ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

PHẠM THỊ BÍCH HỒNG THỰC TRẠNG SUY DINH DƯỠNG THỂ THẤP CÒI

Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI NGƯỜI DÂN TỘC MÔNG

TẠI 2 XÃ HUYỆN QUẢN BẠ TỈNH HÀ GIANG

Chuyên ngành: Y học dự phòng

Mã số: 60.72.01.63

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS HÀ XUÂN SƠN

THÁI NGUYÊN, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

và kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Thái Nguyên,tháng 5 năm 2019

Người cam đoan

Phạm Thị Bích Hồng

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn: Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, các thầy cô

khoa Y tế công cộng - Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên đã tạo điều kiện

giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn của mình.

Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hà Xuân Sơn - người

Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, dìu dắt tôi trên con đường nghiên cứu

khoa học.

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc Sở Y tế tỉnh Hà Giang,

Tập thể Ban giám đốc và cán bộ Trung tâm phòng chống bệnh tật tỉnh Hà

Giang, Trạm y tế 02 xã Lùng Tám và Cán Tỷ đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong

suốt quá trình triển khai đề tài, học tập và nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô trong Hội đồng khoa học đã

tạo điều kiện, góp nhiều ý kiến qúy báu cho luận văn của tôi.

Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp, gia đình

và người thân đã giúp đỡ, động viên tôi cả về tinh thần và vật chất trong quá

trình học tập và nghiên cứu.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019

Người cam đoan

Phạm Thị Bích Hồng

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NCHS

: National Center for Health Statistics (Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia)

PCSDD : Phòng chống suy dinh dưỡng

SD : Standard deviation - Độ lệch chuẩn

SDD : Suy dinh dưỡng

THCS : Trung học cơ sở

THPT : Trung học phổ thông

UNICEF : United Nations Children’s Fund - Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc

UNFPA

: United Nations Fund for Population Activities - Quỹ dân số Liên hiệp quốc

WHO : World Health Organization - Tổ chức Y tế thế giới

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1

Chương 1. TỔNG QUAN ................................................................................. 3

1.1. Thông tin chung về suy dinh dưỡng .......................................................... 3

1.1.1. Khái niệm về suy dinh dưỡng ................................................................. 3

1.1.2. Suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi .............................................. 3

1.1.3. Hậu quả suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ........................................... 3

1.1.4. Các phương pháp đánh giá SDD trẻ em trong cộng đồng ...................... 5

1.1.5. Cách đánh giá và phân loại tình trạng dinh dưỡng của trẻ em ............... 7

1.2. Thực trạng SDD thấp còi trẻ em trên Thế giới và Việt Nam ..................... 9

1.2.1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi trên Thế giới ... 9

1.2.2. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam ..... 12

1.3. Yếu tố liên quan đến SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi .............................. 16

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 26

2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 26

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ............................................................ 26

2.2.1. Địa điểm nghiên cứu: ............................................................................ 26

2.2.2. Thời gian nghiên cứu: Tháng 7/2018 đến tháng 5/2019. ...................... 26

2.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 26

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................... 26

2.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu ...................................................... 26

2.4. Chỉ số nghiên cứu ..................................................................................... 27

2.4.1. Chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 1: Thực trạng SDD thấp còi .............. 27

2.4.2. Chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 2: Yếu tố liên quan với SDD thấp còi28

2.5. Tiêu chuẩn đánh giá một số biến số nghiên cứu ...................................... 28

2.5.1. Xác định tuổi ......................................................................................... 28

2.5.2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ ....................................................... 29

2.5.3. Kinh tế hộ gia đình ................................................................................ 29

2.5.4. Thực hành về chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ .................................... 29

2.6. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................... 30

2.6.1. Đo chỉ số nhân trắc ................................................................................ 30

2.6.2. Phỏng vấn .............................................................................................. 31

2.7. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu ................................................... 31

2.8. Đạo đức trong nghiên cứu ........................................................................ 31

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 33

3.1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc

Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018 ........................ 33

3.2. Một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi

người dân tộc Mông ................................................................................ 39

Chương 4. BÀN LUẬN .................................................................................. 47

4.1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc

Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018 ........................ 47

4.2. Một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi

người dân tộc Mông ................................................................................ 54

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64

1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc

Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018 ........................ 64

2. Một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi

người dân tộc Mông ................................................................................ 64

KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................. 65

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................

PHỤ LỤC ...........................................................................................................

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Thông tin chung về trẻ dưới 5 tuổi tham gia nghiên cứu ............... 33

Bảng 3.2. Thông tin chung về các bà mẹ tham gia nghiên cứu ...................... 34

Bảng 3.3. Tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi theo thể ........................... 36

Bảng 3.4. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo mức độ .................................... 36

Bảng 3.5. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo giới .......................................... 37

Bảng 3.6. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo xã ............................................ 37

Bảng 3.7. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo tháng tuổi của trẻ .................... 37

Bảng 3.8. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi theo tuổi thai khi đẻ .................. 38

Bảng 3.9. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi theo tuổi mẹ/tổng số con .......... 38

Bảng 3.10. Tỉ lệ SDD thấp còi theo kinh tế hộ gia đình ................................. 38

Bảng 3.11. Liên quan giữa kinh tế gia đình với SDD thấp còi ....................... 39

Bảng 3.12. Liên quan giữa nghề nghiệp mẹ với SDD thấp còi ...................... 39

Bảng 3.13. Liên quan giữa nghề nghiệp bố với SDD thấp còi ....................... 40

Bảng 3.14. Liên quan giữa trình độ học vấn của mẹ với SDD thấp còi ......... 40

Bảng 3.15. Liên quan giữa tuổi kết hôn lần đầu của mẹ với SDD thấp còi ... 41

Bảng 3.16. Liên quan giữa mẹ kết hôn cận huyết với SDD thấp còi .............. 41

Bảng 3.17. Liên quan giữa tăng cân của mẹ trong thai kì với SDD thấp còi ..... 42

Bảng 3.18. Liên quan giữa số con hiện có của bà mẹ với SDD thấp còi........ 42

Bảng 3.19. Liên quan giữa thời điểm bú sữa mẹ sau đẻ với SDD thấp còi .... 43

Bảng 3.20. Liên quan giữa thời điểm ăn bổ sung với SDD thấp còi .............. 43

Bảng 3.21. Liên quan giữa thời gian cai sữa trẻ với SDD thấp còi ................ 44

Bảng 3.22. Liên quan giữa giới tính của trẻ với SDD thấp còi ...................... 44

Bảng 3.23. Liên quan giữa cân nặng sơ sinh của trẻ với SDD thấp còi ......... 45

Bảng 3.24. Liên quan giữa trẻ thường xuyên mắc bệnh với SDD thấp còi .... 45

Bảng 3.25. Liên quan giữa tình trạng tiêm chủng với SDD thấp còi ............. 46

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, suy dinh dưỡng trẻ em vẫn đang là vấn đề sức khỏe công cộng

quan trọng trên thế giới, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Suy dinh dưỡng

không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, khả năng phát triển của trẻ mà

còn là gánh nặng lớn cho xã hội. Tại Việt Nam, nhận thức được vai trò quan

trọng trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em, Chính phủ đã sớm ban

hành và cho triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách và văn bản liên

quan đến phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em như: Chiến lược quốc gia về dinh

dưỡng giai đoạn 2001 - 2010 [31]; Chương trình mục tiêu quốc gia phòng,

chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm giai đoạn 2006 - 2010, trong

đó có dự án phòng chống suy dinh dưỡng [32]; Chiến lược Quốc gia về dinh

dưỡng 2011 – 2020 và tầm nhìn 2030 [41]…

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực sau khi triển khai các chính

sách, văn bản, chương trình liên đến quan phòng chống suy dinh dưỡng nhưng

tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở nước ta vẫn còn ở mức cao. Năm 2015, tỉ lệ suy

dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi của nước ta là 24,6%, suy dinh

dưỡng nhẹ cân là 14,1% và suy dinh dưỡng gầy còm là 6,8% [8]. Tỉ lệ suy dinh

dưỡng, đặc biệt là tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi vẫn chiếm cao và còn chênh

lệch giữa các vùng sinh thái, đặc biệt là vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên [19].

Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi ở khu vực miền núi phía Bắc

là 30,3% và Tây Nguyên là 34,2% [9].

Trong các thể suy dinh dưỡng, suy dinh dưỡng thấp còi phản ánh tình

trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài, là biểu hiện phản ánh điều kiện sống, các vùng

địa lý, dịch vụ y tế nghèo nàn, điều kiện nhà ở kém và chật chội [80]. Mục tiêu

trong kế hoạch hành động quốc gia về dinh dưỡng của Việt Nam là giảm tỉ lệ suy

dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi toàn quốc xuống dưới 21,5%, riêng

vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên xuống dưới 28,0% [9].

2

Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam với dân số 833.692

người, trong đó tỉ lệ người dân tộc Mông chiếm cao nhất (32,8%), tỉ lệ người

dân tộc Tày 23,2%, Dao 14,9% và Kinh 12,8% [12]. Thống kê năm 2017 tại Hà

Giang cho thấy tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thấp còi là 34,3%, suy dinh

dưỡng thể nhẹ cân là 22,3% và suy dinh dưỡng gầy còm là 7,0% [12].

Quản Bạ là một huyện miền núi nghèo, thuộc biên giới phía Bắc tỉnh Hà

Giang; huyện có 22 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó người Mông

chiếm đa số. Người dân ở Quản Bạ còn nhiều khó khăn về kinh tế cũng như

điều kiện chăm sóc trẻ. Do đó, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng vẫn

còn cao, đặc biệt là suy dinh dưỡng thấp còi (34,4% năm 2018 [34]). Bên cạnh

đó, người dân tộc Mông là dân tộc có vóc dáng thấp còi do phong tục kết hôn

sớm [39]. Người dân tộc Mông có những phong tục tập quán liên quan đến suy

dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi như đẻ nhiều con (tua nhua), chăm sóc trước

sinh và sau sinh còn bất cập [39]. Nghiên cứu trên 53 dân tộc thiểu số Việt Nam

năm 2015 thấy tuổi kết hôn trung bình của người dân tộc Mông là 18,9 tuổi với

tỉ lệ tảo hôn rất cao (59,7%) và tỉ lệ kết hôn cận huyết 1,59% [35].

Để tìm hiểu thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em người dân tộc

Mông tại hai xã huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang và các yếu tố liên quan nhằm

đề xuất những giải pháp cải thiện tình hình, chúng tôi tiến hành đề tài “Thực

trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Mông

tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang” với 2 mục tiêu:

1. Đánh giá thực trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi

người dân tộc Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018.

2. Xác định một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thể thấp còi ở

trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Mông tại khu vực nghiên cứu.

3

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Thông tin chung về suy dinh dưỡng

1.1.1. Khái niệm về suy dinh dưỡng

Suy dinh dưỡng (SDD)

Suy dinh dưỡng là tình trạng chậm lớn, chậm phát triển do thiếu protein,

năng lượng và các vi chất dinh dưỡng mà nguyên nhân là do chế độ ăn không đảm

bảo nhu cầu protein và năng lượng, tình trạng kèm theo là các bệnh nhiễm khuẩn.

Bệnh hay gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng đều

có ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần và vận động của trẻ em [3], [4].

SDD có thể xảy ra ở bất cứ lứa tuổi nào, tuy nhiên trẻ em bị tác động nghiêm

trọng nhất là SDD protein - năng lượng, đặc biệt là trẻ em dưới 5 tuổi do nhu cầu

năng lượng tương đối cao và đặc biệt tính cảm nhiễm cao đối với bệnh nhiễm

khuẩn [3], [4].

1.1.2. Suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi

SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi được thể hiện ở tình trạng chiều cao

của trẻ thấp hơn so với chiều cao nên có ở lứa tuổi đó, thể hiện ở chỉ số "chiều

cao theo tuổi" (Height/Age) thấp dưới -2 Z-Score (hoặc dưới -2 SD so với

chuẩn tăng trưởng, WHO 2006).

Tỉ lệ thấp còi cao nhất thường xảy ra ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi [64]. Tỉ lệ hiện

mắc SDD thấp còi phổ biến hơn tỉ lệ hiện mắc SDD thiếu cân ở mọi nơi trên

thế giới vì có những trẻ bị thấp còi trong giai đoạn sớm của cuộc đời có thể đạt

được cân nặng bình thường sau đó nhưng vẫn có chiều cao thấp.

1.1.3. Hậu quả suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi

Thấp còi làm chậm tăng trưởng xương và tầm vóc, được xem là kết quả

cuối cùng giảm tốc độ tăng trưởng tuyến tính. Khuynh hướng thay đổi gia tăng

4

về chiều cao ở người trưởng thành bắt nguồn từ 2 năm đầu tiên của cuộc đời

chủ yếu thông qua tăng chiều dài chân. Thời kỳ này là thời kỳ tăng trưởng cao

nhất sau khi sinh và do đó rất nhạy cảm với các yếu tố bất lợi. Trẻ thấp còi ở

thời kỳ này ít có cơ hội đạt chiều cao bình thường khi trưởng thành hoặc đòi

hỏi thời gian dài qua nhiều thế hệ [80]. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho

thấy SDD trong giai đoạn phát triển quan trọng của con người - trước và trong

quá trình mang thai và trong hai năm đầu đời của trẻ - đã “lập trình” cho khả

năng của mỗi cá nhân trong việc điều tiết tăng trưởng và ảnh hưởng đến sự phát

triển của não bộ. Do đó SDD đầu đời có thể dẫn đến những tổn thương không

phục hồi được đối với sự phát triển của não, hệ miễn dịch và tăng trưởng thể

lực. Trẻ có não kém phát triển ở những năm đầu đời sẽ có nguy cơ về các bệnh

của hệ thần kinh sau này, kết quả học tập kém hơn, bỏ học sớm hơn, kỹ năng

làm việc kém, chăm sóc con cái kém, và góp phần tạo nên sự chuyển giao nghèo

đói từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trẻ có thể SDD từ trong bào thai do chế độ

dinh dưỡng của mẹ kém. Trẻ cũng có thể bị SDD trong những năm đầu đời do

bệnh tật, do thiếu sữa mẹ hoặc các thực phẩm bổ sung giàu dinh dưỡng. SDD

làm suy yếu hệ miễn dịch của trẻ, khiến trẻ có nguy cơ tử vong cao từ những

bệnh thường gặp như viêm phổi, tiêu chảy hay sốt rét [64].

Tăng trưởng chiều cao là biểu hiện phản ánh điều kiện sống. Tăng trưởng

kém là biểu hiện của nghèo đói, thiếu dinh dưỡng và kém phát triển. Nhiều yếu

tố kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến tăng trưởng như tầng lớp xã hội, vùng đô

thị và nông thôn, các vùng địa lý, dịch vụ y tế nghèo nàn, điều kiện nhà ở kém

và chật chội [80]. SDD thấp còi phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài

hoặc thuộc về quá khứ, làm cho đứa trẻ bị còi. Chiều cao theo tuổi thấp cũng

phản ánh sự chậm tăng trưởng do điều kiện dinh dưỡng và sức khỏe không hợp

lý. Đây là một chỉ tiêu tốt để đánh giá sự cải thiện điều kiện kinh tế xã hội.

Chiều cao theo tuổi cũng là chỉ tiêu thích hợp nhất để đánh giá tác động dài

hạn, phản ảnh các thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội [55].

5

SDD làm cho trẻ em dễ bị cảm nhiễm với các bệnh nhiễm trùng, nhất là

các bệnh đường hô hấp, đường ruột và khi mắc thì diễn biến xấu hơn, gia tăng

tỉ lệ tử vong. SDD là điều kiện thuận lợi để các bệnh lý này xảy ra và kéo dài,

làm cho trẻ em ăn uống kém, nhu cầu năng lượng gia tăng nên SDD ngày càng

trở nên nặng nề hơn. SDD làm trẻ em kém phát triển về thể chất. Mức độ chậm

phát triển tăng song song với thời gian kéo dài của bệnh và nhóm tuổi của trẻ.

Các bằng chứng khoa học đã cho thấy, giai đoạn đầu tiên của cuộc đời từ trong

bụng mẹ đến 2 tuổi, nếu trẻ em bị SDD có thể để lại những hậu quả về thể chất

và tinh thần không phục hồi được và kéo sang thế hệ sau. Nếu tình trạng SDD

kéo dài đến thời gian dậy thì, chiều cao của trẻ em sẽ càng bị ảnh hưởng trầm

trọng hơn. SDD làm trẻ em chậm phát triển tâm thần, nhất là ảnh hưởng đến sự

phát triển bình thường của não bộ trong giai đoạn trẻ em dưới 6 tuổi. Trí thông

minh dễ dàng bị ảnh hưởng nếu trẻ bị SDD bào thai và dưới 12 tháng tuổi. Tác

hại của SDD càng nặng, nếu bệnh xuất hiện lúc cơ quan chưa trưởng thành.

Ngoài ra, SDD tác động tiêu cực về mặt xã hội: Tầm vóc của dân tộc sẽ chậm

tăng trưởng nếu tình trạng SDD không được cải thiện qua nhiều thế hệ. Khả

năng lao động về thể lực cũng như về trí lực của những người SDD trong quá

khứ hay trong hiện tại đều không thể đạt đến mức tối ưu, là một sự lãng phí vô

cùng lớn đối với các nước đang phát triển. Nguồn nhân lực trong tương lai cũng

sẽ bị ảnh hưởng vì tầm vóc và thể lực của các lớp thanh thiếu niên liên quan

đến sức khỏe sinh sản. Như vậy, SDD vừa ảnh hưởng trước mắt, trực tiếp đến

phát triển của trẻ; vừa dẫn đến các hậu quả không khắc phục được như tầm vóc

người trưởng thành thấp bé, kết quả học tập kém, giảm khả năng lao động người

lớn và ảnh hưởng tới thu nhập quốc dân. Mặt khác, điều trị SDD phức tạp, tốn

kém, trong khi việc phát hiện sớm và dự phòng SDD có thể thực hiện được nhờ

các biện pháp chăm sóc sức khoẻ ban đầu.

1.1.4. Các phương pháp đánh giá SDD trẻ em trong cộng đồng

6

Để đánh giá, phân loại SDD trong cộng đồng, theo Tổ chức Y tế thế giới

(WHO) nên sử dụng các chỉ số nhân trắc học, đó là cân nặng theo tuổi (W/A),

chiều cao theo tuổi (H/A), và cân nặng theo chiều cao (W/H).

