intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự đa dạng thực vật ven bờ Sông Hương, thành phố Huế

Chia sẻ: Lâm Đức Duy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

83
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Sự đa dạng thực vật ven bờ Sông Hương, thành phố Huế trình bày: Những nhân tố quyết định trong việc thiết lập tính chất, diện mạo và sự chuyển hoá không gian đô thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá địa phương mang lại sắc và hồn cho thành phố,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự đa dạng thực vật ven bờ Sông Hương, thành phố Huế

SỰ ĐA DẠNG THỰC VẬT VEN BỜ SÔNG HƯƠNG, THÀNH PHỐ HUẾ<br /> NGUYỄN KHOA LÂN - HUỲNH THỊ HOÀNG LAN<br /> Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br /> TRẦN THỊ HUẾ<br /> Trường THPT Thuận An, Thừa Thiên Huế<br /> TRƯƠNG THỊ PHƯƠNG LAN<br /> Trường Đại học Y Dược Huế<br /> Tóm tắt: Đối với Huế, sông Hương được xem là một trong những nhân tố<br /> quyết định trong việc thiết lập tính chất, diện mạo và sự chuyển hoá không<br /> gian đô thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội, văn<br /> hoá địa phương mang lại sắc và hồn cho thành phố. Thảm thực vật ven sông<br /> không những làm tăng giá trị cảnh quan, thẩm mĩ mà còn có tác dụng hạn<br /> chế xói mòn, rửa trôi ven bờ. Qua điều tra, chúng tôi xác định được 123 loài<br /> thực vật thường gặp thuộc 85 chi, 39 họ, 27 bộ của lớp Ngọc Lan<br /> (Magnoliophyta). Nhiều loài được sử dụng trong đời sống như: 70 loài làm<br /> thuốc, 16 loài cây thực phẩm và 34 loài dùng trong chăn nuôi.<br /> <br /> 1. MỞ ĐẦU<br /> Nghiên cứu sự đa dạng các loài thực vật ở ven bờ sông Hương, thành phố Huế làm cơ<br /> sở cho việc quy hoạch cảnh quan và phát triển thảm thực vật bảo vệ môi trường ven bờ.<br /> Bài viết giới thiệu các kết quả thu được về một số đặc điểm đa dạng sinh học của thảm<br /> thực vật ven bờ sông Hương.<br /> 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> 2.1. Đối tượng nghiên cứu<br /> Các loài thực vật sống ven bờ sông từ mép nước đến bờ đất hoặc bờ xây tại nhánh chính<br /> sông Hương chảy qua thành phố Huế.<br /> 2.2. Phương pháp nghiên cứu<br /> Phương pháp khảo sát theo tuyến và điểm để tìm hiểu thành phần các loài thực vật sống<br /> ven bờ sông Hương [7]. Các địa điểm khảo sát gồm:<br /> - Bờ Bắc: Khu vực Kim Long, công viên Lý Tự Trọng, công viên Thương Bạc, bãi<br /> bồi khu vực đường bờ sông Chi Lăng, bãi Dâu.<br /> - Bờ Nam: khu vực Thuỷ Biều, bãi bồi sau viện bảo tàng Hồ Chí Minh, công viên<br /> Nguyễn Văn Trỗi, Đập Đá, cồn Hến, đập tràn La Ỷ.<br /> Các mẫu thực vật được phân loại, xác định danh pháp tại khoa Sinh học, trường Đại học<br /> Sư phạm Huế dựa trên các tài liệu phân loại học [2], [3], [6].