VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 177-179; 176<br />
<br />
<br />
<br />
SỬ DỤNG TÁC PHẨM VĂN HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THẨM MĨ<br />
CHO TRẺ MẦM NON<br />
Trần Thị Phượng - Trường Cao đẳng cộng đồng Kon Tum<br />
<br />
Ngày nhận bài: 30/6/2019; ngày chỉnh sửa: 10/7/2019; ngày duyệt đăng: 18/7/2019.<br />
Abstract: Aesthetic education is an indispensable task in the care and education of preschool<br />
children, it brings children interesting and unique things in life. Aesthetic education in the process<br />
of familiarizing children with literature in a basic and systematic way is a central task of early<br />
childhood education, contributing to the formation of a child's personality. This article analyzes<br />
the role of literature in aesthetic education for preschool children; We also propose some measures<br />
to use literary works to form and develop aesthetic competency for preschool children.<br />
Keywords: Literature, development, preschool children.<br />
<br />
1. Mở đầu văn học. Cho trẻ 3-6 tuổi tiếp xúc với tác phẩm văn học<br />
Giáo dục thẩm mĩ (GDTM) là một nội dung quan là để trẻ bước đầu cảm nhận được sự độc đáo về phong<br />
trọng của giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ và là việc cách nghệ thuật và vẻ đẹp riêng của nội dung, hình thức<br />
cần phải tiến hành một cách nghiêm túc từ tuổi mầm văn chương. Đây là “thế giới mới” của cuộc sống thực<br />
non. Có thể coi trẻ mầm non là thời kì “hoàng kim” của tại, bao gồm thiên nhiên, xã hội con người được diễn tả,<br />
GDTM. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm dễ xúc biểu đạt, truyền đạt trong các hình thức đa dạng, độc đáo.<br />
động đối với con người và cảnh vật xung quanh, trí Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi<br />
tưởng tượng của trẻ bay bổng và phong phú. Do vậy, hiện tượng thiên nhiên vũ trụ mà trẻ nhìn thấy được; cũng<br />
năng khiếu nghệ thuật cũng được nảy sinh và phát triển nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ<br />
mạnh mẽ. như làng quê, cánh đồng, phiên chợ, lớp học, dòng sông,<br />
Khi nói đến GDTM cho trẻ mẫu giáo, chúng ta khu phố...; trẻ được cảm nhận thêm tình làng nghĩa xóm,<br />
thường coi đó là nhiệm vụ của trường mầm non với các tình cảm gia đình, tình bạn, tình yêu. Văn học có thể đề<br />
tiết học tạo hình, âm nhạc,… mà hầu như ít chú ý đến các cập những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt,<br />
tiết học khác và các hoạt động khác của trẻ, đặc biệt là cô tiên, phù thủy, quỷ sứ… và những “phép mầu” còn<br />
văn học. Sự cảm nhận đầu tiên, rực rỡ nhất, ấn tượng nhất tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đó cũng là đối tượng<br />
về vẻ đẹp được bắt nguồn từ thẩm mĩ trong những tác miêu tả của văn học, làm nên sự phong phú, hấp dẫn của<br />
phẩm văn học. Chính trong nội dung các tác phẩm văn đời sống tinh thần. Nhờ số lượng văn học đáng kể, trẻ sẽ<br />
học thể hiện mối quan hệ giao tiếp - ứng xử tốt đẹp giữa nhận dạng được văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống<br />
con người với con người và giữa con người với cảnh vật xung quanh phong phú hấp dẫn bằng những dạng thức<br />
xung quanh. Cái đẹp trong văn học còn thể hiện ở nghệ khác nhau. Trẻ sẽ nhận biết sự khác nhau về nội dung và<br />
thuật ngôn từ giàu hình ảnh và sức gợi cảm. Do đó, cho hình thức giữa các thể loại (thơ, truyện). Trẻ biết phân<br />
trẻ làm quen với tác phẩm văn học là điều kiện quan trọng biệt đó là “cổ tích”; nhận được sự khác nhau của các thể<br />
để GDTM cho trẻ ở trường mầm non. loại tác phẩm, cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn<br />
đạt hình tượng, qua đó phát triển đời sống tinh thần.<br />
Bài viết này phân tích vai trò của văn học trong việc<br />
GDTM cho trẻ mầm non; đề xuất một số biện pháp sử Làm quen với tác phẩm văn học như một cấu trúc<br />
dụng tác phẩm văn học nhằm hình thành, phát triển năng hoàn chỉnh, giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện<br />
lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non giữa hoàn cảnh, trạng thái tình huống và nhân vật, giữa<br />
lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật:<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
giữa không khí âm sắc giọng điệu chung của tác phẩm<br />
2.1. Vai trò của văn học trong việc giáo dục thẩm mĩ văn học và hành động văn học; bước đầu giúp trẻ nhận<br />
cho trẻ mầm non ra sự khác nhau giữa ngôn ngữ truyện thiên về ngôn ngữ<br />
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là đưa đến đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính,<br />
cho trẻ một chân trời mới của nghệ thuật văn chương, chỉ giàu hình ảnh. Qua tác phẩm văn học, trẻ quen dần tính<br />
văn chương thôi chứ chưa phải văn học với tư cách là chất nhiều nghĩa và tinh luyện của ngôn ngữ văn học; dần<br />
một môn văn hóa đầy đủ. Tác phẩm văn học là một hiện hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ nghĩa văn cảnh<br />
tượng phong phú, phức tạp nhất của khoa học nghiên cứu đến ý tưởng nhà văn truyền đạt.<br />
<br />
177 Email: hoaphuong36@gmail.com<br />
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 177-179; 176<br />
<br />
<br />
Từ đặc điểm trẻ tiếp nhận tác phẩm văn học chỉ bằng mầm non, được lồng ghép trong mọi sinh hoạt của nhà<br />
con đường gián tiếp (vì trẻ chưa đọc được mà chỉ nghe trường. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhiệm vụ GDTM<br />
đọc, nghe kể mà thôi) nên phải tăng cường rèn luyện sức cũng được gắn liền với các hoạt động giáo dục ở mức độ<br />
nghe cho trẻ. Đó là sức nghe tối đa về nhạc cảm và sự đa thường xuyên. Nhiều khi do giáo viên quá chú ý đến nội<br />
thanh, nghe được hết những cung bậc âm thanh và nhịp dung tri thức cơ bản của hoạt động giáo dục cần thực hiện<br />
điệu khác nhau trong cuộc sống; nghe ra những âm thanh với trẻ mà ít chú ý đến nội dung thẩm mĩ có thể giáo dục<br />
mới lạ, huyền diệu của thiên nhiên như tiếng nẩy mầm cho các em qua hoạt động này. Khi trao đổi với giáo viên<br />
của hạt, tiếng chim hót, tiếng suối róc rách, tiếng mưa rơi về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy có một số giáo viên<br />