Các chỉ số này được hình thành từ các số đo cân nặng, chiều cao, tuổi, giới

cụ thể của một trẻ và sẽ được thể hiện bằng các giá trị bách phân vị (Percentile)

hoặc giá trị độ lệch chuẩn SD (Standard Deviation). Sau đó, để nhận định các

kết quả này, ta chọn một quần thể tham chiếu để so sánh. Thực tế đã có nhiều

bằng chứng cho rằng trẻ em dưới 5 tuổi nếu được nuôi dưỡng tốt thì có thể đạt

được các kích thước gần như nhau mà không phụ thuộc vào giống nòi. Chính vì

vậy mà WHO khuyến nghị dùng quần thể tham khảo NCHS (National Center of

Health Statiscics) của Hoa Kỳ để nhận định tình trạng SDD của trẻ em. Điều này

không có nghĩa đây là một quần thể đạt chuẩn mà chỉ là công cụ đối chiếu để

lượng giá tình hình và so sánh trên phạm vi quốc tế. Cụ thể trong cộng đồng

chúng ta, đánh giá tình trạng SDD như sau:

- Cân nặng theo tuổi (W/A): Cân nặng theo tuổi phản ánh tình trạng nhẹ

cân (underweight), là chỉ số đánh giá SDD thông dụng từ năm 1950. Chỉ số này

được dùng để đánh giá SDD của cá thể hay cộng đồng. Nhẹ cân chỉ là một đặc

tính chung của SDD, nhưng không cho biết đặc điểm cụ thể, đó là loại SDD

mới xảy ra hay đã tích luỹ từ lâu. Chỉ số này nhạy cảm và có thể quan sát nó

trong một thời gian ngắn. Tuy vậy chỉ số này không nhạy đối với trẻ em bị còi

thấp, vì với những trẻ này có thể phát triển cân nặng thấp nhưng chỉ song song

với phía dưới của đường phát triển bình thường, hoặc có những trẻ quá cao, nên

cân nặng theo tuổi có thể bình thường, nhưng thực ra trẻ bị SDD. Chỉ số này

liên quan đến tuổi và đó cũng là vấn đề khó khăn khi thu thập số liệu để tính

toán, đặc biệt ở những nơi có trình độ dân trí thấp, bà mẹ đông con, những nơi

các bà mẹ nhớ ngày sinh tháng đẻ của trẻ theo cách riêng của họ. Thực tế, theo

dõi cân nặng là việc tương đối dễ thực hiện ở cộng đồng hơn cả, do đó tỉ lệ

7

thiếu cân theo tuổi được sử dụng rộng rãi để tính tỉ lệ chung của SDD [3].

- Chiều cao/tuổi (H/A): Chiều cao theo tuổi thấp được gọi là SDD thấp

còi (stunting), biểu hiện SDD trong quá khứ [4]. Thấp còi được xem là hậu quả

của tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài và tích lũy hoặc mắc các bệnh nhiễm

khuẩn tái diễn. Đồng thời, nó cũng phản ánh đó là hậu quả của vệ sinh môi

trường kém và SDD sớm. Chỉ số này được dùng để đánh giá SDD trong quá

khứ, nhưng chỉ số này không nhạy, vì sự phát triển chiều cao là từ từ. Như vậy,

khi thấy trẻ có chiều cao thấp thì đã muộn. Tỉ lệ trẻ em thấp còi được xem là

chỉ số đánh giá tình trạng đói nghèo. Đây là chỉ tiêu tốt để đánh giá sự cải thiện

điều kiện kinh tế, xã hội. Thông thường ở các nước đang phát triển, tỉ lệ thấp

còi tăng nhanh sau 3 tháng tuổi, đến 3 tuổi tỉ lệ này ổn định, sau đó chiều cao

trung bình đi song song với chiều cao tương ứng ở các quần thể tham khảo.

- Cân nặng/chiều cao (W/H): Cân nặng theo chiều cao phản ánh thể trạng

so với chiều cao; cân nặng/chiều cao thấp là biểu hiện SDD cấp tính, do vậy

cần phải ưu tiên can thiệp [3]. Cân nặng/chiều cao thấp (Wasting) chính là thiếu

hụt cơ thể (khối nạc, khối mỡ, xương) khi so sánh tổng số cần có của đứa trẻ

có cùng chiều cao (hay chiều dài). Cân nặng theo chiều cao thấp, phản ánh sự

không tăng cân hay mất cân nếu so sánh với trẻ có cùng chiều cao. Nó còn phản

ánh mức độ thiếu ăn và nhiễm khuẩn là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình

trạng này. Tỉ lệ cân nặng/chiều cao thấp thường xuất hiện nhiều ở trẻ 12 - 24

tháng tuổi, do đây là thời kỳ trẻ hay mắc bệnh và thiếu ăn do thiếu chăm sóc.

SDD cấp tính tiến triển rất nhanh ở trẻ em bị sụt cân hoặc không tăng cân. Chỉ

số cân nặng/chiều cao có ưu điểm là không cần biết tuổi của trẻ, vì vậy có thể

tránh được một dữ liệu (tính tuổi) đôi khi rất khó thu thập hoặc không chính

xác. Đồng thời chỉ số này còn có một ưu điểm là không phụ thuộc vào yếu tố

dân tộc, vì trẻ dưới 5 tuổi cơ thể phát triển như nhau trên toàn cầu.

1.1.5. Cách đánh giá và phân loại tình trạng dinh dưỡng của trẻ em

8

Năm 1983, WHO đề nghị lấy số liệu của NCHS Hoa Kỳ làm quần thể

tham chiếu và đề nghị này hiện nay đã được ứng dụng rộng rãi, mặc dù cũng

còn một số nước áp dụng các quần thể tham chiếu địa phương. Theo phân bố

thống kê, thường lấy âm 2 độ lệch chuẩn (-2SD (Standard deviation) của số

trung bình làm giới hạn ngưỡng. Ví dụ: Khi có cân nặng của một trẻ A, ta có

thể đối chiếu với số liệu tham chiếu NCHS của đứa trẻ cùng giới và tuổi. Nếu

cân nặng của trẻ A nhỏ hơn ngưỡng -2SD của trẻ cùng giới và tuổi trong bảng,

nghĩa là trẻ A bị SDD thể thiếu cân. Từ đó người ta tính được tỉ lệ trẻ có cân

nặng ở dưới ngưỡng -2SD ở vùng điều tra.

Cách thứ hai là tính Z-score theo công thức [84]:

Kích thước đo được - Số trung bình của quần thể tham chiếu X - M

Z-score = ----------------------------------------------------------------------- = -------

Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu SD

Sau đây là cách phân loại và nhận định các chỉ tiêu nhân trắc về tình

trạng dinh dưỡng của trẻ em theo Z-score của WHO 2006:

Bảng 1.2. Đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em theo WHO

Thể suy dinh dưỡng

Nhẹ cân (W/A) Thấp còi (H/A) Gầy còm (W/H) Đánh giá

-2SD đến + 2SD -2SD đến +2SD -2SD đến +2SD Bình thường

Từ < -2SD đến Từ < -2SD đến SDD mức độ Từ < -2SD đến -3SD -3SD -3SD vừa

SDD mức độ Từ < -3SD Từ < -3SD Từ < -3SD nặng

Đánh giá trên quần thể: WHO đã đưa ra bảng phân loại sau đây để nhận

định ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng của thiếu dinh dưỡng [84].

Bảng 1.3. Phân loại mức độ thiếu dinh dưỡng ở cộng đồng [84]

9

Mức độ thiếu dinh dưỡng (%) Chỉ tiêu Thấp Trung bình Cao Rất cao

SDD thể nhẹ cân (W/A) 10 - 19 20 - 29 < 10 ≥ 30

SDD thể thấp còi (H/A) 20 - 29 30 - 39 < 20 ≥ 40

SDD thể gầy còm (W/H) < 5 5 - 9 10 - 14 ≥ 15

1.2. Thực trạng SDD thấp còi trẻ em trên Thế giới và Việt Nam

1.2.1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi trên Thế giới

Mặc dù tình trạng SDD trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn thế giới đã được cải

thiện khá nhiều trong những năm qua, tuy nhiên tỉ lệ SDD của trẻ vẫn còn khá

cao, đặc biệt ở những nước đang phát triển. Năm 2016, theo ước tính của

WHO, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (United Nations Children’s Fund -

UNICEF) và Ngân hàng Thế giới (World Banks - WB), từ năm 2000 đến năm

2016, SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm đáng kể: SDD thấp còi giảm từ 32,7%

xuống còn 22,9% (tương ứng 154,8 triệu trẻ) [79]. Báo cáo năm 2012 của

UNICEF, WHO và World Bank thấy: tỉ lệ SDD thấp còi giảm từ 35,5% năm

1990 xuống còn 26,0% năm 2011 (từ 253 triệu trẻ xuống 165 triệu trẻ); SDD

thể nhẹ cân giảm từ 36,0% năm 1990 xuống còn 16,0% năm 2011 (từ 159

triệu trẻ xuống 101 triệu trẻ); SDD gầy còm giảm từ 11% năm 1990 xuống

còn 8,0% năm 2011 (từ 58 triệu trẻ xuống còn 52 triệu trẻ) [76].

Đối với SDD thấp còi: theo báo cáo của UNICEF năm 2013 cũng cho

thấy, có khoảng 165 triệu trẻ em trên toàn cầu, chiếm trên 1/4 trẻ em dưới 5

tuổi bị thấp còi trong năm 2011 (khoảng 26,0%) [75]. Số trẻ dưới 5 tuổi tử vong

hàng năm tuy đã giảm so với những năm 1990 nhưng vẫn còn xấp xỉ 7 triệu,

trong đó có khoảng 2,3 triệu trẻ chết vì những nguyên nhân liên quan đến SDD

[77]. Báo cáo của WHO cũng cho thấy, đến năm 2015 trên toàn cầu có 156

triệu trẻ em bị SDD thấp còi, chiếm khoảng 23,0% tổng số trẻ dưới 5 tuổi.

Nhiều bằng chứng cho thấy mặc dù số trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thấp còi còn cao,

10

nhưng tỉ lệ phân bố không đều ở các khu vực trên thế giới [78]. Sự phân tích

dựa trên các dữ liệu khẳng định rằng thấp còi vẫn là một vấn đề y tế công cộng

quan trọng của nhiều nước và tiếp tục cản trở sự phát triển thể chất và tinh thần

của trẻ. Thêm vào đó, nó cũng ảnh hưởng lớn đến sự sống còn của trẻ. Các báo

cáo của UNICEF và WHO đều cho biết, số trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD thấp còi

còn rất cao trên thế giới, nhưng gánh nặng này phân bố không đồng đều, đặc

biệt con số này còn đặc biệt cao ở2 châu lục là châu Phi và châu Á. Báo cáo

của UNICEF năm 2013 cho biết, khu vực Sub-Saharan của châu Phi và Nam

Á chiếm khoảng 3/4 tổng số trẻ em thấp còi trên toàn thế giới [75].

Báo cáo gần đây của UNICEF (2017) thấy tỉ lệ SDD thấp còi trên toàn

thế giới ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 32,7% năm 2000 (tương ứng 198,4

triệu trẻ mắc) xuống còn 22,9% năm 2016 (tương ứng 154,8 triệu trẻ mắc) [79].

Hình 1.1. trên đây cho thấy sự phân bố SDD thấp còi tại các khu vực trên thế

giới với tỉ lệ SDD thấp còi chiếm cao ở khu vực Đông Phi (26,7%), Trung Phi

(32,5%) và Tây Phi là 31,5%. Tỉ lệ SDD thấp còi ở khu vực Nam Á là 34,% và

khu vực Đông Nam Á là 25,8%. Tỉ lệ SDD ở khu vực Bắc Mỹ là 2,3% và Nam

Mỹ là 9,5% [79]. Nhìn chung tỉ lệ SDD thấp còi dao động khác nhau tùy từng

vùng nhưng tập trung cao tại khu vực châu Phi và châu Á. Báo cáo của UNICEF

cũng nhận định trong năm 2016, hơn một nửa (56,0%) trẻ em dưới 5 tuổi khu

vực châu Á bị SDD thấp còi và hơn một phần ba (38,0%) trẻ em dưới 5 tuổi

khu vực châu Phi bị SDD thấp còi [79].

11

Hình 1.1. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở một số khu vực trên thế giới [79]

Tỉ lệ SDD thấp còi trong những năm qua có xu hướng giảm dần ở hầu

hết các khu vực. Theo công bố của Stevens trên tạp chí Lancet năm 2012, tại

các nước đang phát triển trong gian đoạn từ 1985 cho đến 2011, tỉ lệ SDD thấp

còi của trẻ dưới 5 tuổi đã giảm từ 47% (95%CI 44,0%; 50,3%) xuống còn

29,9% (95%CI 27,1%; 32,9%) [71]. Dự đoán đến năm 2020, tỉ lệ SDD thấp còi

trên toàn thế giới tiếp tục giảm. Tỉ lệ thấp còi ở các nước đang phát triển sẽ

giảm xuống còn khoảng 16,3% vào năm 2020 (so với 29,8% năm 2000). Tuy

nhiên có 2 vùng là khu vực biển Caribbean (trừ Australia và New Zealand) và

châu Phi là tỉ lệ SDD thấp còi giảm chậm hoặc không giảm [79].

Tại khu vực châu Á, các nghiên cứu ở một số nước như Lào, Ấn Độ trong

những năm qua đều cho thấy tỉ lệ thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi cũng khá cao.

Nghiên cứu của Phengxay M và cộng sự, năm 2007, cho thấy tỉ lệ trẻ em thấp

12

còi là 54,6%, nhẹ cân 35%, gầy còm 6%. Trẻ em thuộc nhóm 12 – 23 tháng

tuổi Khmu có tỉ lệ thấp còi cao (65% - 66%) và nhẹ cân cao (40% - 45%) [68].

Một nghiên cứu khác thực hiện tại vùng nông thôn Ấn Độ để xác định tỉ lệ SDD

thấp còi trên 673 trẻ, kết quả cho thấy tỉ lệ SDD thấp còi là 39,2% [54].

Một số nghiên cứu khác về SDD: Nghiên cứu tại Milot Valley, Haiti cho

tỉ lệ SDD thấp còi là 14,8%; SDD thể nhẹ cân là 16,1% và SDD thể gầy còm là

15,3% [70]. Nghiên cứu của Amare Desalegne và cs (2015) cho tỉ lệ SDD

chung ở Bure Town, Bắc Ethiopia là 35,5%; trong đó SDD thấp còi là 24,9%;

SDD thể nhẹ cân là 14,3% và SDD thể gầy còm là 11,1% [52]. Nghiên cứu tại

Tanzania (2017) cho kết quả tỉ lệ SDD thấp còi là 41,9%; SDD thể nhẹ cân là

46,0% và SDD thể gầy còm là 24,7%. Trong đó có 33,0% mắc cả SDD thấp

còi lẫn nhẹ cân và 12,0% mắc SDD cả 3 thể [66].

Nghiên cứu ở vùng Sindh, Pakistan (2016) cho tỉ lệ SDD thấp còi là

48,2% (95% CI: 47,1% - 50,3%), SDD thể nhẹ cân là 39,5% (95% CI: 38,4% -

41,5%) và SDD thể gầy còm là 16,2% (95% CI: 15,5% - 17,9%) [61]. Báo cáo

tổng quan của Mohseni M. và cs (2018) cho tỉ lệ SDD thấp còi ở Iran là 12,4%

(95% CI: 8,3% - 18,5%), SDD thể nhẹ cân là 10,5% (95% CI: 7,1% - 15,4%)

và SDD thể gầy còm là 7,8% (95% CI: 4,8% - 12,6%) [67]. Nghiên cứu ở Bắc

Sudan trên 1447 trẻ < 5 tuổi cho tỉ lệ SDD thấp còi là 42,5%; SDD thể nhẹ cân

là 32,7% và SDD thể gầy còm là 21,0% [72]. Báo cáo tổng quan về SDD tại

Ethiopia của Abdulahi Ahmed và cs (2017) cho tỉ SDD thấp còi là 42,0% (95%

CI: 37,0% - 46,0%), SDD thể nhẹ cân là 33,0% (95% CI: 27,0% - 39,0%) và

SDD thể gầy còm là 15,0% (95% CI: 12,0% - 19,0%) [49].

1.2.2. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam

SDD thấp còi ở trẻ em Việt Nam còn là một thách thức quan trọng đối với

sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua, mặc

dù Việt Nam được đánh giá là quốc gia thành công trong việc giảm nhanh tỉ lệ

13

SDD trẻ em nói chung và SDD thấp còi nói riêng. Tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ em

dưới 5 tuổi tại Việt Nam năm 1990 là 56,5%, giảm xuống còn 36,5% năm

2000; đến năm 2009 tỉ lệ này giảm xuống còn 31,9% [45]. Năm 2010 tỉ lệ SDD

thấp còi tại Việt Nam là 29,3% [42]; tỉ lệ SDD thấp còi của nước ta năm 2014

là 24,9% [8] và năm 2015 là 24,2% [10]. Mặc dù tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ dưới

5 tuổi nước ta giảm dần mỗi năm ở một tỉ lệ khá cao 1,0 - 2,0%, nhưng nhận

xét chung thì tỉ lệ SDD thấp còi hiện vẫn ở mức trung bình theo tiêu chuẩn của

WHO.

Trong thời gian qua, SDD thấp còi ở Việt Nam có xu hướng giảm dần

ở cả 8 vùng sinh thái theo thời gian, tuy nhiên không đều và vẫn còn sự mất

cân bằng giữa các vùng đặc biệt là các vùng cao và khó khăn như Tây

Nguyên, vùng biển miền trung phía bắc và vùng núi phía Bắc cũng như giữa

người nghèo và người không nghèo [19]. Tỉ lệ SDD thấp còi cao nhất ở vùng

Tây Nguyên (gần 50% năm 2002 xuống còn khoảng 35% năm 2011), tiếp

đến là Vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ (khoảng 40% năm 2002

và giảm chậm còn khoảng 30 - 35% năm 2011). Các vùng còn lại là Duyên

hải Nam Trung Bộ, Đồng Bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Hồng và

Đông Nam Bộ, tuy có sự khác biệt về tỉ lệ SDD thấp còi năm 2002 (dao

động trong khoảng từ 26% đến 34%) nhưng tính cho đến năm 2011, tỉ lệ này

đã xấp xỉ bằng nhau và ở vào khoảng trên dưới 25%. Một điều đáng chú ý

sự biến động về tỉ lệ SDD thấp còi tại vùng Đông Nam Bộ là khá lớn. Tỉ lệ

SDD thấp còi đột ngột giảm thấp các năm 2005 và năm 2010, lần lượt là

21,6% và 19,2% [42].

40

14

36.5

29.6

29.3

30

)

24.6

23.8

%

20

( i ò c p ấ h t

10

D D S ệ l ỉ

T

0

Năm 2000

Năm 2005

Năm 2010

Năm 2015

Năm 2017

Biểu đồ 1.1. Diễn biến tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5

tuổi tại Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2017 [10], [46].