<br /> Phương pháp PRA (Participatory rural appraisal) dưới hình thức phỏng vấn ý kiến<br /> Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br /> ISSN 1859-1612, Số 03(19)/2011: tr. 19-26<br /> <br /> 20<br /> <br /> NGUYỄN KHOA LÂN và cs.<br /> <br /> người dân về công dụng các loài thực vật ở khu vực nghiên cứu [7].<br /> 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> 3.1. Sự đa dạng về thành phần loài, dạng sống của thực vật ven sông<br /> Sau thời gian điều tra, tìm hiểu những loài thực vật ven sông, chúng tôi xác định được<br /> 123 loài thực vật thường gặp, chủ yếu là các loài thực vật bậc cao thuộc ngành Ngọc<br /> Lan (Magnoliophyta) với 27 bộ, 39 họ, 85 chi (bảng 1).<br /> Bảng 1. Số lượng các bậc phân loại thực vật ven sông Hương<br /> <br /> Bộ<br /> Họ<br /> Chi<br /> Loài<br /> <br /> Lớp Một lá mầm<br /> (Monocotyledoneae)<br /> Số lượng<br /> Tỉ lệ %<br /> 8<br /> 29.62<br /> 9<br /> 23.07<br /> 32<br /> 35.16<br /> 49<br /> 39.83<br /> <br /> Lớp Hai lá mầm<br /> (Dicotyledoneae)<br /> Số lượng<br /> Tỉ lệ %<br /> 19<br /> 70.37<br /> 30<br /> 76.93<br /> 53<br /> 64.83<br /> 74<br /> 60.17<br /> <br /> Trong đó, lớp Một lá mầm có 8 bộ (chiếm 29,62% số bộ), 9 họ (chiếm 23.07 % số họ),<br /> 32 chi (chiếm 35.16% số chi), 49 loài (chiếm 39.83 % số loài) và thấp hơn so với lớp<br /> Hai lá mầm (với 19 bộ, 31 họ, 57 chi và 74 loài). Có những họ chỉ có 1 đến 2 loài như<br /> Alismaceae (họ Trạch tả), Arecaceae (họ Cau Dừa), Commelinaceae (họ Thài lài)… Ở<br /> nhiều địa điểm, các loài cây phát triển mạnh chủ yếu là các loài thuộc họ Hoà thảo<br /> (Poacea), họ Cói (Cyperaceae), họ Cúc (Asteraceae) (bảng 2).<br /> Bảng 2. Số lượng và tỉ lệ % số loài thực vật thuộc các họ thực vật<br /> Họ thực vật<br /> + Alismaceae, Arecaceae, Commelinaceae, Cannaceae, Musaceae<br /> +Apiaceae,<br /> Brassiaceae,<br /> Caesalpiniaceae,<br /> Portulacaceae,<br /> Oxalidaceae, Verbenaceae, Combertaceae, Rosaceae, Meliaceae,<br /> Urticaceae, Bombacaceae, Elaeocarpaceae, Cucurbitaceae<br /> + Araceae, Pontederiaceae<br /> + Capparaceae, Convolvulaceae, Mimosaceae, Lamiaceae,<br /> Solanaceae, Sterculiaceae, Sapindaceae<br /> + Fabaceae, Onagraceae, Euphorbiaceae, Scrophulariaceae<br /> + Rubiaceae, Polygonaceae<br /> + Amaranthaceae<br /> + Malvaceae<br /> + Moraceae<br /> + Asteraceae<br /> + Cyperaceae<br /> + Poaceae<br /> <br /> Số loài<br /> <br /> Tỉ lệ %<br /> <br /> 1<br /> <br /> 0.81<br /> <br /> 2<br /> <br /> 1.62<br /> <br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> 9<br /> 17<br /> 23<br /> <br /> 2.43<br /> 3.25<br /> 4.06<br /> 4.87<br /> 5.69<br /> 7.31<br /> 13.82<br /> 18.69<br /> <br /> Về dạng sống: đa số các cây ở ven sông, các dạng cây thân thảo chiếm ưu thế với 95<br /> loài (chiếm 77.23 % tổng số loài). Số lượng cây gỗ (16 loài) và cây bụi (12 loài) chiếm<br /> tỉ lệ thấp hơn (22.77 %). Sở dĩ các loài cây thân thảo phát triển mạnh ở khu vực ven<br /> <br /> SỰ ĐA DẠNG THỰC VẬT VEN BỜ SÔNG HƯƠNG THÀNH PHỐ HUẾ<br /> <br /> 21<br /> <br /> sông do có nhiều đặc điểm thích nghi với điều kiện môi trường nơi đây như: thân cây<br /> mềm dẻo với hệ thống mô dày phát triển, hạn chế tác động bất lợi của môi trường cơ<br /> học, đặc biệt là của gió, sóng; rễ ăn nông, lan rộng trên nền đất mềm nhão; hệ thống các<br /> khoảng trống gian bào, mô mềm xốp phát triển ở rễ, thân, lá tăng cường dẫn truyền và<br /> dự trữ khí oxi cho những bộ phận dưới mặt đất [4], [8], [9]. Những loài có lá nổi trên<br /> mặt nước, có xu hướng mọc lan ra phía mặt nước kết thành bè nổi như mồm mỡ (H.<br /> acutigluma), nghể lông dày (P. tomentosum), lách (S. spontaneum)…<br /> Mặt khác, điều kiện tự nhiên tỉnh Thừa Thiên Huế khắc nghiệt. Mùa hè với lượng mưa<br /> ít, độ ẩm thấp, gió lào thường xuất hiện vào các tháng 6, 7; tháng 9, 10, 11 thường có<br /> mưa lũ, độ ẩm cao ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của các loài thực vật ven<br /> sông. Các loài cây thảo, nhất là các loài có thân rễ hay thân ngầm thường có khả năng<br /> tái sinh cao với hình thức sinh sản sinh dưỡng chiếm ưu thế [3], [4], [6], [8], [9].<br /> Số lượng các cá thể cây gỗ và cây bụi ở các khu vực nghiên cứu thấp hơn nhiều so với<br /> các loài cây thảo. Cây ra hoa, tạo quả nhưng hạt rất nhỏ, dễ bị thối và dễ bị nước cuốn<br /> đi. Chẳng hạn, ở cây gáo vàng (N. orientalis), hạt khó phát triển thành cây con do chất<br /> dinh dưỡng dự trữ trong hạt thấp; hạt nhỏ, nhẹ, dễ nổi trên mặt nước. Tuy nhiên, loài<br /> này khá phổ biến ở ven sông do khả năng tái sinh chồi rất mạnh.<br /> Tại nhiều khu vực nghiên cứu, những loài thực vật ngoại lai như mai dương (M. pigra),<br /> cỏ lông tây (B. mutica.), bèo lục bình (E. crasipes), cỏ lào (Ch. odorata) phát triển<br /> mạnh, đặc biệt là mai dương. Chúng xâm lấn rất mạnh các khu vực đất ven sờ sông,<br /> cạnh tranh mạnh với các loài thực vật. Nhiều khu đất bồi trở thành vương quốc của loài<br /> cây này. Loài cúc vàng bò (W. trilobata) phát triển nhanh tạo thành các mảng dày đặc,<br /> làm cản trở và ngăn cản sự tái sinh của các loài cây khác.<br /> 3.2. Sự phân bố của thực vật ven sông<br /> Môi trường ven sông là nơi sống của nhiều dạng thực vật khác nhau, từ những dạng ưa<br /> ẩm đến những loài có khả năng chịu hạn.<br /> 3.2.1. Thảm thực vật ở các khu vực ven sông<br /> (i) Thảm thực vật ở khu vực bãi bồi<br /> Ở khu vực bãi bồi thuộc công viên Phú Xuân, Thương Bạc, Lý Tự Trọng: chủ yếu là<br /> các dạng cây thân thảo, thấp, đặc biệt là các loài thực vật thuộc họ Poaceae, Cyperaceae<br /> phổ biến là các loài cói giùi thô (S. grossus), mồm mỡ (H. acutigluma), lách (S.