trên biển trong đêm thu; nghe ra những âm sắc biểu cảm, thậm chí chưa hiểu rõ các nội dung GDTM cần thực hiện<br />
những rung cảm của trái tim cùng nhịp điệu hài hòa giữa trong trường mầm non cũng như những biểu hiện về mặt<br />
vũ trụ và con người. Ngay từ khi còn trong bào thai, trẻ thẩm mĩ của trẻ qua mọi loại hình hoạt động. Điều đó dẫn<br />
đã sống trong nhịp điệu, lời ru, tiếng hát, vũ điệu, âm đến tình trạng là họ không biết đưa nội dung GDTM vào<br />
nhạc những mới dây liên hệ tưởng như vô hình giữa con một số hoạt động giáo dục như thế nào.<br />
người với trời đất. Đó là tiếng của sự sống đang sinh sôi Hầu hết giáo viên có quan niệm là GDTM chủ yếu<br />
nảy nở, là khúc vang vọng tâm hồn trong im lặng. gắn liền với các hoạt động giáo dục nghệ thuật như hoạt<br />
Văn học là một loại hình nghệ thuật và được coi là động tạo hình, hoạt động âm nhạc. Nhiều giáo viên chưa<br />
một trong những phương tiện giáo dục trẻ em rất hiệu thực sự hiểu hết bản chất sâu rộng của GDTM tiềm ẩn<br />
quả. Các tác phẩm văn học không chỉ giúp trẻ mở rộng trong nội dung của các hoạt động giáo dục khác như:<br />
nhận thức về thế giới xung quanh mà còn góp phần hỗ khám phá khoa học về môi trường xung quanh, hoạt<br />
trợ trẻ em nói chung, trẻ mầm non nói riêng trong việc động vui chơi, hoạt động lao động…, đặc biệt là hoạt<br />
phát triển ngôn ngữ, thể chất, thẩm mĩ, tình cảm xã hội. động làm quen với văn học. Đây là hoạt động cung cấp<br />
cho trẻ nhiều kiến thức về mặt TM. Nội dung giáo dục<br />
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong sử dụng tác phẩm văn<br />
văn học ở trường mầm non luôn lôi cuốn trẻ, mang đến<br />
học nhằm giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non trên địa<br />
cho trẻ sự say mê, làm xuất hiện ở trẻ những cảm xúc tích<br />
bàn thành phố Kon Tum<br />
cực, tác động mạnh mẽ đến tình cảm của trẻ, thúc đẩy trẻ<br />
Thực tế công tác GDTM ở các trường mầm non trên mong muốn hành động theo những cái đẹp, cái tốt. Tuy<br />
địa bàn thành phố Kon Tum những năm gần đây đã được nhiên, vẫn còn một số giáo viên chưa thấy hết được các<br />
chú trọng hơn. GDTM cho trẻ đã được lồng ghép thông giá trị thẩm mĩ chứa đựng trong nội dung giáo dục văn<br />
qua các hoạt động vui chơi, học tập…; được thực hiện học ở trường mầm non nên không tận dụng triệt để hoạt<br />
qua các chuyên đề đổi mới nội dung, hình thức phù hợp động này để GDTM cho trẻ.<br />
với độ tuổi, đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. Việc lồng ghép, Một số nguyên nhân dẫn đến chất lượng GDTM cho<br />
tích hợp GDTM vận dụng thông qua các môn tạo hình, trẻ thông qua hoạt động làm quen với văn học chưa đạt<br />
âm nhạc, văn học… cũng đã được quan tâm, giúp phát hiệu quả cao, đó là: trình độ giáo viên không đồng đều,<br />
triển ở trẻ kĩ năng quan sát các sự vật hiện tượng xung năng lực cảm thụ tác phẩm văn học còn hạn chế, chưa<br />
quanh, khả năng cảm thụ thiên nhiên cũng như xúc cảm phát huy được vai trò dạy học sáng tạo, đôi khi còn rập<br />