Bên cạnh đó, ở Việt Nam có sự khác biệt khá lớn về tỉ lệ SDD thấp còi

ở khu vực thành thị và nông thôn. Ở khu vực thành thị vào những năm cuối

2000, tỉ lệ thấp còi đã gần về điểm đầu của mức trung bình theo ngưỡng đánh

giá của WHO (22,6% năm 2006), trong khi ở nông thôn tỉ lệ này vẫn còn ở

điểm giữa của mức cao (34,8% năm 2006). Theo báo cáo tình hình dinh dưỡng

Việt Nam của Viện Dinh dưỡng, sự khác biệt về tỉ lệ thấp còi giữa thành thị và

nông thôn vẫn khá lớn, lần lượt là 18,4% và 31,9% [42]. Nghiên cứu của Trần

Thị Lan tại Quảng Trị, một tỉnh miền núi trung Trung bộ năm 2011 năm 2013

cho thấy tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ 12 – 36 tháng tuổi lần lượt là 66,5% [22],

nhưng nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hà tại Bắc Ninh thuộc đồng bằng Bắc bộ

năm 2007 chỉ là 34,4% [17]. Sự khác biệt về kết quả giữa hai nghiên cứu này

đã cho thấy sự khác biệt về tỉ lệ thấp còi giữa hai vùng miền này. Điều này

được lý giải bởi sự bất cập trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, trình độ dân trí và

khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn giữa khu vực nông thôn, miền núi so

với các thành phố lớn và các khu đô thị. Tỉ lệ SDD giảm, nhưng vẫn còn cao

15

tại các vùng núi, nông thôn trong khi tại các thành phố, khu đô thị có xu hướng

tăng tỉ lệ trẻ thừa cân béo phì. Báo cáo tại Hà Giang của Viện Dinh Dưỡng cho

tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thấp còi năm 2013 là 35,4%; tỉ lệ SDD thấp còi năm

2014 là 35,2% [43], [44]. Thống kê năm 2017 tại Hà Giang cho thấy tỉ lệ trẻ

dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thấp còi là 34,3%, suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là

22,3% và suy dinh dưỡng thấp còi là 7,0% [12].

Một số nghiên cứu khác về SDD tại Việt Nam: Nghiên cứu của Lương

Thị Thu Hà tại hai xã của huyện Phú Lương, Thái Nguyên năm 2008 cho tỉ lệ

SDD của trẻ em trong nghiên cứu ở mức rất cao: SDD thấp còi là 41,5%; thể

nhẹ cân là 35,4%, thể gầy còm là 8,4%. SDD độ I thể thấp còi là 27,5% [16].

Nghiên cứu của Ngọc Xuân Chấn (2011) tại xã Yên Hà, Quảng Bình thấy: Tỉ

lệ SDD của trẻ em trong nghiên cứu cũng ở mức rất cao: thể thấp còi là 38,6%,

thể nhẹ cân là 34,4%, thể gầy còm là 9,4%. SDD độ I thể nhẹ cân là 27,2%, thể

thấp còi là 25,6%. Độ tuổi có tỉ lệ SDD cao ở nhóm tuổi 40 - 60 tháng tuổi [11].

Nghiên cứu của Trần Thị Tuyết Mai (2013) tại tỉnh Khánh Hòa cho kết quả: tỉ

lệ SDD trẻ em từ 0 - 36 tháng tuổi tại các xã nghiên cứu thuộc các huyện thị

đồng bằng ven biển tỉnh Khánh Hòa ở mức thấp với tỉ lệ SDD thấp còi 18,4%,

SDD nhẹ cân 10,1%, SDD gày còm 3,6% và béo phì 2,6% [24]. Nghiên cứu

của Nguyễn Anh Vũ (2013) cho tỉ lệ SDD trẻ em từ 12 - 24 tháng tại huyện

Tiên Lữ thể thấp còi 29,4%, nhẹ cân là 7,6% và gầy còm là 3,0% [48].

Nghiên cứu của Đinh Đạo (2014) tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng

Nam cho tỉ lệ SDD thấp còi 62,8%, SDD thể nhẹ cân 36,5% và SDD thể gầy

còm 8,4% [13]. Nghiên cứu của Lê Thị Hương và cs (2014) tại thành phố Phủ

Lý cho tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi SDD thấp còi 7,5%, nhẹ cân 4,4% và gầy còm 7,2%

[21]. Nghiên cứu của Bùi Xuân Minh và cs (2015) ở trẻ em dưới 5 tuổi người

dân tộc Raglai tại hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh

Hòa cho kết quả tỉ lệ SDD thấp còi là 68,7%, nhẹ cân là 56,5%; SDD trẻ trai

16

cao hơn trẻ gái ở thể nhẹ cân và gầy còm [26]. Nghiên cứu của Trần Thị Thanh

(2016) thấy tỉ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi huyện Cư Kuin tỉnh Đăk Lăk ở thể

SDD thấp còi là 37,6%, nhẹ cân 28,0% và gầy còm là 7,4%. Tình trạng SDD

thấp còi trẻ em ở dân tộc thiểu số cao hơn trẻ em dân tộc Kinh: 46,2% so với

31,9%, p =0,001 [30]. Nghiên cứu của Hoàng Văn Phương (2018) thấy tình

trạng SDD ở trẻ 36 - 59 tháng tuổi tại huyện Thanh Liêm ở thể thấp còi là

18,1%, thể nhẹ cân là 11,3% và thể gầy còm là 3,1%. Có sự khác biệt về tỉ lệ

SDD thấp còi giữa các nhóm tuổi [29]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh

Uyên và cs (2018) tại một số trường mầm non trên địa bàn thành phố Pleiku

cho tỉ lệ SDD thấp còi 2,9%, SDD nhẹ cân 11,1% và SDD gầy còm 5,0% [40].

1.3. Yếu tố liên quan đến SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi

- Liên quan giữa giới tính của trẻ với SDD thấp còi:

Hiện nay, còn một số tranh cãi về giới tính của trẻ liên quan đến SDD.

Một số tác giả cho rằng, trẻ trai có xu hướng hoạt động và tiêu thụ nhiều năng

lượng nên ăn nhiều hơn trẻ gái. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu còn có sự

khác biệt. Nghiên cứu của Biswas S. và cs (2010) tại vùng nông thôn Ấn Độ

thấy trẻ gái có nguy cơ SDD cao hơn trai [54]. Nhưng nghiên cứu của Phengxay

M và cs (2007) lại bé trai có khuynh hướng thấp còi và nhẹ cân hơn bé gái [68].

Nghiên cứu của Abera Lamirot trên 398 trẻ từ 6 - 59 tháng tuổi cho kết quả có

mối liên quan giữa giới tính và SDD thấp còi ở trẻ: trẻ nam có nguy

cơ SDD thể thấp còi cao hơn 1,9 lần so với trẻ nữ (95%CI: 1,10 - 3,32) [50].

- Liên quan giữa kinh tế đói nghèo với SDD:

Đói nghèo liên quan đến nguồn lương thực thực phẩm cung cấp cho gia

đình, qua đó liên quan đến suy dinh dưỡng. Không những thế, đói nghèo chủ

yếu rơi vào những hộ gia đình có trình độ học vấn thấp, khó có cơ hội tiếp

xúc với kỹ năng, thông tin và với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Đã có nhiều

nghiên cứu khẳng định về có sự liên quan chặt chẽ giữa yếu tố kinh tế gia đình

với tình trạng SDD trẻ em. Nghiên cứu cho thấy hộ có kinh tế trung bình và

17

giàu thì con ít có nguy cơ mắc SDD thấp hơn 0,66 lần (95%CI: 0,45 - 0,95, p

< 0,05) và 0,63 (95%CI: 0,45 - 0,95, p < 0,05) so với hộ nghèo [57]. Nghiên

cứu khác tại Bangladesh cho thấy trẻ thuộc hộ gia đình có chỉ số nghèo cao có

nguy cơ mắc SDD thấp còi cao hơn 2,892 lần so với nhóm không nghèo (p <

0,001) [56]. Nghiên cứu trên 389 trẻ của Tariku E.Z và cs (2018) thấy trẻ sống

ở hộ nghèo có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao hơn 2,15 lần (95%CI: 1,00 -

4,60); trẻ sống ở hộ trung bình có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao hơn 2,90 lần

(95%CI: 1,39 - 6,04) so với trẻ sống ở hộ giàu [74].

Bên cạnh đó, nghề nghiệp của bố hoặc mẹ là yếu tố quyết định thu nhập

trong gia đình, qua đó liên quan đến đói nghèo và suy dinh dưỡng. Nghiên cứu

của Mazengia Amare Lisanu và cs (2018) thấy bố có nghề nghiệp là nông dân thì

con có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao hơn 5,23 lần (95%CI: 1,55 - 17,64) [65].

Nghiên cứu của Lê Thị Hương và cs (2014) cho kết quả: mẹ làm cán bộ viên

chức thì con bị SDD chiếm 3,8%, thấp hơn so với mẹ làm nghề khác (13,6%),

mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [21]. Cần nhận thức được rằng

các yếu tố văn hoá xã hội, sinh thái đều có liên quan tới đói nghèo và SDD trẻ em.

Nhiều yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến phát triển chiều cao góp phần tăng

nguy cơ SDD thấp còi. Các yếu tố này ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp

đến sức khỏe của đứa trẻ đang lớn thông qua môi trường sống và vệ sinh của

chúng. Nghiên cứu của Lê Cảnh Dũng và cs (2011) thấy yếu tố liên quan đến

tỉ lệ SDD trẻ em cao ở đồng bằng sông Cửu Long chính là do yếu tố nghèo

và phát triển nông thôn kém [15].

- Liên quan giữa gia đình đông con, mồ côi cha mẹ với SDD:

Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa

tình trạng đông con trong gia đình với tình trạng SDD trẻ em. Mặt khác, phần

lớn các hộ gia đình nghèo, nhất là ở vùng nông thôn và miền núi lại thường

sinh nhiều con. Vì gia đình đông con nên chế độ dinh dưỡng, khẩu phần ăn của

trẻ không được đảm bảo. Gia đình đông con hoặc sinh đôi sinh ba là gánh nặng

18

cho vấn đề chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ trong mỗi gia đình, đặc biệt ở các nước

đang phát triển. Khi đông con, đứa trẻ thiếu sự chăm sóc tốt cả về chất lượng

dinh dưỡng cũng như thời gian được chăm sóc; do đó, trẻ rất dễ bị SDD. Nghiên

cứu của John Jomon và cs (2018) đã chứng minh được mối liên quan giữa số

lượng con với thứ tự sinh và tăng nguy cơ mắc SDD trẻ em [58]. Nghiên cứu

trên 610 trẻ của Wasihun A.G. và cs (2018) thấy gia đình ≤ 4 người ít có nguy

cơ mắc SDD thể gầy còm hơn 0,56 lần (95%CI: 0,368 - 0.959) so với gia đình

> 4 người [81].

- Liên quan giữa bà mẹ có trình độ học vấn thấp và kiến thức chăm

sóc trẻ kém với SDD:

Có thể nói, việc chăm sóc phụ nữ và trẻ em đóng một vai trò quan trọng

đối với SDD ở Việt Nam. Những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi những người

phụ nữ có học thức cao hơn thì thường được chăm sóc dinh dưỡng tốt hơn.

Trình độ học vấn của các bà mẹ có ảnh hưởng lớn tới tình trạng dinh dưỡng của

trẻ em. Mù chữ hoặc trình độ văn hoá thấp đã giới hạn khả năng của người phụ

nữ nâng cao chất lượng cuộc sống cũng như thực hiện các hành vi chăm sóc

sức khoẻ cho gia đình, cho chính bản thân họ và cho con cái họ. Trình độ học

vấn thấp dẫn tới bà mẹ thiếu kiến thức và kỹ năng nuôi con dẫn tới trẻ em nguy

cơ bị SDD. Do trình độ học vấn của các bà mẹ thấp, các bà mẹ đã không nhận

thức được các kiến thức về chăm sóc sức khoẻ cho bản thân như các kiến thức

về thai nghén, về kế hoạch hoá gia đình, kiến thức về dinh dưỡng và phòng

chống bệnh tật, từ đó làm tăng khả năng mắc bệnh của bà mẹ mà hàng đầu là

bệnh về dinh dưỡng và làm tăng nguy cơ SDD ở trẻ em. Nghiên cứu cho thấy

nếu bà mẹ được hướng dẫn nuôi con, thì tỉ lệ SDD ở con sẽ thấp hơn so với bà

mẹ không được hướng dẫn nuôi con (p < 0,05) [21].

Nghiên cứu cho thấy trình độ học vấn của bố và mẹ, chỉ số giàu có, BMI

của mẹ và chăm sóc trước sinh là những yếu tố có liên quan với SDD trẻ em (p

< 0,01) [73]. Nghiên cứu của Biswas S. và cs (2010) cho kết quả trình độ học

19

vấn của mẹ và cha đều có mối liên quan có ý nghĩa thống kê đến tỉ lệ SDD của

trẻ gái [54]. Nghiên cứu của Kang Y. và cs (2018) trên 1506 trẻ thấy nguy cơ

mắc SDD thấp còi của trẻ giảm với sự tăng trình độ học vấn của mẹ [59].

Nghiên cứu của Mazengia Amare Lisanu và cs (2018) trên 802 trẻ cho thấy

trình độ học vấn của mẹ là mù chữ có nguy cơ gây mắc SDD thấp còi cao gấp

1,81 lần (95%CI: 1,01 - 3,24) [65].

- Liên quan giữa tập quán, thói quen chăm sóc trẻ với SDD:

Yếu tố chăm sóc của mẹ đối với con liên quan đến SDD: việc cho trẻ ăn

quá sớm hoặc quá muộn và tỉ lệ nuôi con bằng các loại thức ăn theo tập quán

mà chúng có những hạn chế về giá trị dinh dưỡng phản ánh các tồn tại trong

thực hành nuôi dưỡng trẻ. Yếu tố chăm sóc của mẹ có liên quan đến văn hóa,

tập quán chăm sóc tại mỗi vùng miền, dân tộc. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá

riêng. Những quan niệm văn hoá, hành vi văn hoá, đặc biệt các hành vi văn hoá

tiêu dùng, văn hoá Y tế và văn hoá tín ngưỡng có thể ảnh hưởng tích cực hoặc

tiêu cực đến việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Có những phong tục có

lợi cho sức khoẻ và dinh dưỡng của phụ nữ và trẻ em như phong tục cho trẻ sơ

sinh bú sớm, bú kéo dài, nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương

có tập quán cho trẻ ăn sam sớm (trước 6 tháng tuổi) và cho trẻ cai sữa sớm

(trước 12 tháng tuổi). Thiếu sữa mẹ, bú sữa mẹ lần đầu sau 6 giờ, thời gian ăn

bổ sung trước 4 tháng, thời gian cai sữa trước 18 tháng… đều là những yếu tố

liên quan đến SDD của trẻ em.

+ Nuôi con bằng sữa mẹ

Sữa mẹ được chứng minh là nguồn dinh dưỡng cân bằng và đầy đủ nhất về

thành phần các chất dinh dưỡng, cũng thích hợp nhất cho ruột trẻ hấp thu và chuyển

hóa, nhất là trong 6 tháng đầu đời. Nghiên cứu tại Nepal (2017) cho thấy: trẻ không

được bú mẹ hoàn toàn có nguy cơ mắc SDD cao hơn cấp tính cao hơn 2,19 lần

(95%CI: 1,73 - 12,03) [69]. Nghiên cứu của Đoàn Thị Ánh Tuyết và cs (2012) thấy

có mối liên quan giữa thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn dưới 6 tháng với thể nhẹ

20

cân (OR=2,19,95%CI: 1,04-4,60) và thể gầy còm (OR=6,86, 95%CI: 1,28-36,68) và

giữa uống viên sắt khi mang thai với thể thấp còi (OR=1,58, 95%CI: 1,0-2,37) [38].

Nghiên cứu của Mahgoub Saha và cs (2006) ở Botswana cho thấy: tỉ lệ SDD nhẹ cân

ở trẻ bú mẹ hoàn toàn là 13,7%, ở nhóm trẻ bú sữa mẹ và sữa khác là 14,7% và ở

nhóm trẻ không bú sữa mẹ là 40,0% (p <0,01) [63]. Tương tự, ở Việt Nam, kết quả

nghiên cứu của Trần Thị Tuyết Mai tại Khánh Hòa, nhóm trẻ không bú sữa mẹ có tỉ

lệ SDD cao gấp 1,9 lần nhóm trẻ có bú sữa mẹ [25]; nghiên cứu của Trần Văn Điển

ở Hải Phòng: SDD ở nhóm trẻ không bú sữa mẹ cao hơn nhóm có bú sữa mẹ

(OR=1,4), ở nhóm cai sữa trước 12 tháng cao hơn ở nhóm cai sữa sau 12 tháng,

OR=1,9 [14]. Nghiên cứu của Nguyễn Anh Vũ (2017) cho thấy tỷ lệ các bà mẹ có

kiến thức đúngvề nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi là khá tốt, chiếm

80,8%. Tuy nhiên, thực tế chỉ có 12,2% tổng số bà mẹ trong diện nghiên cứu trả lời

họ đã thực hành cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Như vậy, có một tỷ lệ khá

lớn các bà mẹ đã không thể thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng

đầu theo như kiến thức mà họ biết [47].

+ Nuôi con ăn bổ sung

Thời gian bắt đầu ăn bổ sung theo khuyến cáo chung là khi trẻ tròn 6

tháng tuổi. Trong một bữa ăn bổ sung hợp lý cho trẻ, cần có sự phối hợp đầy

đủ giữa 4 nhóm thực phẩm theo một tỷ lệ cân đối: Protein/Lipit/Gluxit =1/1/4-

5 cùng rau, củ, quả và tập cho trẻ thích nghi dần với từng loại thức ăn mới theo

nguyên tắc từ ít đến nhiều; từ lỏng đến đặc [36]. Chất lượng bữa ăn có vai trò

rất quan trọng đối với phát triển thể chất trẻ em. Nghiên cứu của WHO cho thấy

những đứa trẻ bắt đầu ăn bổ sung thêm sữa hộp ngay trong tuần đầu, có nguy

cơ bị tiêu chảy cao gấp 3 lần và nguy cơ nhập viện cao gấp 5 lần so với trẻ chỉ

bú sữa mẹ; đối với trẻ cai sữa trong tuần đầu sau đẻ có nguy cơ bị tiêu chảy cao

gấp 5 lần và nguy cơ phải vào viện do tiêu chảy cao gấp 12 lần so với trẻ bình

thường [83]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Anh và cs thấy trẻ ăn bổ sung

không hợp lý có nguy cơ SDD tăng 2,7 - 4,0 lần [1]. Nghiên cứu của Lê Phán

21

cho kết quả có đến 68,8% trẻ ăn bổ sung trước 4 tháng tuổi bị SDD và 59,8%

trẻ SDD do ăn không đủ 4 nhóm thực phẩm hàng ngày [28]. Đã có nhiều nghiên

cứu khẳng định hậu quả của ăn bổ sung sớm đến tình trạng SDD, bệnh tật trẻ

em. Thực tế, bà mẹ cho con ăn bổ sung sớm là hiện trạng chung của nước ta.