<br /> spontaneum), cỏ lông tây (B. mutica), cỏ lồng vực (Eichinochloa)... Các loài cỏ có thân<br /> bò lan trên mặt đất như cỏ lá gừng (A. compressus), thài lài hoa trắng (C. communis),<br /> san cặp (P. conjugatum), các loài thuộc chi Paspalum, Cyperus, Eichinochloa,<br /> Eragrotis… Nhiều loài thân thảo hai lá mầm cũng được tìm thấy, chủ yếu là những cây<br /> nhỏ, mọc thành từng đám như rau mương thon (L. hyssopifolia), màn màn tím (C.<br /> chelidonii), lữ đằng (L. crustacea), cam thảo đất (S. dulcis), cóc mẳn (H. corymbosa)…<br /> Tại tuyến đường ven sông ở khu vực Chi Lăng, từ chân cầu Gia Hội đi dọc theo bờ<br /> sông: các loài cói giùi thô (S. grossus), nghể lông dày (P. tomentosum), sậy (P. karka),<br /> <br /> 22<br /> <br /> NGUYỄN KHOA LÂN và cs.<br /> <br /> lách (S. spontaneum), rau dền gai (A. spinosus), mai dương (M. pigra), màn màn<br /> (Cleome), mần trầu (E. indica) phát triển mạnh, đặc biệt là các loài mần trầu, lách, sậy<br /> tạo thành bãi um tùm. Mặt khác, qua sự phát triển của một số loài thực vật như cói giùi<br /> thô, sậy – là những loài cây chỉ thị cho đất mặn và đất phèn nhẹ [5].<br /> (ii) Thảm thực vật ở những khu vực sạt lở<br /> Thường thấy sự có mặt của các loài cây gỗ và cây bụi. Ngoài ra, người dân tự bảo vệ<br /> nhà cửa, đất đai bằng cách trồng các loài cây gỗ có hệ rễ phát triển, ăn sâu, lan rộng trên<br /> đất mềm hay sử dụng các bao cát kết hợp với các cột tre nhằm hạn chế sự sạt lở. Những<br /> loài thực vật thường thấy ở những khu vực này như tre (B. stenostachya), sung (F.<br /> glomerata), si (F. retusa), cừa (F. microcarpa), gáo (N. orientalis), tra (H. tiliaceus),<br /> dừa (C. nucifera)...<br /> Việc sử dụng các loài cây có hệ rễ phát triển, ăn sâu lan rộng trong đất được nhiều<br /> người dân quan tâm, nhất là những hộ dân nằm trong vùng sạt lở. Tuy nhiên, tình trạng<br /> sạt lở vẫn xảy ra và ngày càng nghiêm trọng. Đó là do hoạt động khai thác cát sạn làm<br /> cho lòng sông Hương thêm sâu xuống, tạo thành nhiều vực làm lớp đất cận kề sẽ bị sụt<br /> xuống kéo theo sự chôn vùi của lớp thảm thực vật.<br /> (iii) Thực vật ở trên các bờ kè<br /> Dọc tuyến đường đi bộ Nguyễn Đình Chiểu kéo dài về phía Đập Đá thường gặp các loài<br /> cây thảo hay cây bụi như màn tím (C. chelidonii), răm núi (H. merguensis), mai dương<br /> (M. pigra)... Trước bờ kè thường có các bờ đất nhỏ, tập trung một số loài có khả năng<br /> chịu hạn, thường mọc trên đất pha cát như mần trầu (E. indica), màn ri (C. viscosa),<br /> mào gà hoa trắng (C. argentea), tầm phỏng (C. halicacabum), rau sam (P. oleracea),<br /> diếc bờ (A. paronichyoides)… Số lượng cây gỗ ở khu vực này ít, thường là các loài cây<br /> bụi như phèn đen (Ph. reticulatus), ké hoa đào (U. lobata), ngái (F. hirta)… Các loài<br /> cây gỗ có kích thước nhỏ như trứng cá (M. calabusa), bàng (T. catappa), xoan (M.<br /> azedarach)…<br /> Ở khu vực kè chùa Thiên Mụ, các loài cỏ dại ưa ẩm như thài lài trắng, đơn buốt (B.