trong mối quan hệ giao tiếp với người thân, qua đó hình khuôn, máy móc; chưa phát huy được tính tích cực, chủ<br />
thành cho trẻ những hành vi ứng xử văn minh. động, sáng tạo ở trẻ; việc bồi dưỡng kĩ năng GDTM cho<br />
Tuy nhiên, vẫn còn một số giáo viên và cán bộ quản giáo viên hàng năm chưa được sâu sát và đầy đủ; chưa<br />
lí nhận thức chưa hoàn toàn đúng đắn về ý nghĩa, tầm có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong<br />
quan trọng đặc biệt của GDTM đối với trẻ ở lứa tuổi này. nhiệm vụ GDTM cho trẻ mầm non, đa số phụ huynh có<br />
Chúng ta chú ý nhiều đến sự phát triển trí tuệ, phát triển quan niệm trẻ đến lớp chủ yếu là để học chữ, học toán.<br />
đạo đức của trẻ mà chưa thực sự coi trọng sự phát triển 2.3. Một số biện pháp sử dụng tác phẩm văn học nhằm<br />
thẩm mĩ, chưa thực sự nhận thức được rằng chính sự phát phát triển năng lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non<br />
triển khả năng thẩm mĩ của mỗi cá nhân sẽ nâng con Biện pháp 1: Đọc và kể diễn cảm tác phẩm văn học<br />
người lên một tầm giá trị mới - bởi vì nếu không có các Trẻ mầm non chưa đọc, chưa viết được, đến lớp với<br />
năng lực thẩm mĩ thì sự nhận thức thế giới khách quan tâm hồn đón đợi hướng về cô giáo, coi cô là “cầu nối” trẻ<br />
của con người sẽ “lạnh lùng, khô cứng”. Giáo viên mầm với tác phẩm. Phương pháp này được coi là phương pháp<br />
non cần nhận thức đúng điều này và quán triệt nhiệm vụ chủ đạo. Đọc có sự sáng tạo của cá nhân làm cho tác<br />
GDTM trong tất cả các hoạt động giáo dục ở trường MN. phẩm văn học vốn là những kí hiệu thẩm mĩ sống dậy,<br />
Hiện nay, nhiệm vụ GDTM đã được các giáo viên cất tiếng nói, vì vậy cô giáo cần sử dụng mọi sắc thái của<br />
thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục ở trường giọng mình cùng với các hình thức biểu hiện khác cho<br />
<br />
178<br />
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 177-179; 176<br />
<br />
<br />
tác phẩm một bức tranh tương ứng. Đọc đòi hỏi sự trung nghệ thuật” như đọc thơ, kể chuyện, nhập vai trong các trò<br />
thành với tác phẩm, truyền đạt thông tin đầy đủ, chính chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học, đê từ đó tiến tới<br />
xác. Ở đây đòi hỏi sự hiểu biết mọi thành tố nội dung và sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật của mình.<br />
hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Phải đọc đúng giọng Biện pháp 3: Thúc đẩy năng lực hoạt động nghệ thuật<br />
điệu, âm hưởng sắc thái của tác phẩm, cũng có nghĩa là một cách sáng tạo ở trẻ<br />
phải đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Phương pháp đọc Ngôn ngữ, hình thể của cô giáo là một phương tiện<br />
và kể tác phẩm có nghệ thuật đòi hỏi mức độ cao hơn đọc trực quan hỗ trợ, bổ sung, làm sâu sắc hơn, sống dậy hình<br />
diễn cảm vì đã đi vào bản chất nghệ thuật của tác phẩm, tượng tác phẩm. Khả năng rung cảm, hiểu biết tác phẩm<br />
đào sâu sự sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Kể sáng tạo của cô sẽ bộc lộ qua ngôn ngữ, ánh mắt, cử chỉ, nét mặt,<br />