Tình hình ăn bổ sung sớm ở các khu vực của Việt Nam khoảng từ 30,0% đến

70,0% trong báo cáo của Lê Danh Tuyên và cs [37]. Nghiên cứu của Hoàng

Khải Lập và cs tại Thái Nguyên thấy 62,6% bữa ăn bổ sung của trẻ chưa đủ 4

nhóm dinh dưỡng làm tăng nguy cơ SDD gấp 2,3 lần [23].

+ Cách chăm sóc trẻ

Nếu như việc cung cấp chất dinh dưỡng đóng vai trò quyết định trong

việc phát triển thể chất trẻ em, thì cách chăm sóc trẻ quyết định sự phát triển

tinh thần và góp phần rất quan trọng vào việc đảm bảo phát triển thể chất trẻ

em toàn diện. Trẻ em cần được chăm sóc chu đáo về vệ sinh; tiêm chủng mở

rộng; theo dõi tăng trưởng; tình thương yêu; học hành và được chăm sóc dinh

dưỡng đúng cách khi ốm như tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp...

- Liên quan giữa trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn với SDD:

Trẻ nhỏ thường ăn không đủ số lượng, không cân đối, hơn nữa trẻ cũng

tiếp xúc nhiều với môi trường nên dễ nhiễm khuẩn. Nếu trẻ bị nhiễm khuẩn, trẻ

lại sẽ tăng nguy cơ bị SDD. Nghiên cứu cho thấy, trẻ bị ốm trong thời gian khảo

sát sẽ có nguy cơ bị SDD thể nhẹ cân cao hơn 4,2 lần (95%CI: 2,3 - 7,6, p <

0,05) [60]. Nghiên cứu mô tả cắt ngang của Sulaiman A.A và cs (2018) trên

1635 trẻ tại miền Bắc Sudan cho kết quả: trẻ bị nhiễm khuẩn (triệu chứng bệnh

đường ruột và đường hô hấp) và không tiêm vắc xin đầy đủ có liên quan với

SDD thể gầy còm (p = 0,007, p = 0,013 và p = 0,008) [72]. Nghiên cứu của

Abera Lamirot trên 398 trẻ từ 6 - 59 tháng tuổi cho kết quả: trẻ bị tiêu chảy có

nguy cơ mắc SDD thể gầy còm cao hơn 39,5 lần so với trẻ bình thường (95%CI:

13,68 - 114,30) [50]. Nghiên cứu bệnh chứng trên 137 trẻ SDD và 137 trẻ bình

thường của Wong Hui Jie và cs (2014) thấy trẻ nhiễm giun có nguy cơ mắc

22

SDD cao hơn 3,48 lần (95CI: 1,25 - 9,70) [82]. Nghiên cứu của Ansuya và cs

(2018) trên 570 trẻ cho kêt quả: trẻ tái phát tiêu chảy có nguy cơ mắc SDD cao

hơn 2,74 lần (95%CI: 1,56 - 4,82, p = 0,001); tái phát ho và cảm lạnh có nguy

cơ mắc SDD cao hơn 3,88 lần (95%CI: 1,96 - 7,67, p = 0,001); trẻ biếng ăn có

nguy cơ mắc SDD cao hơn 4,9 lần (95%CI: 3,03 - 7,93, p = 0,001); trẻ nhiễm

giun có nguy cơ mắc SDD cao hơn 2,0 lần (95%CI: 1,19 - 3,38, p = 0,009) [53].

Nghiên cứu của Mazengia A.L. và cs (2018) cho kết quả trẻ được tiêm chủng

không đầy đủ có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao hơn 5,6 lần (95%CI; 2,90 -

10,82) [65]. Kết quả nghiên cứu của Đặng Văn Nghiêm cho thấy: những trẻ

hay mắc các bệnh đường hô hấp có nguy cơ SDD cao hơn nhóm trẻ khỏe 2,88

lần, nhóm trẻ hay mắc các bệnh tiêu chảy có nguy cơ SDD cao hơn nhóm trẻ

khỏe 3,89 lần [27]. Báo cáo nghiên cứu của Đinh Đạo cho kết quả: nhiễm khuẩn

hô hấp cấp có liên quan đến tình trạng SDD trẻ em [13].

- Liên quan giữa dịch vụ chăm sóc y tế và môi trường với SDD:

Tình trạng dịch vụ chăm sóc y tế và vệ sinh môi trường kém - nguyên

nhân tiềm tàng của SDD cũng là vấn đề tồn tại lớn ở Việt Nam. Do tình hình

sử dụng nước sạch và công trình vệ sinh ở nhiều nơi, đặc biệt là ở vùng nông

thôn và miền núi còn bị hạn chế nên việc chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ

em chưa được đảm bảo. Không những thế,dịch vụ y tế ở địa phương còn kém

chất lượng và chưa được phát triển nhiều. Các trang thiết bị cho cơ sở y tế còn

nghèo nàn, không được cung cấp một cách có hệ thống và đã ở vào tình trạng

hư hỏng. Với thực trạng chăm sóc y tế và môi trường còn nhiều bất cập như

vậy thì việc chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Kết

quả nghiên cứu của Hoàng Thị Huế (2010) khi nhận xét nhân lực của chương

trình phòng chống suy dinh dưỡng (PCSDD) thấy nhân lực còn thiếu và đã có

tuổi nên ít cập nhật kiến thức [20]. Thực tế, SDD có thể giảm nhờ các can thiệp

tác động vào những giai đoạn quan trọng của vòng đời đối với bà mẹ khi mang

23

thai và khi cho con bú, với trẻ trong giai đoạn sơ sinh và 2 năm đầu đời. Nếu

được triển khai trên diện rộng và hiệu quả, các can thiệp quan trọng này có thể

cải thiện được tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em, bao gồm cả trẻ SDD

thấp còi, giảm gánh nặng bệnh tật và tử vong ở trẻ [55], [80]. Kết quả nghiên

cứu của Nguyễn Văn Bằng (2018) thấy các yếu tố ảnh hưởng đến chương trình

PCSDD trẻ em tại huyện Bắc Mê: Nhân lực y tế phụ trách chương trình thiếu

về số lượng và yếu về chất lượng; cán bộ phụ trách chương trình PCSDD không

được tập huấn, chất lượng tập huấn thấp; hoạt động của chương trình tại TYT

xã không có kinh phí; thiếu trang thiết bị; kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ,

truyền thông PCSDD chưa đảm bảo chất lượng, sự tham gia của Ban chỉ đạo

chăm sóc sức khỏe xã ít sát sao [2]. Khi hoạt động chương trình PCSDD không

tốt sẽ ảnh hưởng đến tỉ lệ SDD trên địa bàn.

Việc sử dụng hố xí hợp vệ sinh và nguồn nước hợp vệ sinh có liên quan

trực tiếp đến sức khỏe và bệnh tật của các thành viên trong gia đình vì hầu hết

các bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng được lây qua đường tiêu hóa. Việc không

sử dụng hố xí hoặc hố xí không hợp vệ sinh sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh lý

và ảnh hưởng đến dinh dưỡng của trẻ. Nghiên cứu của Bùi Xuân Minh và cs

(2015) cho kết quả: sử dụng hố xí có liên quan đến SDD thấp còi với p = 0,015;

nguồn nước hợp vệ sinh không liên quan với SDD thấp còi với p = 0,326 [26].

1.4. Một số đặc điểm kinh tế, xã hội của người Mông

Người Mông hiện nay có số dân gần 1,1 triệu người, phân ra các ngành

Mông như Xanh, Đỏ, Đen, Trắng, Hoa, Nà Miẻo... Người Mông cư trú trên các

vùng núi phía Bắc như Lai Châu, Điện Biên, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai,

Yên Bái... trong đó người Mông ở Hà Giang chiếm số lượng lớn. Người Mông

ở Hà Giang chiếm 31,9% dân số toàn tỉnh và 21,7% tổng số người Mông tại

Việt Nam. Người Mông có một số phong tục tập quán chủ yếu sau:

Nhà ở: Người Mông thường sống trong những căn nhà lá vách nứa hoặc

24

gỗ đẽo, đồ đạc tiện nghi nghèo nàn phù hợp với tập quán di cư di canh của họ.

Bản làng của người Mông ở rải rác 3 - 5 nhà trên các sườn núi cao. Ngô là cây

lương thực chủ yếu của người Mông. Thu nhập thấp, trình độ văn hoá xã hội

của người Mông nhìn chung còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến

nhận thức của họ về chăm sóc sức khỏe.

Kiêng kỵ ở bản: Những ngày trong bản có cúng thần, cúng tổ tiên thì

ngay đầu đường vào bản thường cắm lá xanh… khi ấy, người lạ không được

vào, chỉ có người cùng dòng họ mới được vào nhà.

Tiếp khách ăn cơm uống rượu: Người Mông tiếp cơm khách ở bàn thấp

đặt ngay giữa nhà thuộc gian giữa, gần nơi thờ tổ tiên. Dãy ghế đặt phía đầu

bàn, nơi ngồi quay lưng về phía bàn thờ chỉ dành cho khách quý hoặc gia chủ.

Khi ăn uống, ta phải chờ chủ nhà mời, chủ nhà cầm chén rượu hay bát rượu

mời, khách mới được cầm lên và chúc tụng cùng với lời cảm tạ ngắn gọn.

Quan hệ với gia chủ: Cần thận trọng và kiên nhẫn, đừng tự tiện sờ vào

đầu người lớn và trẻ em Mông vì đỉnh đầu là nơi trú ngụ của hồn, vía.

Quan hệ với phụ nữ: Phụ nữ Mông coi trọng sự tế nhị, kín đáo, lịch sự

trong giao tiếp. Phụ nữ Mông có tình yêu đằm thắm, thủy chung, tin yêu người

mình yêu. Khi tình yêu đổ vỡ, niềm tin bị lợi dụng, người phụ nữ Mông sẵn

sàng ăn lá ngón tự tử, nhảy xuống sông suối tự vẫn.

Sinh đẻ: Trước kia người Mông đẻ ở rừng còn ngày nay chủ yếu đẻ ở

nhà. Quan điểm người Mông về sinh đẻ là bình thường, chết đứa này thì đẻ đứa

khác. Khi trong nhà có người ở cữ, gia đình kiêng một tháng. Gia chủ thường

cắm lá xanh ngoài cửa ra vào nhà. Nếu gia chủ đồng ý cho khách vào nhà, phải

cởi bỏ dép ra ngoài, chỉ đi chân đất vào nhà. Khi tròn tháng, người Mông làm

lễ đặt tên rất long trọng cho con và liên hoan vui vẻ.

Vệ sinh môi trường: Chăn thả các loại gia súc gia cầm tự do, không sử

dụng hố xí là tập quán lâu đời của dân tộc Mông... điều này làm cho nguồn

nước ăn hay bị ô nhiễm. Người Mông chưa có thói quen rửa tay trước khi ăn

25

và sau khi đi đại tiểu tiện, thậm chí còn uống nước lã... đều ảnh hưởng không

nhỏ đến sức khỏe của người dân.

26

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

- Trẻ em người dân tộc Mông từ 0 đến <60 tháng tuổi

- Người mẹ của trẻ hoặc người chăm sóc trẻ từ 0 đến <60 tháng tuổi

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.2.1. Địa điểm nghiên cứu:

2 xã Cán Tỷ và Lùng Tám thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang

2.2.2. Thời gian nghiên cứu: Tháng 7/2018 đến tháng 5/2019.

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu mô tả, thiết kế cắt ngang

2.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

- Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả [18], [62]:

Trong đó :

n: số trẻ dưới 5 tuổi cần điều tra

Z1-α/2: hệ số giới hạn tin cậy, chọn α = 0,05 tương ứng với Z1-α/2 = 1,96

p: lấy p = 0,28 (Nghiên cứu của Trần Thị Thanh (2016) thấy tỉ lệ SDD

trẻ em dưới 5 tuổi huyện Cư Kuin tỉnh Đăk Lăk ở thể thấp còi 28,0% [30]).

d: độ chính xác mong muốn, chọn d = 0,03

Thay vào công thức ta tính được cỡ mẫu là 861 trẻ; thực tế điều tra được

930 trẻ dưới 5 tuổi trong thời gian nghiên cứu.

- Phương pháp chọn mẫu: (1) Chọn xã: chọn chủ đích 2 xã Cán Tỷ và

Lùng Tám thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. (2) Chọn đối tượng nghiên

cứu: lập danh sách trẻ người dân tộc Mông dưới 5 tuổi tại 2 xã nghiên cứu. Tại

27

xã Cán Tỷ năm 2018 có 497 trẻ em dân tộc Mông dưới 5 tuổi. Tại xã Lùng Tám

có 528 trẻ em dân tộc Mông dưới 5 tuổi. Tại mỗi xã, áp dụng phương pháp

chọn mẫu ngẫu nhiên đơn để chọn ra đủ 431 trẻ người dân tộc Mông dưới 5

tuổi tại xã nghiên cứu. Thực tế đã điều tra được 930 trẻ tại 2 xã trong thời gian

nghiên cứu.

2.4. Chỉ số nghiên cứu

2.4.1. Chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 1: Thực trạng SDD thấp còi

* Chỉ số về đặc điểm trẻ dưới 5 tuổi người dân tộc Mông

- Phân bố tỉ lệ trẻ tham gia nghiên cứu theo nhóm tuổi, theo tuổi thai khi

đẻ, theo tiền sử cuộc đẻ, theo tình trạng uống sữa ngoài, theo thời gian bắt đầu

ăn sam và theo đặc điểm mắc bệnh nhiễm khuẩn

- Phân bố tỉ lệ trẻ tham gia nghiên cứu theo giới tính

- Phân bố tỉ lệ trẻ tham gia nghiên cứu theo thời gian cai sữa

- Phân bố trẻ tham gia nghiên cứu theo nhóm tuổi và giới

* Chỉ số về đặc điểm người chăm sóc trẻ và mẹ trẻ tham gia

- Phân bố tỉ lệ bà mẹ tham gia nghiên cứu theo nhóm tuổi, theo số con

hiện có, theo tình trạng sữa mẹ

- Phân bố tỉ lệ bà mẹ và bố của trẻ tham gia nghiên cứu theo

nghề nghiệp

- Phân bố tỉ lệ bà mẹ và bố của trẻ tham gia nghiên cứu theo học vấn

* Thực trạng SDD trẻ em dưới 5 tuổi

- Tỉ lệ SDD theo thể thấp còi, nhẹ cân, gầy còm và SDD chung

- Tỉ lệ SDD thấp còi theo mức độ

- Tỉ lệ SDD thấp còi theo giới

- Tỉ lệ SDD thấp còi theo xã

- Tỉ lệ SDD thấp còi theo tháng tuổi của trẻ

- Tỉ lệ SDD thấp còi theo tuổi thai khi đẻ

- Tỉ lệ SDD thấp còi theo tuổi mẹ

28

- Tỉ lệ SDD thấp còi theo kinh tế hộ gia đình

2.4.2. Chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 2: Yếu tố liên quan với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa kinh tế gia đình đối với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa nghề nghiệp mẹ đối với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa nghề nghiệp bố đối với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa trình độ học vấn của mẹ với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa tuổi kết hôn lần đầu của mẹ với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa mẹ kết hôn cận huyết với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa tăng cân của mẹ trong thai kì với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa số con hiện có của mẹ với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa thời điểm bú sữa mẹ sau đẻ với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa thời điểm ăn bổ sung với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa thời gian cai sữa trẻ với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa giới tính của trẻ với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa cân nặng sơ sinh của trẻ với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa tiền sử thường xuyên mắc bệnh với SDD thấp còi

- Mối liên quan giữa tình trạng tiêm chủng với SDD thấp còi

2.5. Tiêu chuẩn đánh giá một số biến số nghiên cứu

2.5.1. Xác định tuổi: Theo qui ước chung của WHO năm 1983 hiện đang được

sử dụng tại Việt Nam.

Từ sơ sinh đến 11 tháng 29 ngày (tức là năm thứ nhất) gọi là 0 tuổi hay

dưới 1 tuổi (< 12 tháng).

1 tuổi tức là năm thứ 2, gồm các tháng tuổi từ 12 đến 23 tháng tuổi

2 tuổi tức là năm thứ 3, gồm các tháng tuổi từ 24 đến 35 tháng tuổi

3 tuổi tức là năm thứ 4, gồm các tháng tuổi từ 36 đến 47 tháng tuổi

4 tuổi tức là năm thứ 5, gồm các tháng tuổi từ 48 đến 59 tháng tuổi

Trẻ dưới 5 tuổi tức trẻ từ 0 - <60 tháng tuổi

29

2.5.2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ: được đánh giá dựa vào các chỉ tiêu

cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao so với

chuẩn tăng trưởng mới của WHO, ngưỡng SD là < -2SD với các mức độ như

sau:

Bảng 2.1. Ngưỡng đánh giá mức độ SDD trẻ em dưới 5 tuổi

Phân loại SDD Z-score

Bình thường -2SD đến 2SD

Độ I (mức độ vừa) < -2SD đến -3SD

Độ II (mức độ nặng) < -3SD

2.5.3. Kinh tế hộ gia đình

Hộ nghèo khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu

người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống. Hộ cận nghèo khu vực nông thôn

là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000

đồng. Hộ có mức sống trung bình khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân

đầu người/tháng trên 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng [33].

2.5.4. Thực hành về chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ

- Số lần khám thai: khám thai đúng: theo Chuẩn Quốc gia về chăm sóc

sức khỏe sinh sản: khám 3 lần tại 3 thời điểm của thai kỳ (3 tháng đầu, 3 tháng

giữa và 3 tháng cuối thai kỳ) [5].

- Tăng trọng lượng cơ thể khi mang thai: tăng đủ khi tăng từ 10 – 12kg

trong thai kỳ [5].

- Thực hành cho trẻ bú sớm: bú trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh [5].

- Thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn: trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong

vòng 6 tháng đầu mà không ăn hay uống bất kỳ đò ăn thức uống nào khác [7].

- Ăn bổ sung (thời điểm ăn, số bữa, nhóm thực phẩm cho ăn bổ sung):

bắt đầu từ khi trẻ tròn 6 tháng, ngoài sữa mẹ trẻ được ăn bổ sung đủ 4 nhóm

thực phẩm cơ bản: chất bột, chất đạm, chất béo và vitamin, muối khoáng [7].

30

- Bệnh tật: Tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp cấp, chăm sóc khi trẻ bị bệnh.

