trong sau hội nhập, những thay đổi trên là chưa đủ.Những nội dung sau đây cũng không kém phần quan trọng song chưa được chú trọng một cách đúng mức: Thứ nhất: Các văn bản pháp luật liên quan lĩnh vực giao dịch có bảo đảm (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh); pháp luật về công chứng; pháp luật về đăng ký giao dịch có bảo đảm; pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm…phải được sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp trong điều kiện mới. Thứ hai: Các qui định cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các ngân hàng, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác chưa cụ thể. Hiện tại, theo quy định của Luật các
  16. TCTD, một trong những điều kiện bắt buộc để được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét cấp phép là “có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn”. Thiết nghĩ, phải nhanh chóng xoá bỏ các điều kiện mang tính định tính trong nhóm các điều kiện tiếp cận thị trường. Thay vào đó, các điều kiện như tỷ lệ vốn an toàn, khả năng thanh toán và trình độ quản trị ngân hàng sẽ được bổ sung vào nhóm các điều kiện cấp phép. Những bổ sung này đảm bảo phù hợp với tinh thần các cam kết, vừa trong khuôn khổ “biện pháp thận trọng” được phép ghi nhận trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ, nhằm đảm bảo an toàn hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia. Thứ ba: Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam cần thiết phân định rạch ròi hơn nữa chức năng của các ngân hàng thương mại và ngân hàng chính sách xã hội. Những ngân hàng thương mại dù là ngân hàng thương mại nhà nước phải được trao quyền tự chủ trong kinh doanh, được “giải phóng” khỏi sự can thiệp hành chính. Việc xoá bỏ những ưu đãi, bảo hộ của nhà nước đối với các ngân hàng thương mại nhà nước phải tiến hành đồng thời với việc xoá bỏ các biện pháp can thiệp mang tính hành chính. Ví dụ: khoản 2 Điều 3 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về các biện pháp bảo đảm tiền vay cho phép Chính phủ chỉ định ngân hàng thương mại nhà nước cho vay một số đối tượng không có tài sản bảo đảm. Các qui định tương tự vẫn tồn tại trong các văn bản pháp luật hiện hành như một gánh nặng cho các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc thực hiện các chính sách xã hội được đảm nhận bởi Ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng này phải có một cơ chế pháp lý riêng. Thứ tư: Hệ thống pháp luật về thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đặc biệt trong đối với dịch
  17. vụ tiền tệ - ngân hàng chưa đồng bộ. Những qui định pháp luật về cạnh tranh trong Luật cạnh tranh ngày 03/12/2004 (có hiệu lực từ 01/7/2005) cho dù được đánh giá cao song để áp dụng trong lĩnh vực dịch vụ tiền tệ - ngân hàng cần thiết phải có những văn bản hướng dẫn cụ thể và phải tính đến những yếu tố đặc thù trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. Tình trạng tương tự cũng thể hiện ở pháp luật phá sản. Thứ năm: Vai trò của Ngân hàng trung ương (Ngân hàng nhà nước Việt Nam) trong điều kiện hội nhập còn mờ nhạt do những trói buộc trong Luật NHNNVN. Trong điều kiện hội nhập với cộng đồng tài chính- tiền tệ thế giới, vị thế và vai trò của Ngân hàng trung ương phải được củng cố. Với địa vị pháp lý và chế độ tài chính hiện hành, Ngân hàng nhà nước Việt Nam khó có thể thực thi một cách hiệu quả và linh hoạt chính sách tiền tệ để ngăn chặn những thảm hoạ tài chính- tiền tệ cũng như quản lý một cách hữu hiệu hoạt động ngân hàng được dự đoán là rất sôi động và cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ này trong tương lai. 5. Môi trường khoa học và công nghệ Điện tử - viễn thông là hai trong số những ngành được coi là mũi nhọn và chịu nhiều tác động sau sự kiện này. Sự cạnh tranh diễn ra khá quyết liệt trên hai thị trường điện tử và viễn thông đã khiến ngành đứng trước rất nhiều những khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, không phải là không có những cơ hội được mở ra... Hội thảo đã thu hút đông đảo đại biểu và giới báo chí tham dự. Ảnh: Thuỷ Nguyên