có nghệ thuật mở ra cho cô giáo sự sáng tạo nhiều hơn điệu bộ khi trình bày tác phẩm khiến trẻ có thể cảm nhận<br />
đọc, người kể có thể hòa trộn ngôn ngữ tác phẩm và ngôn bằng trực cảm. Đây cũng là yếu tố thúc đẩy năng lực hoạt<br />
ngữ của mình, bằng sự cảm thụ riêng có thể tô đậm ý động nghệ thuật ở trẻ.<br />
chính, tình tiết hay hình ảnh đẹp với những cách trình bày Việc tổ chức dạy và học thích hợp với mối quan hệ<br />
khác nhau. Kể bằng giọng thủ thỉ, chậm hơn đọc, truyền với đối tượng và chủ thể là phương tiện để làm giàu năng<br />
cảm cùng với việc trình bày tác phẩm khéo léo làm cho lực tự hoạt động nghệ thuật của trẻ, tăng cường cho trẻ<br />
lượng thông tin được dãn ra, trẻ đỡ căng thẳng khi theo tham gia vào vui chơi, lễ hội, xem các hoạt động nghệ<br />
dõi. Hơn nữa, việc phối hợp giọng kể với những cử chỉ, thuật, tích luỹ vốn văn học nghệ thuật bằng việc cho trẻ<br />
điệu bộ, nét mặt, ánh mắt - những yếu tố phi ngôn ngữ - nghe nhiều tác phẩm văn học chọn lọc. Phải dạy trẻ biết<br />
sẽ giúp trẻ thâm nhập sâu hơn, hiểu rõ hơn ý nghĩa của lắng mình với tác phẩm văn học, hòa vào cõi mộng mơ,<br />
truyện. Với sự cảm thụ riêng của cô, ý nghĩa tác phẩm trau dồi thói quen đón nhận được các hòa âm tinh tế<br />
vượt ra ngoài văn bản. Lời kể của cô như là sự bổ sung thoáng qua, bất chợt đến từ các nguồn sống khác. Lắng<br />
tạo nên mối quan hệ thâm tình giữa cô và trẻ. Phương mình, an tĩnh đến mức quên tất cả bản thân mình thì khả<br />
pháp kể đòi hỏi sự khúc chiết, sinh động, tạo khả năng năng sáng tạo trong sức nghe sẽ biểu lộ. Đó là sự “đồng<br />
ghi nhớ thông qua năng lực nghe, nhìn, sự cảm nhận sắc hóa” của cá nhân trẻ vào đối tượng nghệ thuật và cũng là<br />
thái biểu cảm và thái độ, tình cảm của tác giả, của người sự bột phát của tâm linh, nhu cầu bộc lộ những khát khao<br />
kể gây ấn tượng mạnh cho trẻ. Rõ ràng, nhu cầu sáng tạo sống, những khát vọng mơ ước của tuổi thơ. Từ nghe ra<br />
phát sinh từ phía trẻ, bạn đọc nhỏ tuổi này tác động đến nhìn thấy, trẻ bước vào hoạt động nghệ thuật một cách tự<br />
sự hoàn chỉnh văn bản kể. Thông qua vai trò “trung gian” nhiên, đó là khi trẻ say sưa đọc một bài thơ, cũng là lúc<br />
của cô giáo, thấy rõ mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm trẻ tự kể, sống với câu chuyện kể của mình.<br />
- bạn đọc nhỏ tuổi. Phương pháp này đòi hỏi cao, hướng Biện pháp 4: Xây dựng góc thư viện sinh động, hấp<br />
vào việc giao tiếp giữa cô và trẻ. Cô phải là nhà sư phạm, dẫn<br />
là nghệ sĩ, biết kết hợp chất giọng với hình thể và các Góc thư viện cần được sắp xếp gọn gàng, có nhiều<br />
hình thức nghệ thuật khác để trình bày tác phẩm sáng tạo. truyện tranh phù hợp với trẻ ở từng độ tuổi, được trang<br />
Biện pháp 2: Sử dụng phương pháp đàm thoại giúp trí theo từng chủ đề đang thực hiện ở trường mầm non.<br />
trẻ lĩnh hội nội dung, ý nghĩa tác phẩm Hệ thống các giá sách cũng cần được bài trí và sắp đặt<br />
Nhằm kích thích hoạt động nhận thức của trẻ, phương thuận tiện cho các hoạt động của trẻ tại góc thư viện.<br />