Tiêu chảy: Trẻ được coi là tiêu chảy khi ngày trẻ đi ngoài phân loãng hoặc có

máu từ 3 lần trở lên. Các biểu hiện đó hết trong hai ngày liên tục thì coi như

chấm dứt một đợt tiêu chảy (theo IMCI). Nhiễm khuẩn hô hấp cấp: Trẻ được

coi là nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp khi trẻ có các biểu hiện ho, sốt, viêm long

đường hô hấp trên. Nếu các biểu hiện đó hết trong 2 ngày liên tục thì được coi

như chấm dứt một đợt nhiễm khuẩn hô hấp (theo IMCI).

2.5.5. Một số khái niệm về kết hôn

- Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: Tảo hôn được xem là việc

kết hôn khi một hoặc cả hai người chưa đến tuổi kết hôn tối thiểu, tức 18 tuổi

đối với nữ và 20 tuổi đối với nam.

- Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: Kết hôn cận huyết là kết

hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về

trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với

con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với

con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con

riêng của chồng.

2.6. Phương pháp thu thập số liệu

2.6.1. Đo chỉ số nhân trắc

- Cân nặng: Sử dụng cân Tanita của Nhật Bản, có độ chính xác 0,1 kg.

Cân đã được kiểm tra, chuẩn hoá, chỉnh về 0 trước khi tiến hành nghiên cứu và

luôn điều chỉnh sau mỗi lần cân. Khi cân trẻ chỉ mặc bộ quần áo mỏng, bỏ giầy

dép. Kết quả được ghi theo đơn vị kilogram với 1 số lẻ.

- Chiều cao: Đo chiều cao đứng (đối với trẻ trên 2 tuổi) bằng thước gỗ có

độ chính xác 0,1 cm. trẻ đi chân không, đứng quay lưng vào thước đo. Người

thứ nhất giữ cho 2 đầu gối trẻ thẳng, 2 chân sát nhau sao cho gót chân, mông,

vai và đỉnh chẩm chạm vào mặt phẳng thẳng đứng của thước. Người thứ 2 một

31

tay giữ cằm trẻ sao cho tầm mắt trẻ nhìn thẳng ra phía trước, tay kia kéo ê-ke

của thước áp sát đỉnh đầu trẻ và vuông góc với thước do.

Đo chiều cao nằm của trẻ (đối với trẻ từ 2 tuổi trở xuống): để trẻ nằm ngửa

trên một thước đo gỗ, đầu chạm sát một cạnh của thước đo. Một người giữ đầu

trẻ thẳng, mắt nhìn lên trần nhà, một người giữ 2 đầu gối trẻ thẳng và đưa mảnh

gỗ áp sát 2 gót bàn chân, bàn chân thẳng đứng.

Đọc kết quả và ghi số centimet, kết quả được tính theo đơn vị centimet với

một chữ số thập phân.

2.6.2. Phỏng vấn

Tiến hành phỏng vấn trực tiếp bà mẹ hoặc người nuôi dưỡng trẻ theo mẫu

phiếu điều tra.

2.7. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu

- Số liệu về cân nặng, ngày sinh, địa chỉ, ngày khám của trẻ được nhập

liệu, tính toán các chỉ số nhân trắc với cơ sở dữ liệu là chuẩn tăng trưởng mới

của WHO bằng phần mềm WHO Anthro Plus 2010.

- Số liệu về SDD được nhập vào phần mềm SPSS 22.0, được xử lý và

phân tích theo các thuật toán thống kê y sinh học.

- Thống kê mô tả: mô tả số lượng (SL) và tỉ lệ (%) đối với biến định tính;

mô tả giá trị trung bình X ± độ lệch chuẩn (SD) với biến định lượng.

- Thống kê phân tích: đánh giá mối liên quan bằng Chi-square test. Mối

liên quan có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

2.8. Đạo đức trong nghiên cứu

Tất cả các bà mẹ và người chăm sóc trẻ tham gia vào nghiên cứu hoàn

toàn mang tính tự nguyện và chỉ tiến hành nghiên cứu trên những trẻ mà bố mẹ trẻ

đồng ý và ký vào bản cam kết tham gia nghiên cứu.

Quá trình nghiên cứu không làm ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng

của trẻ, đối với những trẻ suy dinh dưỡng sẽ được tư vấn điều trị.

32

Số liệu thu thập được sẽ chỉ dùng cho nghiên cứu này, không dùng cho

bất kỳ mục đích nào khác.

Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng đạo đức của Trường Đại học Y

Dược Thái Nguyên năm 2018.

33

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân

tộc Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018

Bảng 3.1. Thông tin chung về trẻ dưới 5 tuổi tham gia nghiên cứu

Chỉ số

Tháng tuổi

SL 133 219 201 197 180 % 14,3 23,5 21,6 21,2 19,4

32,2 ± 16,0

Giới tính

Tuổi thai khi đẻ

Tiền sử cuộc đẻ

Trẻ được uống sữa ngoài

Thời gian trẻ bắt đầu ăn bổ sung

Thời gian cai sữa

< 12 tháng 12 - 23 tháng 24 - 35 tháng 36 - 47 tháng 48 - 59 tháng X ± SD Nam Nữ Đủ tháng (≥ 37 tuần) Thiếu tháng (< 37 tuần) Đẻ thường Đẻ mổ không tai biến Không/hiếm khi Thỉnh thoảng (cách ngày) Thường xuyên (hàng ngày) < 5 tháng 5 - 6 tháng > 6 tháng < 12 tháng 12 - 18 tháng 19 - 24 tháng > 24 tháng Chưa cai sữa Không mắc Có mắc (≤ 5 lần/năm)

Số trẻ mắc tiêu chảy hoặc nhiễm khuẩn HH Tổng 491 439 917 13 884 46 564 325 41 291 567 72 70 403 378 2 77 238 692 930 52,8 47,2 98,6 1,4 95,1 4,9 60,6 34,9 4,4 31,3 61,0 7,7 7,5 43,3 40,6 0,2 8,3 25,6 74,4 100,0

34

Nhận xét:

- Tuổi trung bình của trẻ tham gia nghiên cứu là 32,2 ± 16,0 tháng tuổi.

Tỉ lệ trẻ sinh đủ tháng (≥ 37 tuần) là 98,6%. Hầu hết trẻ được đẻ thường, chiếm

tỉ lệ 95,1%. Thời gian trẻ bắt đầu ăn sam từ 5 - 6 tháng chiếm tỉ lệ cao nhất

61,0%. Trẻ không/hiếm khi uống sữa ngoài chiếm tỉ lệ 60,6%.

- Tỉ lệ trẻ có mắc tiêu chảy hoặc nhiễm khuẩn hô hấp cấp chiếm 74,4%.

Tỉ lệ trẻ nam tham gia nghiên cứu là 52,8%, tỉ lệ trẻ nữ là 47,2%.

- Số trẻ có thời gian cai sữa từ 12 - 18 tháng chiếm tỉ lệ cao nhất 43,3%.

Tiếp đó là trẻ có thời gian cai sữa từ 19 - 24 tháng chiếm tỉ lệ cao nhất 40,6%.

Tỉ lệ trẻ có thời gian cai sữa < 12 tháng là 7,5%. Tỉ lệ trẻ có thời gian cai sữa >

24 tháng là 0,2%. Tỉ lệ trẻ chưa cai sữa là 8,3%.

23.8

23.2

23.2

25

22.3

21

20

19.3

18.7

20

15.9

15

12.5

10

5

0

< 12 tháng

12 - 23 tháng 24 - 35 tháng 36 - 47 tháng 48 - 59 tháng

Nam Nữ

Biểu đồ 3.1. Phân bố trẻ em dưới 5 tuổi theo nhóm tuổi và giới

Nhận xét: Nhóm tuổi của đối tượng điều tra 12 - 23 tháng tuổi chiếm tỉ

lệ cao nhất 23,5%. Ở trẻ nam, trẻ 12 - 23 tháng tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất 23,8%.

Ở trẻ nữ, trẻ 12 - 23 tháng tuổi và 37 - 48 tháng tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất 23,2%.

Bảng 3.2. Thông tin chung về các bà mẹ tham gia nghiên cứu

35

Chỉ số SL %

15 - 19 tuổi 11 1,2

20 - 24 tuổi 147 15,8

25 - 29 tuổi 648 69,7 Nhóm tuổi 30 - 34 tuổi 118 12,7

≥ 35 tuổi 6 0,6

27,4 ± 15,0 X ± SD

1 con 240 25,8

2 con 632 68,0 Số con hiện có

> 2 con 58 6,2

813 87,4 Đủ Mẹ có đủ sữa

cho trẻ bú không 117 12,6 Thiếu

Nông dân 681 73,2

Công nhân 42 4,5 Nghề nghiệp mẹ Cán bộ viên chức 19 2,0

Khác (kinh doanh, làm thuê) 188 20,3

Nông dân 488 52,5

Công nhân 73 7,8 Nghề nghiệp bố Cán bộ viên chức 27 2,9

Khác (kinh doanh, làm thuê) 342 36,8

Tiểu học trở xuống 143 15,4 Trình độ học vấn Trung học cơ sở 495 53,2 mẹ THPT trở lên 292 31,4

Tiểu học trở xuống 68 7,3 Trình độ học vấn Trung học cơ sở 445 47,8 bố THPT trở lên 417 44,8

Tổng 930 100,0

Nhận xét:

36

- Nhóm tuổi các bà mẹ từ 25 - 29 tuổi chiếm tỉ lệ 69,7%. Tuổi trung bình

của mẹ là 27,4 ± 15,0 tuổi. Phần các bà mẹ có 2 con chiếm tỉ lệ 68,0%, tỉ lệ bà

mẹ có > 2 con là 6,2%. Phần lớn các bà mẹ có đủ sữa cho con 87,4%.

- Tỉ lệ mẹ và bố có nghề nghiệp là nông dân chiếm 73,2% và 52,5%.

Nghề nghiệp tự do, làm thuê ở mẹ trẻ là 20,3%; ở bố trẻ là 36,8%.

- Tỉ lệ có trình độ học vấn THCS ở mẹ trẻ là 53,2%; ở bố trẻ là 47,8%. Tỉ

lệ có trình độ học vấn ≥ THPT ở mẹ trẻ là 31,4%; ở bố trẻ là 44,8%.

Bảng 3.3. Tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi theo thể

Thể SDD Số trẻ điều tra SL %

419 45,1 930 Thấp còi (H/A)

224 24,1 930 Nhẹ cân (W/A)

76 8,2 930 Gầy còm (W/H)

Nhận xét:

Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi SDD thấp còi chiếm cao nhất 45,1%; SDD nhẹ

cân chiếm 24,1% và SDD gầy còm 8,2%. Tỉ lệ trẻ bị SDD chung 50,4%.

Bảng 3.4. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo mức độ

Mức độ SDD Số trẻ điều tra SL %

239 25,7 930 Mức độ vừa

180 19,4 930 Mức độ nặng

930 419 45,1 Tổng

Nhận xét:

Tỉ lệ trẻ SDD thấp còi mức độ vừa là 25,7%. Tỉ lệ trẻ SDD thấp còi mức

độ nặng là 19,4%.

37

Bảng 3.5. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo giới

Giới Tổng số trẻ SL % p

491 233 47,5 Nam 0,120 439 186 42,4 Nữ

930 419 45,1 Tổng

Nhận xét:

Tỉ lệ trẻ nam SDD thấp còi là 47,5%; nữ SDD thấp còi là 42,4%.

Bảng 3.6. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo xã

Xã Tổng số trẻ SL % p

464 203 43,8 Lùng Tám 0,425 466 216 46,4 Cán Tỷ

930 419 45,1 Tổng

Nhận xét:

Tỉ lệ trẻ SDD thấp còi ở xã Lùng Tám là 43,8%; Cán Tỷ là 46,4.

Bảng 3.7. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi theo tháng tuổi của trẻ

SL % Tháng tuổi Tổng số trẻ p

133 52 39,1 < 12 tháng

219 70 32,0 12 - 23 tháng

201 85 42,3 < 0,001 24 - 35 tháng

197 99 50,3 36 - 47 tháng

180 113 62,8 48 - 59 tháng

930 419 45,1 Tổng

Nhận xét:

Trẻ từ 48 - 59 tháng bị SDD thấp còi chiếm tỉ lệ cao nhất 62,8%; trẻ từ

12 - 23 tháng SDD thấp còi chiếm tỉ thấp nhất 32,0%.

38

Bảng 3.8. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi theo tuổi thai khi đẻ

p

0,963

Tuổi thai khi đẻ Đủ tháng (≥ 37 tuần) Thiếu tháng (< 37 tuần) Tổng Tổng số trẻ 917 13 930 SL 413 6 419 % 45,0 46,2 45,1

Nhận xét:

Tỉ lệ trẻ đủ tháng bị SDD thấp còi là 45,0%; trẻ thiếu tháng là 46,2%.

Bảng 3.9. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi theo tuổi mẹ/tổng số con

Tuổi mẹ Tổng số mẹ Tổng số con SL %

12 15 - 19 tuổi 11 6 50,0

185 20 - 24 tuổi 147 86 46,5

1197 25 - 29 tuổi 648 258 21,6

273 30 - 34 tuổi 118 63 23,1

17 ≥ 35 tuổi 6 6 35,3

1684 Tổng 930 419 24,9

Nhận xét:

Mẹ có độ tuổi 15 - 19 tuổi có con bị SDD thấp còi chiếm tỉ lệ 50,0%. Mẹ

có độ tuổi 20 - 24 tuổi có con bị SDD thấp còi chiếm 46,5%; độ tuổi 25 - 29

tuổi có con bị SDD thấp còi 21,6% và ≥ 35 có con bị SDD thấp còi 35,3%.

Bảng 3.10. Tỉ lệ SDD thấp còi theo kinh tế hộ gia đình

Kinh tế

Hộ đủ ăn Hộ cận nghèo Hộ nghèo

% 42,0 46,1 50,4 45,1 Tổng số hộ 524 128 278 930 SL 220 59 140 419

Tổng Nhận xét:

Hộ gia đình có kinh tế đủ ăn có con bị SDD thấp còi chiếm 42,0%; hộ

cận nghèo có con bị SDD thấp còi là 46,1% và hộ nghèo là 50,4%.

39

3.2. Một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5

tuổi người dân tộc Mông

Bảng 3.11. Liên quan giữa kinh tế gia đình với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Kinh tế SL % SL % SL %

Nghèo 140 50,4 138 49,6 278 100,0

Không nghèo 279 42,8 373 57,2 652 100,0

Tổng 419 45,1 511 54,9 930 100,0

χ2 = 4,510, p = 0,034 χ2, p

Nhận xét:

Trẻ thuộc hộ nghèo thì có tỉ lệ SDD thấp còi (50,4%) cao hơn hộ không

nghèo (42,8%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kinh tế hộ gia đình

với SDD thấp còi (p < 0,05).

Bảng 3.12. Liên quan giữa nghề nghiệp mẹ với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Nghề nghiệp mẹ SL SL % % SL %

368 313 46,0 54,0 Nông dân 681 100,0

143 106 42,6 57,4 Nghề khác 249 100,0

511 419 45,1 54,9 930 100,0 Tổng

χ2 = 0,847, p = 0,357 χ2, p

Nhận xét:

Tỉ lệ mẹ là nông dân có trẻ bị SDD thấp còi là 46,0%, cao hơn so với mẹ

làm nghề khác (42,6%). Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với

p > 0,05.

40

Bảng 3.13. Liên quan giữa nghề nghiệp bố với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Nghề nghiệp bố SL % SL % SL %

Nông dân 242 49,6 246 50,4 488 100,0

Nghề khác 177 40,0 265 60,0 442 100,0

Tổng 419 45,1 511 54,9 930 100,0

χ2 = 8,536, p = 0,003 χ2, p

Nhận xét:

Tỉ lệ bố là nông dân có trẻ bị SDD thấp còi là 49,6%, cao hơn so với bố

làm nghề khác (40,0%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nghề nghiệp

của bố với SDD thấp còi của trẻ (p < 0,05).

Bảng 3.14. Liên quan giữa trình độ học vấn của mẹ với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Học vấn mẹ SL % % SL % SL

302 47,3 52,7 ≤ THCS 336 638 100,0

117 40,1 59,9 ≥ THPT 175 292 100,0

419 45,1 54,9 930 100,0 Tổng 511

χ2 = 8,536, p = 0,003 χ2, p

Nhận xét:

Tỉ lệ mẹ có trình độ học vấn ≤ THCS có trẻ bị SDD thấp còi là 47,3%,

cao hơn so với mẹ có trình độ học vấn ≥ THPT (40,1%). Có mối liên quan giữa

trình độ học vấn của mẹ với SDD thấp còi của trẻ (p < 0,05).

41

Bảng 3.15. Liên quan giữa tuổi kết hôn lần đầu của mẹ với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Tuổi kết hôn SL % SL % SL %

< 18 163 49,4 167 50,6 330 100,0

≥ 18 256 42,7 344 57,3 600 100,0

Tổng 419 45,1 511 54,9 930 100,0

χ2 = 3,892, p = 0,049 χ2, p

Nhận xét:

Tỉ lệ mẹ kết hôn < 18 tuổi có trẻ bị SDD thấp còi là 49,4%, cao hơn so

với mẹ kết hôn ≥ 18 tuổi (42,7%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa

tuổi kết hôn của mẹ với SDD thấp còi của trẻ (p < 0,05).

Bảng 3.16. Liên quan giữa mẹ kết hôn cận huyết với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Kết hôn cận huyết SL % SL % SL %

6 100,0 0 0 Có 6 100,0

413 44,7 511 55,3 Không 924 100,0

419 45,1 511 54,9 930 100,0 Tổng

χ2 = 7,365, p = 0,008 χ2, p

Nhận xét:

Toàn bộ mẹ kết hôn cận huyết đều có con bị SDD thấp còi. Có mối liên

quan có ý nghĩa thống kê giữa mẹ kết hôn cận huyết với SDD thấp còi của trẻ

(p < 0,05).

42

Bảng 3.17. Liên quan giữa tăng cân của mẹ trong thai kì với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Mẹ tăng cân SL % SL % SL %

< 10 kg 74 53,2 65 46,8 139 100,0

≥ 10 kg 345 43,6 446 56,4 791 100,0

Tổng 419 45,1 511 54,9 930 100,0

χ2 = 4,421, p = 0,035 χ2, p

Nhận xét:

Tỉ lệ mẹ tăng < 10 kg có trẻ bị SDD thấp còi là 53,2%, cao hơn so với

mẹ tăng ≥ 10kg (43,6%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tăng cân

khi mang thai của mẹ với SDD thấp còi (p < 0,05).

Bảng 3.18. Liên quan giữa số con hiện có của bà mẹ với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Số con SL % SL % SL %

> 2 con 37 63,8 21 36,2 58 100,0

≤ 2 con 382 43,8 490 56,2 872 100,0

Tổng 419 45,1 511 54,9 930 100,0

χ2 = 8,775, p = 0,003 χ2, p

Nhận xét:

Tỉ lệ mẹ có > 2 con thì con bị SDD thấp còi là 63,8%, cao hơn so với mẹ

có ≤ 2 con (43,8%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa số con hiện có

của bà mẹ với SDD thấp còi của trẻ (p < 0,05).