  18. Quan điểm này đã được nhiều đại biểu, chuyên gia trong lĩnh vực điện tử - viễn thông chia sẻ tại buổi hội thảo với chủ đề "Hội nhập Kinh tế Quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với ngành Điện tử - Viễn thông Việt Nam" vừa diễn ra hôm qua, 25/12 tại Hà Nội. Hội thảo nằm trong khuôn khổ chương trình "Đánh giá tác động hội nhập sau hai năm gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam và tôn vinh các doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu". Cơ hội nhiều... Theo đại diện của Vụ Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam hàng năm khoảng 20-30%. Từ những lắp ráp đơn giản, Việt Nam đã phát triển từng bước và bước đầu sản xuất phụ tùng, linh kiện xuất khẩu cũng như nghiên cứu thiết kế được một số sản phẩm thương hiệu Việt được bạn hàng quốc tế tin dùng. Về cơ bản, các sản phẩm điện tử và công nghệ đã thoả mãn được nhu cầu của thị trường nội địa và phát triển xuất khẩu. Doanh số thị trường nội địa đạt 1,6 tỷ USD năm 2005, và năm 2006 đã đạt hơn 2 tỷ USD. Việc Việt Nam gia nhập WTO đã mang lại cho ngành công nghiệp điện tử những cơ hội lớn như tăng cường khả năng thâm nhập và thúc đẩy xuất khẩu do thị trường thế giới và khu vực được mở rộng và vị thế cạnh tranh bình đẳng hơn. Môi trường kinh doanh và đầu tư của ngành cũng đã được cải thiện, hành lang pháp lý minh bạch dẫn đến sức cạnh tranh lành mạnh hơn, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Cũng từ khi Việt Nam gia nhập WTO, cơ hội tiếp cận tín dụng, công nghệ mới, thông tin thị
  19. trường thế giới, khu vực, các dịch vụ, cung cấp vật tư... của ngành tốt hơn. Ngành điện tử có cơ hội xây dựng lại chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh phù hợp với tình hình mới, các tranh chấp thương mại quốc tế được giải quyết công bằng và minh bạch hơn. Còn với ngành viễn thông, theo tiến sĩ Trịnh Minh Anh, Phó Vụ trưởng - Phó Chánh văn phòng Uỷ ban quốc gia Hợp tác kinh tế quốc tế, hai năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, những tác động mang tính tích cực ảnh hưởng tới ngành đó là thị trường viễn thông Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng được xếp vào hàng nhanh nhất thế giới. Cạnh tranh sôi động nhất đang diễn ra trên thị trường thông tin di động giữa các nhà cung cấp dịch vụ VinaPhone, MobiFone, Viettel, EVN Telecom, SFone... đã thúc đẩy thị trường đạt mức tăng trưởng nhanh. Mới đây, trong bảng xếp hạng phát triển viễn thông Châu Á, thị trường viễn thông Việt Nam đã được xếp thứ 13 về cả quy mô và tốc độ phát triển trên ba lĩnh vực cố định, di động và Internet. Chia sẻ quan điểm tại hội thảo, ông Bùi Quốc Việt, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Quan hệ công chúng thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam cho rằng, hội nhập WTO, các doanh nghiệp viễn thông trong nước có nhiều cơ hội kinh doanh mới, cơ hội đầu tư trang bị thiết bị công nghệ mới, hiện đại, tiết kiệm được vốn đầu tư và hiệu quả kinh tế. Hội nhập, viễn thông Việt Nam thu hút được nguồn vốn và kinh nghiệm quản lý từ các nhà khai thác nước ngoài thông qua việc hợp tác với các nhà khai thác lớn trên thế giới để phát triển, hiện đại hoá mạng lưới và cung cấp dịch vụ, đồng thời cơ hội từng bước thâm nhập ra thị
  20. trường khu vực và trên thế giới. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo động lực phát triển cho từng doanh nghiệp và cho cả ngành viễn thông và CNTT Việt Nam. Cạnh tranh phát triển tạo cơ hội cho các doanh nghiệp viễn thông trong nước tự đổi mới và tái cơ cấu để hoạt động có hiệu quả, cải cách quy trình quản lý, khai thác, tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực mang tính chiến lược, nâng cao chất lượng dịch vụ và chất lượng chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, với lộ trình mở cửa thị trường lĩnh vực viễn thông trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, cho tới thời điểm này, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam vẫn chưa thực sự phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp viễn thông nước ngoài. "Hiện cạnh tranh trong nước chính là bước tập dượt cho cạnh tranh nước ngoài và là giai đoạn quan trọng để các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam từng bước tích tụ các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh, vượt qua các rào cản, thách thức và chủ động đón bắt các vận hội của hội nhập kinh tế quốc tế" - ông Việt nói. Và thách thức cũng lắm Quả thực, khi kinh tế phát triển, nhu cầu thị trường về các dịch vụ bưu chính, viễn thông và CNTT tăng trưởng mạnh, thị trường tiềm năng để phát triển các dịch vụ mới rất lớn đã tạo cơ hội để các doanhnghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, viễn thông, CNTT phát triển các hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, theo ông Bùi Quốc Việt, trong những năm qua, thị trường viễn thông di động Việt Nam luôn duy trì mức tăng trưởng 160-170%/năm và được coi là thị trường đầy tiềm năng, thu hút sự chú ý của không ít các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2