pháp đàm thoại khi được sử dụng đòi hỏi phải lôi cuốn Cùng với việc xây dựng góc thư viện, giáo viên cần tạo<br />
trẻ bộc lộ suy nghĩ cảm nhận riêng của mình - hay nói cho trẻ nền nếp, thói quen đọc sách; tạo môi trường sư<br />
khác là khơi gợi để trẻ bộc lộ cảm thụ của cá nhân tự do, phạm giàu thẩm mĩ, trong đó có việc trang trí lớp học,<br />
hồn nhiên. Cần có một hệ thống câu hỏi thông minh và trang phục của giáo viên, tạo cho trẻ cảm xúc, ấn tượng,<br />
khéo léo để cuốn hút trẻ tranh luận. Muốn có câu hỏi hay, thị hiếu thẩm mĩ. Các đồ vật được bày đặt, sắp xếp hợp<br />
cô giáo phải hiểu sâu sắc tác phẩm, mục đích yêu cầu của lí, đẹp mắt, có nghệ thuật sẽ nảy sinh óc thẩm mĩ, nhu<br />
tiết học. Biêlinxki nói “người đem tác phẩm văn học đến cầu, hoạt động nghệ thuật ở con người.<br />
cho người khác, trước hết phải là người có cảm xúc và Ngoài ra, nên trang trí một số các hình ảnh hấp dẫn,<br />
tin vào nghệ thuật”, ở đây sự giao tiếp giữa cô và trẻ cần sinh động trên nóc các kệ tủ; hoặc dán các hình trang trí<br />
cởi mở, tự nhiên như một cuộc trò chuyện có định hướng. là các nhân vật trong truyện cổ tích hay các câu chuyện<br />
Trẻ cần học được và nắm vững giá trị thẩm mĩ qua làm thần kì để tạo ra một không gian kì thú để thu hút trẻ hơn,<br />
quen với tác phẩm văn học. Giáo viên cần cho trẻ cảm thụ qua đó kích thích trẻ sáng tạo. Đồng thời, qua đó cũng<br />
được giá trị nội dung và hình thức tác phẩm, hình thành ở hình thành ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp, nhu cầu, mong<br />
trẻ khả năng cảm thụ văn học, để trẻ yêu thích văn học, thích muốn được đọc sách.<br />
tham gia vào các hoạt động mang đậm tính chất “văn học (Xem tiếp trang 176)<br />
<br />
179<br />
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 173-176<br />
<br />
<br />
chơi gãy tạo ra các điểm sắc nhọn hoặc tạo ra các mảnh [7] Bộ GD-ĐT (2010). Đề án “Phát triển thiết bị dạy<br />
vụn dễ gây chấn thương hoặc hóc, sặc cho trẻ. Cần đặc học tự làm giáo dục mầm non và phổ thông giai<br />
biệt chú ý đến các phần bằng gỗ, các đầu mối kim loại, đoạn 2010-2015”.<br />
các đồ chơi có nhiều phần gắn kết không chắc chắn và sự<br />
chắc bền của màu sắc.<br />
SỬ DỤNG TÁC PHẨM VĂN HỌC…<br />
3. Kết luận<br />
Trẻ thuộc bất cứ độ tuổi nào đều thích chơi. Hoạt (Tiếp theo trang 179)<br />
động này giúp chúng phát triển các năng lực thể chất và<br />
tâm hồn; tận hưởng không gian ngoài trời, hiểu hơn về<br />
3. Kết luận<br />
thế giới của mình, tương tác với những người khác; bộc<br />
lộ, kiểm soát cảm xúc, phát triển khả năng kí hiệu và giải GDTM là một nhiệm vụ không thể thiếu trong công<br />
quyết vấn đề. Trong thế giới vĩ mô, trẻ em làm chủ thế tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non, mang đến cho trẻ<br />
giới của mình giống như việc chúng làm chủ được những những điều thú vị và độc đáo trong cuộc sống. Văn học<br />
đồ chơi của mình. Đồ chơi và các loại học liệu được sử khơi dậy và tiếp sức cho những rung động về cái đẹp,<br />