43

Bảng 3.19. Liên quan giữa thời điểm bú sữa mẹ sau đẻ với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Bú sau đẻ SL % SL % SL %

Sau 12 - 24 giờ 105 51,2 100 48,8 205 100,0

Ngay sau đẻ 314 43,3 411 56,7 725 100,0

Tổng 419 45,1 511 54,9 930 100,0

χ2 = 4,038, p = 0,044 χ2, p

Nhận xét:

Trẻ bú sau đẻ 12 - 24 giờ bị SDD thấp còi cao 51,2%, cao hơn so với trẻ

được bú ngay sau đẻ (43,3%). Có mối liên quan giữa việc bú sau đẻ muộn với

SDD thấp còi ở trẻ (p < 0,05).

Bảng 3.20. Liên quan giữa thời điểm ăn bổ sung với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Thời điểm ăn sam SL % SL % SL %

≤ 6 tháng 388 45,2 470 54,8 858 100,0

> 6 tháng 31 43,1 41 56,9 72 100,0

Tổng 419 45,1 511 54,9 930 100,0

χ2 = 0,126, p = 0,723 χ2, p

Nhận xét:

Trẻ ăn sam trong vòng 6 tháng đầu trở lên có tỉ lệ SDD thấp còi 45,2%;

cao hơn so với trẻ ăn sam > 6 tháng (43,1%). Sự khác biệt không có ý nghĩa

thống kê với p > 0,05.

44

Bảng 3.21. Liên quan giữa thời gian cai sữa trẻ với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Thời gian cai sữa SL % SL % SL %

< 18 tháng 228 48,2 245 51,8 473 100,0

≥ 18 tháng 157 41,3 223 58,7 380 100,0

Tổng 385 45,1 468 54,9 853 100,0

χ2 = 4,036, p = 0,045 χ2, p

- Có 77 trẻ chưa cai sữa

- Chia ngưỡng “cut point” 18 vì chỉ có 02 trẻ được cai sữa 24 tháng

Nhận xét:

Trẻ cai sữa < 18 tháng bị SDD thấp còi là 48,2%; cao hơn trẻ cai sữa ≥

18 tháng (41,3%). Có mối liên quan giữa thời gian cai sữa sớm với SDD thấp

còi (p < 0,05).

Bảng 3.22. Liên quan giữa giới tính của trẻ với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Giới tính SL % SL % SL %

233 47,5 258 52,5 Nam 491 100,0

186 42,4 253 57,6 Nữ 439 100,0

419 45,1 511 54,9 930 100,0 Tổng

χ2 = 2,421, p = 0,12 χ2, p

Nhận xét:

Trẻ nam bị SDD thấp còi là 47,5%; cao hơn trẻ nữ (42,4%). Sự khác biệt

không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

45

Bảng 3.23. Liên quan giữa cân nặng sơ sinh của trẻ với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Cân nặng SL % SL % SL %

Nhẹ cân (< 2500g) 57 54,8 47 45,2 104 100,0

Bình thường (≥ 2500g) 362 43,8 464 56,2 826 100,0

419 45,1 511 54,9 930 100,0 Tổng

χ2 = 4,500, p = 0,034 χ2, p

Nhận xét:

Trẻ đẻ ra nhẹ cân bị SDD thấp còi là 54,8%; cao hơn trẻ đẻ ra có cân

nặng bình thường (43,8%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình

trạng nhẹ cân khi đẻ với SDD thấp còi (p < 0,05).

Bảng 3.24. Liên quan giữa trẻ thường xuyên mắc bệnh với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Tiền sử bệnh tật SL % SL % SL %

338 48,8 354 51,2 Có mắc bệnh 692 100,0

81 34,0 157 66,0 Không mắc bệnh 238 100,0

419 45,1 511 54,9 930 100,0 Tổng

χ2 = 15,691, p = 0,0001 χ2, p

Nhận xét:

Trẻ thường xuyên có mắc bệnh bị SDD thấp còi là 48,8%; cao hơn trẻ

không mắc bệnh (34,0%). Có mối liên quan giữa tiền sử mắc bệnh với SDD

thấp còi (p < 0,05).

46

Bảng 3.25. Liên quan giữa tình trạng tiêm chủng với SDD thấp còi

Có Không Tổng SDD thấp còi

Tiêm chủng SL % SL % SL %

Không đầy đủ 91 52,3 83 47,7 174 100,0

Đầy đủ, đúng lịch 328 43,4 428 56,6 756 100,0

Tổng 419 45,1 511 54,9 930 100,0

χ2 = 4,539, p = 0,033 χ2, p

Nhận xét:

Trẻ tiêm chủng không đầy đủ bị SDD thấp còi là 52,3%; cao hơn trẻ tiêm

chủng không đầy đủ, đúng lịch (35,1%). Có mối liên quan giữa tiêm chủng

không đầy đủ, đúng lịch với SDD thấp còi (p < 0,05).

47

Chương 4

BÀN LUẬN

4.1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân

tộc Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: tỉ lệ trẻ < 12 tháng tham gia

nghiên cứu là 14,3%; từ 12 - 23 tháng là 23,5%; từ 24 - 35 tháng tháng là

21,6%; từ 36 - 47 tháng là 21,2% và từ 48 - 59 tháng là 19,4%. Đây là điểm

thuận lợi cho nghiên cứu bởi tỉ lệ trẻ thuộc các nhóm tuổi tương đối đồng đều,

sẽ không dẫn đến các sai số phân bố trong quá trình phân tích. Tuổi trung bình

của trẻ tham gia nghiên cứu này là 32,2 ± 16,0 tháng tuổi. Kết quả tuổi của

chúng tôi thấp hơn so với kết quả của Trần Thị Thanh (2016) khi thấy nhóm

tuổi của trẻ < 12 tháng là 21,2%, từ 12 - 36 tháng là 47,4% và > 36 tháng là

31,4% [30]. Đây là sự khác biệt do mẫu nghiên cứu.

Bảng 3.1. trong nghiên cứu cũng cho thấy: Tỉ lệ trẻ sinh đủ tháng (≥ 37

tuần) là 98,6%. Hầu hết trẻ được đẻ thường, chiếm tỉ lệ 95,1%. Thời gian trẻ

bắt đầu ăn sam từ 5 - 6 tháng chiếm tỉ lệ cao nhất 61,0%. Số trẻ có thời gian cai

sữa từ 12 - 18 tháng chiếm tỉ lệ cao nhất 43,3%. Tiếp đó là trẻ có thời gian cai

sữa từ 19 - 24 tháng chiếm tỉ lệ cao nhất 40,6%. Tỉ lệ trẻ có thời gian cai sữa <

12 tháng là 7,5%. Tỉ lệ trẻ có thời gian cai sữa > 24 tháng là 0,2%. Tỉ lệ trẻ

chưa cai sữa là 8,3%. Trẻ không/hiếm khi uống sữa ngoài chiếm tỉ lệ 60,6%. Tỉ

lệ trẻ có mắc tiêu chảy hoặc nhiễm khuẩn hô hấp cấp chiếm 74,4%. So sánh với

nghiên cứu của Lương Thị Thu Hà (2008) tại Thái Nguyên thấy tỉ lệ trẻ được

ăn sam < 6 tháng là 12,1%, tỉ lệ trẻ cai sữa < 18 tháng là 21,9%, cai sữa từ 18 -

24 tháng 45,8% và cai sữa ≥ 24 tháng là 13,7% [16]. Như vậy các chỉ số liên

quan đến chế độ chăm sóc trẻ của chúng tôi chưa tốt như nghiên cứu của Lương

Thị Thu Hà. Lý giải điều này theo chúng tôi là do sự khác biệt về địa bàn nghiên

48

cứu. Bên cạnh đó các kết quả hầu hết trẻ được sinh đủ tháng và đẻ đường dưới

lại là những yếu tố thuận lợi cho hoạt động phát triển dinh dưỡng của trẻ trong

nghiên cứu của chúng tôi. Tuy nhiên, tỉ lệ trẻ bị mắc tiêu chảy hoặc nhiễm

khuẩn hô hấp cao là yếu tố cần lưu tâm trong hoạt động PCSDD cho trẻ thuộc

địa bàn nghiên cứu. Các yếu tố này sẽ được chúng tôi bàn luận kỹ hơn vào phần

các yếu tố liên quan với SDD thấp còi của nghiên cứu này.

Nhóm tuổi của đối tượng điều tra 12 - 23 tháng tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất

23,5%. Ở trẻ nam, trẻ 12 - 23 tháng tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất 23,8%. Ở trẻ nữ,

trẻ 12 - 23 tháng tuổi và 36 - 47 tháng tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất 23,2%. Giới tính

của trẻ là một trong những vấn đề còn bàn cãi trong việc có phải là yếu tố liên

quan với SDD của trẻ hay không. Nghiên cứu này của chúng tôi cho kết quả: tỉ

lệ trẻ nam tham gia nghiên cứu là 52,8%, tỉ lệ trẻ nữ là 47,2%. Với tỉ lệ nam nữ

tương đương trong nghiên cứu là yếu tố thuận lợi để xác định nguy cơ gây SDD

đối với giới tính của trẻ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đương

với nghiên cứu của Bùi Xuân Minh và cs (2015) khi cho tỉ lệ trẻ nam và trẻ nữ

tương đương nhau (trẻ nam 50,6% và trẻ nữ 49,4%) [26].

Một yếu tố cực kỳ then chốt ảnh hưởng đến sự phát triển cả về thể chất

và tinh thần của trẻ đó chính là bà mẹ. Đặc điểm của mẹ sẽ ảnh hưởng đến quá

trình chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ; giúp trẻ phát triển. Kết quả nghiên cứu cho

thấy: nhóm tuổi các bà mẹ từ 25 - 29 tuổi chiếm tỉ lệ 69,7%; từ 20 - 24 chiếm

15,8% và ≥ 35 chiếm 0,6%. Tuổi trung bình của mẹ là 27,4 ± 15,0 tuổi. Kết quả

này tương đương với nghiên cứu của Lương Thị Thu Hà (2008): tỉ lệ bà mẹ <

22 tuổi là 14,0%; 22 - 35 tuổi là 79,9% và > 35 tuổi là 6,1% [16]. Bảng 3.2.

trong nghiên cứu cũng cho kết quả: Phần các bà mẹ có 2 con chiếm tỉ lệ 68,0%,

tỉ lệ bà mẹ có ≥ 3 con là 6,2%. Phần lớn các bà mẹ có đủ sữa cho con 87,4%.

Với tỉ lệ bà mẹ ≥ 35 tuổi và có > 2 con thấp là yếu tố thuận lợi trong việc chăm

sóc trẻ cũng như phòng chống suy dinh dưỡng trên địa bàn.

49

Đối với nghề nghiệp và học vấn của bố, mẹ trẻ tham gia nghiên cứu: Tỉ

lệ mẹ và bố có nghề nghiệp là nông dân chiếm 73,2% và 52,5%. Nghề nghiệp

tự do, làm thuê ở mẹ trẻ là 20,3%; ở bố trẻ là 36,8%. Tỉ lệ có trình độ học vấn

THCS ở mẹ trẻ là 53,2%; ở bố trẻ là 47,8%. Tỉ lệ có trình độ học vấn ≥ THPT

ở mẹ trẻ là 31,4%; ở bố trẻ là 44,8%. So sánh với nghiên cứu của Lương Thị

Thu Hà (2008): tỉ lệ bà mẹ là nông dân 94,6%, công chức viên chức 2,4%, nghề

khác 3,0%. Tỉ lệ học vấn THCS là 12,6%, THPT là 4,9% [16]. Sự khác biệt

này chính là do sự khác biệt về địa bàn nghiên cứu. Nghiên cứu của Lương Thị

Thu Hà tại 2 xã miền núi của huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên trong khi

nghiên cứu của chúng tôi tại 2 xã thuộc huyện giáp biên nên tỉ lệ người làm

nông dân thấp hơn nghiên cứu của Lương Thị Thu Hà; trong khi tỉ lệ đi sang

biên giới làm thuê/làm nghề tự do cao hơn. Đối với học vấn thì nghiên cứu của

chúng tôi tiến hành năm 2018, ở thời điểm mà các hoạt động phổ cập giáo dục

các cấp đã phát triển rất nhiều so với nghiên cứu trước.

SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi được thể hiện ở tình trạng chiều cao

của trẻ thấp hơn so với chiều cao nên có ở lứa tuổi đó, thể hiện ở chỉ số "chiều

cao theo tuổi" (Height/Age) thấp dưới -2 Z-Score (hoặc dưới -2 SD so với

chuẩn tăng trưởng, WHO 2006). Thấp còi làm chậm tăng trưởng xương và tầm

vóc, được xem là kết quả cuối cùng giảm tốc độ tăng trưởng tuyến tính trong

tương lai của trẻ sau này. SDD thấp còi phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng

kéo dài hoặc thuộc về quá khứ, làm cho đứa trẻ bị còi. Chiều cao theo tuổi thấp

cũng phản ánh sự chậm tăng trưởng do điều kiện dinh dưỡng và sức khỏe không

hợp lý. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi SDD

thấp còi chiếm 45,1%. Kết quả này của chúng tôi cao hơn hẳn so với một số

báo cáo quốc tế: báo cáo của UNICEF năm 2013 cho tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị

SDD thấp còi trên toàn thế giới 26,0% [75]; báo cáo của WHO năm 2015 cho

tỉ lệ SDD thấp còi 23,0% [78]; báo cáo của UNICEF (2017) thấy tỉ lệ SDD thấp

còi trên toàn thế giới năm 2016 là 22,9%: tỉ lệ này ở khu vực Đông Phi 26,7%,

50

Trung Phi 32,5%, Tây Phi là 31,5%, Nam Á 34,% và khu vực Đông Nam Á

25,8% [79]. Kết quả SDD thấp còi của chúng tôi cũng cao hơn một số nghiên

cứu trước: Nghiên cứu tại vùng nông thôn Ấn Độ để xác định tỉ lệ SDD thấp

còi là 39,2% [54]. Nghiên cứu tại Milot Valley, Haiti cho tỉ lệ SDD thấp còi là

14,8% [70]. Nghiên cứu của Amare Desalegne và cs (2015) cho tỉ lệ SDD thấp

còi là 24,9% [52]. Nghiên cứu tại Tanzania (2017) cho kết quả tỉ lệ SDD thấp

còi là 41,9% [66]. Báo cáo tổng quan của Mohseni M. và cs (2018) cho tỉ lệ

SDD thấp còi ở Iran là 12,4% [67]. Nghiên cứu ở Bắc Sudan cho tỉ lệ SDD thấp

còi là 42,5% [72]. Báo cáo tổng quan về SDD tại Ethiopia của Abdulahi Ahmed

và cs (2017) cho tỉ SDD thấp còi là 42,0% [49].

Tuy nhiên, tỉ lệ SDD thấp còi trong nghiên cứu của chúng tôi lại thấp

hơn so với nghiên cứu của Phengxay M và cs (2007): tỉ lệ trẻ em SDD thấp còi

là 54,6% [68]. Nghiên cứu ở vùng Sindh, Pakistan (2016) cho tỉ lệ SDD thấp

còi là 48,2% [61]. Như vậy, rõ ràng tỉ lệ SDD thấp còi giữa nghiên cứu của

chúng tôi và các nghiên cứu khác có sự khác nhau. Điều này phù hợp với nhận

định của nghiên cứu trước: mặc dù số trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thấp còi còn cao,

nhưng tỉ lệ phân bố không đều ở các khu vực trên thế giới [78]. Lý giải sự khác

nhau giữa các nghiên cứu theo chúng tôi là do sự khác biệt do đặc điểm vùng

miền, dân tộc và điều kiện chăm sóc sức khỏe giữa các vùng miền. Mặc dù tỉ

lệ SDD thấp còi trong những năm qua có xu hướng giảm dần ở hầu hết các khu

vực nhưng tỉ lệ SDD thấp còi tại địa bàn nghiên cứu vẫn còn cao chứng tỏ ngoài

việc do điều kiện kinh tế thì còn có những lý do riêng đóng vai trò làm tăng

nguy cơ mắc SDD thấp còi liên quan đến phong tục tập quán chăm sóc trẻ mà

chúng tôi sẽ bàn luận ở phần sau của nghiên cứu này.

Đánh giá chung cả 3 thể SDD của chúng tôi: tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi SDD

thấp còi 45,1%; SDD nhẹ cân 24,1% và SDD gầy còm 8,2%. So sánh với một

số nghiên cứu trước: Nghiên cứu của Ngọc Xuân Chấn (2011) tại xã Yên Hà,

Quảng Bình thấy: Tỉ lệ SDD của trẻ em dưới 5 tuổi thể thấp còi là 38,6%, thể

51

nhẹ cân là 34,4%, thể gầy còm là 9,4% [11]. Nghiên cứu của Trần Thị Tuyết

Mai (2013) tại Khánh Hòa cho kết quả: tỉ lệ SDD trẻ em từ 0 - 36 tháng tuổi

thể thấp còi 18,4%, SDD nhẹ cân 10,1%, SDD gày còm 3,6% [24]. Nghiên cứu

của Nguyễn Anh Vũ (2013) cho tỉ lệ SDD trẻ em từ 12 - 24 tháng tại huyện

Tiên Lữ ở thể thấp còi 29,4%, nhẹ cân là 7,6% và gầy còm là 3,0% [48]. Nghiên

cứu của Lê Thị Hương và cs (2014) tại thành phố Phủ Lý cho tỉ lệ trẻ dưới 5

tuổi SDD thấp còi 7,5%, nhẹ cân 4,4% và gầy còm 7,2% [21]. Nghiên cứu của

Trần Thị Thanh (2016) thấy tỉ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi huyện Cư Kuin, tỉnh

Đăk Lăk ở thể SDD thấp còi là 37,6%, nhẹ cân 28,0% và gầy còm là 7,4% [30].

Nghiên cứu của Hoàng Văn Phương (2018) thấy tình trạng SDD ở trẻ 36 - 59

tháng tuổi tại huyện Thanh Liêm ở thể thấp còi là 18,1%, thể nhẹ cân là 11,3%

và thể gầy còm là 3,1% [29]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Uyên và cs

(2018) tại một số trường mầm non trên địa bàn thành phố Pleiku cho tỉ lệ SDD

thấp còi 2,9%, SDD nhẹ cân 11,1% và SDD gầy còm 5,0% [40]. Như vậy kết

quả SDD của chúng tôi cũng cao hơn so với nhiều nghiên cứu. Tuy nhiên, kết

quả SDD của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Đinh Đạo (2014) tại huyện

Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam cho tỉ lệ SDD thấp còi 62,8%, SDD thể nhẹ cân

36,5% và SDD thể gầy còm 8,4% [13]. Nghiên cứu của Bùi Xuân Minh và cs

(2015) ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Raglai tại hai huyện miền núi Khánh

Sơn và Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa cho kết quả tỉ lệ SDD thấp còi là 68,7%,

nhẹ cân là 56,5%; SDD trẻ trai cao hơn trẻ gái ở thể nhẹ cân và gầy còm [26].