<br /> pilosa), san nước, thồm lồm (P. chinensis), răm núi… phát triển, phủ xanh bờ kè. Nhiều<br /> cây bụi, cây gỗ bén rễ, lấy thành bờ kè làm giá thể để sinh trưởng phát triển như phượng<br /> vĩ (D. regia), mai dương, dum bụp (R. malvaceus), ngái…<br /> (iv) Thảm thực vật trồng<br /> Tại nhiều khu vực bãi bồi, đặc biệt là những nơi có diện tích lớn như bãi bồi ở khu vực<br /> Kim Long, bãi bồi sau viện bảo tàng lịch sử Hồ Chí Minh, người dân tận dụng những<br /> mảnh đất màu mỡ để trồng các loại hoa màu. Các loài cây được trồng chủ yếu trồng các<br /> cây họ đậu (Fabaceae), bắp (Z. mays), đậu bắp (A. esculentus), cải canh (B. juncea),<br /> môn nước (C. esculenta), rau muống (I. aquatica), khoai lang (I. batatas), mướp (L.<br /> cylindriaca)… Để mở rộng diện tích đất trồng, người dân thường khai thác đất tới phần<br /> mép nước ven sông, thu hẹp đất sống của các loài cỏ dại.<br /> <br /> SỰ ĐA DẠNG THỰC VẬT VEN BỜ SÔNG HƯƠNG THÀNH PHỐ HUẾ<br /> <br /> 23<br /> <br /> 3.2.2. Sơ đồ khái quát về sự phân bố của các loài thực vật ven sông<br /> Sự phân bố của những loài thực vật ven bờ sông Hương có thể chia thành các đai khác<br /> nhau và được minh hoạ qua hình 1.<br /> <br /> Môi trường sống của<br /> những loài thực vật<br /> thuỷ sinh sống chìm<br /> trong nước và nổi trên<br /> mặt nước<br /> <br /> Khu vực đất thường<br /> xuyên có nước, đất<br /> bão hoà hơi nước,<br /> chịu nhiều tác động<br /> của sóng<br /> <br /> Khu vực đất ẩm, thường bị ngập<br /> vào mùa mưa bão<br /> <br /> Mực nước dao động<br /> < 0.5 m<br /> <br /> Hình 1. Sơ đồ phân bố các dạng thảm thực vật ở bờ sông Hương<br /> + Đai các loài thảo bò lan trên mặt nước ở khu vực này thường xuyên có nước. Các<br /> loài sống ở đai này phần lớn là các loài nửa ngập thuộc họ Hoà thảo, Cói như<br /> mồm mỡ, san nước, lách, lồng vực nước, cói giùi thô, cói tia… có thân ngầm phát<br /> triển và thường là những loài sống lâu năm. Cây thảo hai lá mầm thường gặp chủ<br /> yếu là các loài nghể, đặc biệt là nghể lông dày. Ngoài ra, ở các bờ đất bão hoà hơi<br /> nước hay lớp nước nông thường gặp các loài rau mương.<br /> + Đai các loài thảo bò hay đứng, kích thước không quá 2m. Các loài thường gặp chủ<br /> yếu là những dạng ưa ẩm ưa sáng, lông tây, vĩ thảo bốn gié, san cặp… hay những<br /> loài ưa ẩm ưa bóng như rau trai, lữ đằng, cóc mẳn, thù lù… Đai này bị ngập khi<br /> mưa lớn kéo dài hoặc do lũ lụt. Ở hai bên bờ sông Hương, nhóm này chiếm vai trò<br /> quan trọng trong việc tạo ra các thảm xanh, giữ ẩm, giữ đất. Ngoài ra, ở đai này có<br /> thể tìm thấy những loài cây bụi như ké hoa đào, trứng cua lá bố.<br /> + Đai các loài cây gỗ và cây bụi: phân bố ở những phần đất cao. Thực vật ở vùng<br /> đất này thường chịu ngập úng trong thời gian ngắn từ 3-5 ngày vào mùa mưa bão<br /> từ tháng 10-12. Đất thường mềm nhão, dễ bị sụt lún và cuốn theo dòng chảy mùa<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2