dụng như những phương tiện giúp trẻ phát triển. Việc xác nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ, gìn giữ phát triển chất<br />
định đúng và đủ 9 yêu cầu sư phạm đối với đồ chơi trẻ nghệ sĩ vốn có trong tâm hồn,... ở mỗi người; hình thành<br />
em là một việc rất quan trọng, khi tuân thủ các yêu cầu ở họ tấm lòng hồn hậu, không nguội lạnh, thờ ơ với số<br />
này sẽ làm cho đồ chơi trở nên toàn diện và đóng góp cho phận con người; biết ghét những cái xấu, cái ác, biết<br />
thương yêu, trân trọng điều tốt đẹp. GDTM trong quá<br />
sự phát triển các mặt về kĩ năng xã hội, cảm xúc, thể chất,<br />
trình cho trẻ làm quen với văn học một cách cơ bản và hệ<br />
tinh thần và thẩm mĩ của trẻ.<br />
thống là một nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non,<br />
góp phần hình thành nhân cách trẻ.<br />
Bài viết trích từ đề tài KHCN cấp Nhà nước<br />
“Nghiên cứu giải pháp phát triển hệ thống đồ chơi<br />
phục vụ hoạt động giáo dục trẻ, đáp ứng yêu cầu đổi Tài liệu tham khảo<br />
mới giáo dục mầm non”. Mã số của đề tài: KHGD/16 [1] Bộ GD-ĐT (2017). Thông tư số 01/VBHN-BGDĐT<br />
-20.ĐT.014. ngày 24/01/2017 ban hành Chương trình giáo dục<br />
mầm non.<br />
Tài liệu tham khảo [2] Hà Nguyễn Kim Giang (2009). Phương pháp tổ<br />
[1] Hoàng Phê (chủ biên, 2008). Từ điển tiếng Việt. chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.<br />
NXB Đà Nẵng. NXB Giáo dục Việt Nam.<br />
[2] T.A. Culikova - X. A. Cozlova (2002). Giáo dục học [3] Nguyễn Cẩm Giang - Phạm Thị Thu (2015). Tuyển<br />
mầm non. Matxcova - Akademia. chọn thơ, truyện cho trẻ mầm non. NXB Văn học.<br />
[3] Phan Đông Phương (2007). Một số biện pháp tổ [4] Lã Thị Bắc Lý (2012). Văn học thiếu nhi với giáo<br />
chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tự làm đồ chơi trong dục trẻ em lứa tuổi mầm non. NXB Đại học Sư<br />
các góc hoạt động. Đề tài cấp Viện Khoa học Giáo phạm.<br />
dục Việt Nam, mã số V2006- 07. [5] Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) - Nguyễn Thị Như<br />
[4] Shelley Frost (2014). Guidelines for Choosing Mai - Đinh Thị Kim Thoa (2015). Tâm lí học trẻ em<br />
Developmentally Appropriate Toys for Young lứa tuổi mầm non từ lọt lòng đến 6 tuổi. NXB Đại<br />
Children. United States National Library. học Sư phạm.<br />
[5] Ruffino, A. G - Mistrett, S. G - Tomita, M - Hajare<br />
[6] Lã Thị Bắc Lý (2012). Giáo trình văn học thiếu nhi<br />
(2006). The universal design for play tool:<br />
và đọc, kể diễn cảm. NXB Giáo dục Việt Nam.<br />
Establishing validity and reliability. Journal of<br />
Special Education Technology, Vol. 21, pp. 25-38. [7] Barbara C. Lust (2006). Child Language:<br />
[6] Phan Đông Phương (2003). Tự tạo và sử dụng có Acquisition and Growth. Cambridge University<br />
hiệu quả đồ dùng đồ chơi trong các góc hoạt động Press, UK.<br />
của trẻ mẫu giáo 5 tuổi bằng những nguyên vật liệu [8] Caroline Rowland (2014). Understanding Child<br />
dễ kiếm, rẻ tiền. Đề tài cấp cơ sở Viện Khoa học Language Acquisition. Routlege: Taylors & Francis<br />
Giáo dục Việt Nam, mã số C9-2002. Group, London, UK.<br />
<br />
176<br />