Những sự khác biệt này, như đã giải thích ở trên, đó là do sự khác biệt về mẫu

nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu.

Bảng 3.4 cho thấy: Tỉ lệ trẻ SDD thấp còi mức độ vừa là 25,7%. Tỉ lệ trẻ

SDD thấp còi mức độ nặng là 19,4%. Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp

với một số nghiên cứu khác về mức độ SDD thấp còi khi cho kết quả mức độ

SDD vừa cao hơn SDD nặng tại Việt Nam: Nghiên cứu của Lương Thị Thu Hà

tại hai xã của huyện Phú Lương, Thái Nguyên năm 2008 cho tỉ lệ SDD thấp còi

52

độ I là 27,5% và SDD thấp còi độ II là 14,1% [16]. Nghiên cứu của Đinh Đạo

(2014) cho tỉ lệ SDD thấp còi độ I là 43,0% và SDD thấp còi độ II là 19,8%

[13]. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi không phù hợp với nghiên cứu của

Bùi Xuân Minh và cs (2015) cho tỉ lệ SDD thấp còi mức độ nhẹ là 32,1%; thấp

hơn so với SDD thấp còi mức độ nặng (36,5%) [26].

Bảng 3.5 và 3.6 cho kết quả: Tỉ lệ trẻ nam SDD thấp còi là 47,5%; nữ

SDD thấp còi là 42,4%. Tỉ lệ trẻ SDD thấp còi ở xã Lùng Tám là 43,8%; Cán

Tỷ là 46,4%. Sơ bộ nhận xét tỉ lệ SDD thấp còi ở xã Lùng Tám và Cán Tỷ là

tương đương nhau (p > 0,05). Điều này phù hợp với thực tế địa bàn nghiên cứu

bởi lẽ dù xã Cán Tỷ đông hơn xã Lùng Tám khoảng 1000 dân nhưng đây là 2

xã tương đồng về điều kiện kinh tế, cùng chung đặc điểm văn hóa xã hội và có

hệ thống chăm sóc y tế giống nhau. Về giới tính: tỉ lệ SDD thấp còi ở nam và

nữ tương đương nhau; nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy mối liên quan

giữa giới và SDD. Hiện nay, còn một số tranh cãi về giới tính của trẻ liên quan

đến SDD. Một số tác giả cho rằng, trẻ trai có xu hướng hoạt động và tiêu thụ

nhiều năng lượng nên ăn nhiều hơn trẻ gái. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu

còn có sự khác biệt.

Phân tích theo SDD thấp còi từng nhóm tuổi: dưới 1 tuổi là nhóm tuổi

dinh dưỡng phụ thuộc vào tình trạng bú sữa mẹ; từ 1 - 3 tuổi là nhóm tuổi phụ

thuộc vào chế độ ăn bổ sung và các bệnh nhiễm trùng thường gặp; nhóm trên 3

tuổi là nhóm tuổi trẻ đã khá thích nghi với môi trường và điều kiện sống. Nghiên

cứu của chúng tôi cho kết quả: Tỉ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ ≤ 12 tháng là 39,1%;

từ 13 - 24 tháng là 32,0%; 25 - 36 tháng là 42,3%; 37 - 48 tháng là 50,3% và

trẻ từ 49 - 60 tháng bị SDD thấp còi chiếm tỉ lệ cao nhất 62,8%. Sự tăng dần tỉ

lệ SDD thấp còi theo nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Nghiên cứu

của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của Lương Thị Thu Hà (2008)

với tỉ lệ SDD thấp còi tăng dần theo nhóm tuổi: Tỉ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ ≤

6 tháng là 18,0%; từ 7 - 12 tháng là 23,3%; 13 - 24 tháng là 45,8%; 25 - 36

53

tháng là 40,6% và trẻ từ 49 - 60 tháng bị SDD thấp còi chiếm tỉ lệ cao nhất

52,6% [16]. Tỉ lệ SDD thấp còi tăng dần theo nhóm tuổi cũng đồng thuận với

nghiên cứu của Bùi Xuân Minh và cs (2015) [26]; Trần Thị Thanh (2016) [30].

Như vậy điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế nuôi dưỡng trẻ đã mô tả ở trên.

Điều cần chú ý là trẻ càng nhiều tuổi thì trẻ càng phát triển nhanh, đòi hỏi nhu

cầu năng lượng cao vừa để cho quá trình phát triển vừa để cho các hoạt động

vận cơ tăng lên nhưng quá trình cung cấp thì lại thiếu nhiều. Có thể có nhiều lý

do, nhưng ở tuổi sau khi cai sữa, trẻ em ít được chăm sóc hơn, bà mẹ quan niệm

là con đã lớn nên chế độ ăn như người lớn. Nhiều trẻ em sau cai sữa có chế độ

ăn không hợp lý, tỉ lệ bệnh nhiễm trùng tăng cao do vậy đã làm tăng tỉ lệ SDD.

Vì thế, trong chương trình PCSDD cho trẻ em phải có biện pháp dự phòng ngay

khi trẻ dưới 6 tháng tuổi và các biện pháp phục hồi dinh dưỡng cũng cần chú ý

hơn cho trẻ em từ 25 - 60 tháng tuổi.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy: Tỉ lệ trẻ đủ tháng bị SDD thấp còi là

45,0%; trẻ thiếu tháng là 46,2%. Mẹ có độ tuổi 15 - 19 tuổi có con bị SDD thấp

còi chiếm tỉ lệ 50,0%. Mẹ có độ tuổi 20 - 24 tuổi có con bị SDD thấp còi chiếm

46,5%; độ tuổi 25 - 29 tuổi có con bị SDD thấp còi 21,6% và ≥ 35 có con bị

SDD thấp còi 35,3%. Hộ gia đình có kinh tế đủ ăn có con bị SDD thấp còi

chiếm 42,0%; hộ cận nghèo có con bị SDD thấp còi là 46,1% và hộ nghèo là

50,4%. Thực tế theo y văn: trẻ thiếu tháng sẽ SDD cao hơn, bà mẹ sinh sớm

hoặc quá tuổi đều có nguy cơ con bị SDD cao hơn và điều kiện dinh dưỡng

(kinh tế hộ gia đình) cũng là yếu tố có liên quan đến SDD. Tuy nhiên, mô tả sơ

bộ các số liệu SDD thấp còi của chúng tôi chưa nổi bật được điều này mà mới

chỉ cung cấp được các nhận xét liên quan đến tỉ lệ mắc theo phân bố đặc điểm

của bà mẹ và kinh tế hộ gia đình. Nghiên cứu các yếu tố liên quan chúng tôi

bàn luận sau đây sẽ góp phần phân tích sâu các phân bố SDD thể thấp còi theo

các yếu tố liên quan đến mẹ và kinh tế hộ gia đình.

54

4.2. Một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5

tuổi người dân tộc Mông

Nguyên nhân gốc rễ của SDD ở Việt Nam liên quan đến đói nghèo, mất

an ninh lương thực, tình trạng lao động của người phụ nữ và cả cơ chế chính

sách chưa thích hợp. Không những thế, đói nghèo chủ yếu rơi vào những hộ

gia đình có trình độ học vấn thấp, khó có cơ hội tiếp xúc với kỹ năng, thông tin

và với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Mặt khác, phần lớn các hộ gia đình

nghèo, nhất là ở vùng nông thôn và miền núi lại thường sinh nhiều con. Vì gia

đình đông con nên chế độ dinh dưỡng, khẩu phần ăn của trẻ không được đảm

bảo. Chính điều này lại tạo nên một vòng luẩn quẩn của đói nghèo khó giải

quyết. Nghiên cứu của Lê Cảnh Dũng và cs (2011) thấy có nhiều nguyên nhân

trực tiếp dẫn đến tỉ lệ SDD trẻ em cao ở đồng bằng sông Cửu Long nhưng

chung nhất là do yếu tố nghèo và phát triển nông thôn kém [15]. Trong nghiên

cứu này, tình trạng đói nghèo được thể hiện qua kinh tế hộ gia đình. Hộ gia

đình được phân hạng kinh tế theo quy định của Chính phủ gồm có: hộ nghèo,

cận nghèo và đủ ăn [33]. Yếu tố kinh tế hộ gia đình phản ánh sự đáp ứng đủ

hay không đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ và các nhu cầu khác. Trẻ em có quyền

đựơc nuôi dưỡng và chăm sóc tốt nhất để có thể đạt tới chỉ số tối ưu về sức

khoẻ và dinh dưỡng; người mẹ cũng có quyền được chăm sóc dinh dưỡng hợp

lý và có quyền quyết định cách nuôi dưỡng trẻ một cách đúng đắn nhất. Những

điều này đã được nêu trong ''Tuyên ngôn về quyền trẻ em''. Tuy nhiên, việc

thực hiện quyền đó còn nhiều hạn chế, trẻ em sống trong gia đình nghèo còn

nhiều thiệt thòi trong việc được nuôi dưỡng tốt.

Kết quả nghiên cứu cho thấy: Trẻ thuộc hộ nghèo thì có tỉ lệ SDD thấp

còi (50,4%) cao hơn hộ không nghèo (42,8%). Có mối liên quan có ý nghĩa

thống kê giữa kinh tế hộ gia đình với SDD thấp còi (p < 0,05). Tỉ lệ mẹ là nông

dân có trẻ bị SDD thấp còi là 46,0%, cao hơn so với mẹ làm nghề khác (42,6%).

55

Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tỉ lệ bố là nông dân có

trẻ bị SDD thấp còi là 49,6%, cao hơn so với bố làm nghề khác (40,0%). Có

mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nghề nghiệp của bố với SDD thấp còi

của trẻ (p < 0,05). Đã có nhiều nghiên cứu khẳng định về có sự liên quan chặt

chẽ giữa yếu tố kinh tế gia đình với tình trạng SDD trẻ em. Nghiên cứu cho

thấy hộ có kinh tế trung bình và giàu thì con ít có nguy cơ mắc SDD thấp hơn

0,66 lần (95%CI: 0,45 - 0,95, p < 0,05) và 0,63 (95%CI: 0,45 - 0,95, p < 0,05)

so với hộ nghèo [57]. Nghiên cứu khác tại Bangladesh cho thấy trẻ thuộc hộ

gia đình có chỉ số nghèo cao có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao hơn 2,9 lần so

với nhóm không nghèo (p < 0,001) [56]. Nghiên cứu trên 389 trẻ của Tariku

E.Z và cs (2018) thấy trẻ sống ở hộ nghèo có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao

hơn 2,15 lần (95%CI: 1,00 - 4,60); trẻ sống ở hộ trung bình có nguy cơ mắc

SDD thấp còi cao hơn 2,90 lần (95%CI: 1,39 - 6,04) so với trẻ sống ở hộ giàu

[74]. Nghiên cứu của Mazengia Amare Lisanu và cs (2018) thấy bố có nghề

nghiệp là nông dân thì con có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao hơn 5,23 lần

(95%CI: 1,55 - 17,64) [65]. Như vậy, kết quả nghiên cứu này của chúng tôi

hoàn toàn phù hợp với y văn, với thực tế và với các nghiên cứu trước. Tuy

nhiên, việc chưa tìm thấy mối liên quan giữa nghề của mẹ với SDD thấp còi ở

trẻ theo chúng tôi có thể do đặc điểm địa bàn nghiên cứu là tỉ lệ mẹ làm nông

dân chiếm cao nên lượng mẫu về nghề nghiệp mẹ không cân đối. Hoặc có thể

do bản chất đây là nghiên cứu mô tả nên chưa xác định rõ hoặc cung cấp bằng

chứng rõ rệt về vấn đề này. Bên cạnh đó, theo phong tục thì người đàn ông

trong gia đình người dân tộc Mông là người làm chủ gia đình, chịu trách nhiệm

về kinh tế trong gia đình. Họ sẽ có nhiều điều kiện đi làm thêm/làm thuê để có

điều kiện chăm lo kinh tế cho gia đình (cung cấp thực phẩm cho gia đình); trong

khi người vợ chỉ làm nông nghiệp và nội trợ ở nhà lên nghề nghiệp của vợ chưa

có mối liên quan rõ rệt với SDD thấp còi.

56

Các nguyên nhân tiềm tàng của SDD có thể kể đến là khả năng tiếp cận

đến các dịch vụ có chất lượng về chăm sóc bà mẹ, trẻ em; trình độ dân trí với

kiến thức và thực hành của người chăm sóc trẻ (mẹ trẻ là chủ yếu) trong các

vấn đề phòng bệnh do yếu tố nước sạch, vệ sinh môi trường, chế độ dinh dưỡng,

chế độ chăm sóc... Những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi những người phụ nữ có

học thức cao hơn thì thường được chăm sóc dinh dưỡng tốt hơn. Kết quả nghiên

cứu của chúng tôi cho thấy: Tỉ lệ mẹ có trình độ học vấn ≤ THCS có trẻ bị SDD

thấp còi là 47,3%, cao hơn so với mẹ có trình độ học vấn ≥ THPT (40,1%). Có

mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trình độ học vấn của mẹ với SDD thấp

còi của trẻ (p < 0,05). Như vậy, trình độ học vấn của các bà mẹ có ảnh hưởng

lớn tới tình trạng dinh dưỡng của trẻ em. Mù chữ hoặc trình độ văn hoá thấp đã

giới hạn khả năng của người phụ nữ nâng cao chất lượng cuộc sống cũng như

thực hiện các hành vi chăm sóc sức khoẻ cho gia đình, cho chính bản thân họ

và cho con cái họ. Trình độ học vấn thấp dẫn tới bà mẹ thiếu kiến thức và kỹ

năng nuôi con dẫn tới trẻ em nguy cơ bị SDD. Do trình độ học vấn của các bà

mẹ thấp, các bà mẹ đã không nhận thức được các kiến thức về chăm sóc sức

khoẻ cho bản thân như các kiến thức về thai nghén, về kế hoạch hoá gia đình,

kiến thức về dinh dưỡng và phòng chống bệnh tật, từ đó làm tăng khả năng mắc

bệnh của bà mẹ mà hàng đầu là bệnh về dinh dưỡng và làm tăng nguy cơ SDD

ở trẻ em. So sánh với các nghiên cứu trước: Nghiên cứu Talukder Ashis (2017)

cho thấy trình độ học vấn của bố và mẹ là những yếu tố có liên quan với SDD

trẻ em (p < 0,01) [73]. Nghiên cứu của Biswas S. và cs (2010) cho kết quả trình

độ học vấn của mẹ và bố đều có mối liên quan có ý nghĩa thống kê đến tỉ lệ

SDD của trẻ gái [54]. Nghiên cứu của Kang Y. và cs (2018) trên 1506 trẻ thấy

nguy cơ mắc SDD thấp còi của trẻ giảm với sự tăng trình độ học vấn của mẹ

[59]. Nghiên cứu của Mazengia Amare Lisanu và cs (2018) trên 802 trẻ cho

thấy trình độ học vấn của mẹ là mù chữ có nguy cơ gây mắc SDD thấp còi cao

57

gấp 1,81 lần (95%CI: 1,01 - 3,24) [65]. Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi là

hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trước trong y văn trên thế giới.

Kết quả Bảng 3.15 và 3.16 cho thấy: tỉ lệ mẹ kết hôn ≤ 18 tuổi có trẻ bị

SDD thấp còi là 49,4%, cao hơn so với mẹ kết hôn > 18 tuổi (42,7%). Có mối

liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi kết hôn của mẹ với SDD thấp còi của

trẻ (p < 0,05). Toàn bộ mẹ kết hôn cận huyết đều có con bị SDD thấp còi. Có

mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mẹ kết hôn cận huyết với SDD thấp còi

của trẻ (p < 0,05). Thực tế, người dân tộc Mông là dân tộc có vóc dáng thấp còi

do phong tục kết hôn sớm [39]. Nghiên cứu trên 53 dân tộc thiểu số Việt Nam

năm 2015 thấy tuổi kết hôn trung bình của người dân tộc Mông là 18,9 tuổi với

tỉ lệ tảo hôn rất cao (59,7%) và tỉ lệ kết hôn cận huyết 1,59% [35]. Nghiên cứu

định tính của Quỹ dân số Liên hiệp Quốc (2008) cho thấy: “..Bây giờ vóc người

Mông nhỏ...là do tục kết hôn sớm. Ngày xưa vóc người Mông lớn hơn nhiều…”.

Thường thường các cậu bé 16 tuổi và các cô bé 14 tuổi có thể lấy nhau. Mặc

dù việc ly dị ít xảy ra, việc quan hệ tình dục trước hôn nhân lại diễn ra phổ biến.

Mặc dù vấn đề trinh tiết là quan trọng, nhưng quan hệ tình dục trước hôn nhân

vẫn không bị cấm đoán trong cộng đồng Mông ngày nay. Nhiều phụ nữ chấp

nhận thực tế rằng chồng họ có thể quan hệ tình dục với người khác. Nhiều nguời

nói rằng quan hệ tình dục trước hôn nhân là điều tự nhiên và rằng tập tục của

người Mông cho phép họ như vậy [39]. Việc quan hệ tình dục sớm dẫn đến kết

hôn sớm, người mẹ mang thai trong lúc cơ thể chưa thật sự “chín muồi” cho

việc nuôi dưỡng thai nhi, trong lúc chưa có nhiều kinh nghiệm chăm sóc con

và mang thai trong điều kiện kinh tế khó khăn đã là yếu tố liên quan làm gia

tăng tình trạng SDD nói chung trong đó có SDD thấp còi nói riêng. Vấn đề tảo

hôn và hôn nhân cận huyết được cho là bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó có

một phần nguyên nhân là do trình độ giáo dục thấp, địa bàn sinh sống biệt lập,

ít cơ hội giao lưu, trao đổi, hội nhập với xã hội bên ngoài, cùng với đó là tập

quán kết hôn, định kiến giữa các tộc người phát triển và chậm phát triển; hiểu

58

biết chưa đầy đủ về hậu quả của tảo hôn và kết hôn cận huyết thống... dẫn đến

tình trạng này trong đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Mông nói

riêng sống ở khu vực khó khăn, đặc biệt khó khăn đến nay vẫn chưa có dấu

hiệu được chấm dứt. Do tính phức tạp của thực trạng này, nên giải pháp để giải

quyết tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong dân tộc thiểu số cần phải được tiếp

cận một cách kiên trì, lâu dài và toàn diện, trong đó tạo ra động lực cho các dân

tộc thiểu số hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội là giải pháp căn bản.

Nghiên cứu cho thấy: tỉ lệ mẹ tăng < 10 kg có trẻ bị SDD thấp còi là

53,2%, cao hơn so với mẹ tăng ≥ 10kg (43,6%). Có mối liên quan có ý nghĩa

thống kê giữa tăng cân khi mang thai của mẹ với SDD thấp còi (p < 0,05). Kết

quả này theo chúng tôi là hoàn toàn phù hợp với y văn. Chế độ ǎn uống của

người mẹ mang thai có vai trò quan trọng quyết định đối với sự phát triển của

thai nhi. Nếu người mẹ được ǎn uống tốt, đầy đủ các chất dinh dưỡng thì người

mẹ sẽ lên cân tốt. Trong suốt thời kỳ có thai, người mẹ cần tǎng được từ 10kg

đến 12 kg (trong đó, 3 tháng đầu tǎng 1kg, 3 tháng giữa tǎng 4-5kg, 3 tháng

cuối tǎng 5-6 kg). Tǎng cân tốt, người mẹ sẽ tích luỹ mỡ là nguồn dự trữ để tạo

sữa sau khi sinh. Những trường hợp người mẹ bị thiếu ǎn hoặc ǎn uống kiêng

khem không hợp lý chính là nguyên nhân của suy dinh dưỡng trong bào thai,

trẻ đẻ ra có cân nặng thấp dưới 2500g. Qua đó xảy ra tình trạng trẻ đẻ ra nhẹ

cân. Trẻ bị SDD bào thai và đẻ ra nhẹ cân sẽ có sức đề kháng kém, dễ bị nhiễm

khuẩn và dễ bị suy dinh dưỡng. Chế độ dinh dưỡng của bà mẹ người Mông

cũng như người dân tộc thiểu số còn bị ảnh hưởng bởi những tập tục lạc hậu,

ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe trẻ em như lao động nặng và kiêng khem ăn

uống khi mang thai vì quan niệm rằng con trong bụng mẹ nhỏ sẽ dễ sinh. Nhiều

bà mẹ còn kiêng khem, hạn chế cho trẻ ăn uống, không dám sử dụng chất đạm,

chất béo vì sợ trẻ bị tiêu chảy đang là những thách thức lớn trong nuôi dưỡng,

chăm sóc bà mẹ và trẻ em người dân tộc thiểu số.

59

Đối với người Mông, đẻ nhiều con là một chuẩn mực. Người Mông dùng

từ 'tua nhua' để diễn tả việc sinh nở. 'Tua nhua' theo tiếng Hmông có nghĩa là

'bắt' do vậy những người ít con thường phàn nàn rằng họ không thể 'bắt' nhiều

con. Trên thực tế việc mong muốn có ít nhất 4-5 con của người Mông vẫn còn

phổ biến. Đối với người Mông, sinh nở cũng có nghĩa là tái sinh nguồn lao

động và thu nhập; con cái cũng có nghĩa là tài sản. Phụ nữ nào có ít con thường

bị hàng xóm gièm pha. Gia đình giàu là gia đình có nhà cao cửa rộng, nhiều

thóc gạo, trâu bò và đông con 8-10 người [39]. Tuy nhiên, việc có đông con sẽ

ảnh hưởng đến hoạt động nuôi dưỡng chăm sóc trẻ. Nhiều công trình nghiên

cứu đã cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa tình trạng đông con trong gia

đình với tình trạng SDD trẻ em. Gia đình đông con hoặc sinh đôi sinh ba là

gánh nặng cho vấn đề chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ trong mỗi gia đình, đặc biệt ở

các nước đang phát triển. Khi đông con, đứa trẻ thiếu sự chăm sóc tốt cả về

chất lượng dinh dưỡng cũng như thời gian được chăm sóc; do đó, trẻ rất dễ bị

SDD, đặc biệt SDD thấp còi. Nghiên cứu của John Jomon và cs (2018) đã

chứng minh được mối liên quan giữa số lượng con với thứ tự sinh và tăng nguy

cơ mắc SDD trẻ em [58]. Nghiên cứu trên 610 trẻ của Wasihun A.G. và cs

(2018) thấy gia đình ≤ 4 người ít có nguy cơ mắc SDD thể gầy còm hơn 0,56

lần (95%CI: 0,368 - 0.959) so với gia đình > 4 người [81]. Nghiên cứu của

chúng tôi cũng hoàn toàn phù hợp các nghiên cứu trên khi cho thấy: Tỉ lệ mẹ

có > 2 con thì con bị SDD thấp còi là 63,8%, cao hơn so với mẹ có ≤ 2 con

(43,8%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa số con hiện có của bà mẹ

với SDD thấp còi của trẻ (p < 0,05).

Mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá riêng. Những quan niệm văn hoá, hành

vi văn hoá, đặc biệt các hành vi văn hoá tiêu dùng, văn hoá Y tế và văn hoá tín

ngưỡng có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc chăm sóc sức khoẻ

bà mẹ và trẻ em. Có những phong tục có lợi cho sức khoẻ và dinh dưỡng của

phụ nữ và trẻ em như phong tục cho trẻ sơ sinh bú sớm, bú kéo dài, nuôi con

60

bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương có tập quán cho trẻ ăn sam sớm

(trước 6 tháng tuổi) và cho trẻ cai sữa sớm (trước 12 tháng tuổi). Thiếu sữa mẹ,

bú sữa mẹ lần đầu sau 6 giờ, thời gian ăn bổ sung trước 4 tháng, thời gian cai

sữa trước 18 tháng… đều là những yếu tố liên quan với SDD của trẻ em. Nghiên

cứu của chúng tôi cho thấy: Trẻ bú sau đẻ 12 - 24 giờ bị SDD thấp còi cao

51,2%, cao hơn so với trẻ được bú ngay sau đẻ (43,3%). Có mối liên quan giữa

việc bú sau đẻ muộn với SDD thấp còi ở trẻ (p < 0,05). Trẻ ăn sam trong vòng

6 tháng đầu trở lên có tỉ lệ SDD thấp còi 45,2%; cao hơn so với trẻ ăn sam > 6

tháng (43,1%). Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Trẻ cai

sữa < 18 tháng bị SDD thấp còi là 48,2%; cao hơn trẻ cai sữa ≥ 18 tháng

(41,3%). Có mối liên quan giữa thời gian cai sữa sớm với SDD thấp còi (p <

0,05). So sánh với nghiên cứu tại Nepal (2017) cho thấy: trẻ không được bú mẹ

hoàn toàn có nguy cơ mắc SDD cao hơn cấp tính cao hơn 2,19 lần (95%CI:

1,73 - 12,03) [69]. Nghiên cứu của Đoàn Thị Ánh Tuyết và cs (2012) thấy có

mối liên quan giữa thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn dưới 6 tháng với thể nhẹ

cân (OR=2,19,95%CI: 1,04-4,60) và thể gầy còm (OR=6,86, 95%CI: 1,28-

36,68) và giữa uống viên sắt khi mang thai với thể thấp còi (OR=1,58, 95%CI:

1,0-2,37) [38]. Nghiên cứu Talukder Ashis (2017) cho kết quả chăm sóc trước

sinh là những yếu tố có liên quan với SDD trẻ em (p < 0,01) [73]. Sữa mẹ là

nguồn thức ăn quí giá và rất quan trọng khi các chức năng tiêu hoá, hấp thụ và

chuyển hoá các chất của trẻ chưa hoàn thiện. Theo khuyến cáo của WHO và

UNICEF thì cho trẻ càng bú sớm càng tốt. Vì sữa mẹ tiết ra theo phản xạ, bú

sớm có tác dụng kích thích bài tết sữa non. Trẻ được bú sữa non sẽ phòng bệnh

được tốt. Ăn bổ sung hợp lý là phải hợp lý cả về thời gian và chất lượng bữa

ăn. Thời kỳ bắt đầu ăn bổ sung cho đến khi cai sữa là thời kỳ đe dọa SDD nhất

đối với trẻ em. Cho trẻ ăn bổ sung sớm là không có lợi cho sức khoẻ của trẻ vì

trước 6 tháng tuổi trẻ chưa cần đến thức ăn ngoài sữa mẹ, cho trẻ ăn khiến cho

trẻ bú ít đi, sữa được sản sinh ra ít hơn và trẻ mất đi nguồn dinh dưỡng quí giá

61

từ sữa mẹ. Hơn nữa, bộ máy tiêu hoá của trẻ chưa hoàn chỉnh vì vậy cho trẻ ăn

bổ sung sớm trẻ rất dẽ bị tiêu chảy. Mặt khác, nếu cho trẻ ăn bổ sung muộn

nguồn sữa mẹ không đủ cung cấp năng lượng cho trẻ vì vậy trẻ sẽ bị thiếu năng

lượng. Như vậy, các mối liên quan giữa hành vi chăm sóc trẻ với SDD thấp còi

đã được chứng minh trong nghiên cứu này là phù hợp với y văn.

Bảng 3.22 cho kết quả: trẻ nam bị SDD thấp còi là 47,5%; cao hơn trẻ

nữ (42,4%). Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Thực tế, các

kết quả nghiên cứu về mối liên quan giữa giới tính của trẻ với SDD còn nhiều

tranh cãi. Nghiên cứu của Biswas S. và cs (2010) tại vùng nông thôn Ấn Độ

thấy trẻ gái có nguy cơ SDD cao hơn trai [54]. Nhưng nghiên cứu của Phengxay

M và cs (2007) lại bé trai có khuynh hướng thấp còi và nhẹ cân hơn bé gái [68].

Nghiên cứu của Abera Lamirot trên 398 trẻ từ 6 - 59 tháng tuổi cho kết quả: trẻ

nam có nguy cơ SDD thể nhẹ cân cao hơn 1,9 lần so với trẻ nữ (95%CI: 1,10 -

3,32) [50]. Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Đinh Đạo

(2014) khi cho kết quả: SDD thấp còi hiện mắc theo giới tương đương nhau,

trẻ trai 62,0% và trẻ gái 63,8% (p > 0,05) [13]. Nghiên cứu của Bùi Xuân Minh

và cs (2015) cũng cho thấy: tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ trai là 70,6%; ở trẻ gái là

66,6%, không có sự khác biệt với p = 0,11 [26]. So sánh với các nghiên cứu

trên cho thấy, nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả tương tự nghiên cứu của

Đinh Đạo (2014) và Bùi Xuân Minh và cs (2015).

Chế độ dinh dưỡng của mẹ trong thời gian mang thai là yếu tố liên quan

rõ rệt nhất đến cân nặng của trẻ khi đẻ. Rất nhiều nghiên cứu đã khẳng định

rằng, nếu bà mẹ được cung cấp thức ăn đầy đủ và cân đối trong thời gian mang

thai sẽ bảo đảm cho thai nhi tăng cân tốt, kể cả con của các bà mẹ SDD. Ngược

lại, nếu bà mẹ mang thai thiếu ăn sẽ tăng nguy cơ sinh con non tháng, nhẹ cân.

Trẻ sinh non tháng, nhẹ cân khi lớn lên tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành, tăng

huyết áp, tiểu đường, giảm dự trữ thận, giảm chức năng phổi, chậm dậy thì, dễ

62

bị trầm cảm và tỷ lệ tử vong vì bệnh tim mạch cao. Riêng đối với trẻ gái sinh

nhẹ cân có nguy cơ SDD khi trưởng thành, lại tiếp tục là một yếu tố nguy cơ

sinh con nhẹ cân cho thế hệ kế tiếp. Trẻ sơ sinh nhẹ cân do cơ thể yếu ớt, khả

năng phát triển thường chậm hơn, kết hợp với trẻ thường hay mắc các bệnh

nhiễm khuẩn, chính những yếu tố này làm cho tỉ lệ suy dinh dưỡng của nhóm

trẻ này tăng lên. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khẳng định điều này khi

thấy: trẻ đẻ ra nhẹ cân bị SDD thấp còi là 54,8%; cao hơn trẻ đẻ ra có cân nặng

bình thường (43,8%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng nhẹ

cân khi đẻ với SDD thấp còi (p < 0,05). Kết quả này cũng phù hợp với nghiên

cứu của Lương Thị Thu Hà tại Thái Nguyên khi thấy tỉ lệ SDD nhẹ cân ở nhóm

trẻ có cân nặng lúc đẻ < 2500g cao gấp 2,58 lần so với nhóm trẻ có cân nặng

lúc đẻ ≥ 2500g, sự khác biệt nay có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) [17]. Nghiên

cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Anh Vũ

(2017): cân nặng sơ sinh của trẻ thấp có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao gấp

3,88 lần (95%CI: 1,12 - 13,88) so với trẻ có cân nặng sơ sinh bình thường [47].

Viêm đường hô hấp, tiêu chảy kéo dài, sởi và cả sốt rét mức độ nhẹ có

liên quan đến SDD. Giữa nhiễm khuẩn và bệnh SDD có một vòng xoắn bệnh

lý luẩn quẩn: trẻ bị SDD dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn thứ phát

lại làm SDD nặng hơn [6]. Việc mắc các bệnh thông thường ở trẻ, trong đó có

bệnh tiêu chảy xuất phát từ tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm

bảo, khả năng tiếp cận các công trình vệ sinh cũng như sử dụng nước sạch còn

thấp. Khẩu phần ăn kiêng khem quá độ trong thời gian bị bệnh nhất là khi bị ỉa

chảy ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng và chiều cao của đứa trẻ. Nhiễm

khuẩn dẫn đến các tổn thương đường tiêu hóa do đó làm giảm hấp thu, đặc biệt

các vi chất, làm cho kháng nguyên và các vi khuẩn đi qua nhiều hơn. Nhiễm

khuẩn làm tăng hao hụt các chất dinh dưỡng, trẻ ăn kém hơn do giảm ngon

miệng. Người ta ước đoán rằng nhiễm khuẩn ảnh hưởng đến 30% sự giảm chiều

cao ở trẻ [51]. Nghiên cứu cho thấy: Trẻ thường xuyên có mắc bệnh bị SDD

63

thấp còi là 48,8%; cao hơn trẻ không mắc bệnh (34,0%). Có mối liên quan giữa

tiền sử mắc bệnh với SDD thấp còi (p < 0,05). Trẻ tiêm chủng không đầy đủ bị

SDD thấp còi là 52,3%; cao hơn trẻ tiêm chủng không đầy đủ, đúng lịch

(35,1%). Có mối liên quan giữa tiêm chủng không đầy đủ, đúng lịch với SDD

thấp còi (p < 0,05). Thực tế, trẻ nhỏ thường ăn không đủ số lượng, không cân

đối, hơn nữa trẻ cũng tiếp xúc nhiều với môi trường nên dễ nhiễm khuẩn. Nếu

trẻ bị nhiễm khuẩn, trẻ lại sẽ tăng nguy cơ bị SDD. Nghiên cứu cho thấy, trẻ bị

ốm trong thời gian khảo sát sẽ có nguy cơ bị SDD thể nhẹ cân cao hơn 4,2 lần

(95%CI: 2,3 - 7,6, p < 0,05) [60]. Nghiên cứu mô tả cắt ngang của Sulaiman

A.A và cs (2018) trên 1635 trẻ tại miền Bắc Sudan cho kết quả: trẻ bị nhiễm

khuẩn (triệu chứng bệnh đường ruột và đường hô hấp) và không tiêm vắc xin

đầy đủ có liên quan với SDD thể gầy còm (p = 0,007, p = 0,013 và p = 0,008)

[72]. Nghiên cứu của Abera Lamirot trên 398 trẻ từ 6 - 59 tháng tuổi cho kết

quả: trẻ bị tiêu chảy có nguy cơ mắc SDD thể gầy còm cao hơn 39,5 lần so với

trẻ bình thường (95%CI: 13,68 - 114,30) [50]. Nghiên cứu bệnh chứng trên 137

trẻ SDD và 137 trẻ bình thường của Wong Hui Jie và cs (2014) thấy trẻ nhiễm

giun có nguy cơ mắc SDD cao hơn 3,48 lần (95CI: 1,25 - 9,70) [82]. Nghiên

cứu của Ansuya và cs (2018) trên 570 trẻ cho kêt quả: trẻ tái phát tiêu chảy có

nguy cơ mắc SDD cao hơn 2,74 lần (95%CI: 1,56 - 4,82, p = 0,001); tái phát

ho và cảm lạnh có nguy cơ mắc SDD cao hơn 3,88 lần (95%CI: 1,96 - 7,67, p

= 0,001); trẻ biếng ăn có nguy cơ mắc SDD cao hơn 4,90 lần (95%CI: 3,03 -

7,93, p = 0,001); trẻ nhiễm giun có nguy cơ mắc SDD cao hơn 2,00 lần (95%CI:

1,19 - 3,38, p = 0,009) [53]. Nghiên cứu của Mazengia A.L. và cs (2018) cho

kết quả trẻ được tiêm chủng không đầy đủ có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao

hơn 5,6 lần (95%CI; 2,90 - 10,82) [65]. Như vậy rõ ràng, nghiên cứu của chúng

tôi cũng giống các nghiên cứu trước khi chứng minh được tình trạng nhiễm

khuẩn và không tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch là yếu tố liên quan với SDD thấp

còi.

64

KẾT LUẬN

1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc

Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018

- Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi SDD thấp còi chiếm cao 45,1%; SDD nhẹ cân

24,1% và SDD gầy còm 8,2%. Tỉ lệ trẻ bị SDD chung 50,4%.

- Tỉ lệ trẻ SDD thấp còi mức độ vừa 57,0%, mức độ nặng 43,0%.

- Tỉ lệ trẻ SDD thấp còi là nam giới 47,5%; nữ giới 42,4%.

- Tỉ lệ trẻ SDD thấp còi ở xã Lùng Tám là 43,8%; Cán Tỷ là 46,4%. Tỉ lệ

trẻ < 12 tháng bị SDD thấp còi là 39,1%; 12 - 23 tháng là 32,0%; 24 - 35

tháng 42,3%; 36 - 47 tháng 50,3% và 48 - 59 tháng 62,8%.

- Tỉ lệ trẻ đẻ đủ tháng bị SDD thấp còi 45,0%; trẻ thiếu tháng 46,2%. Tỉ lệ

hộ gia đình có kinh tế đủ ăn có con bị SDD thấp còi 42,0%; hộ cận nghèo

46,1% và hộ nghèo 50,4%.

2. Một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi

người dân tộc Mông

- Có mối liên quan giữa: kinh tế gia đình thuộc hộ nghèo, bố làm nông dân,

trình độ học vấn mẹ thấp, mẹ kết hôn < 18 tuổi, mẹ kết hôn cận huyết, mẹ

tăng < 10 kg trong thời kỳ mang thai, mẹ có nhiều con, thời điểm bú sữa

sau đẻ muộn, thời gian cai sữa sớm, trẻ nhẹ cân khi sinh, thường xuyên

mắc bệnh và không tiêm chủng đầy đủ với SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5

tuổi người dân tộc Mông (p < 0,05).

- Không có mối liên quan giữa: nghề nghiệp mẹ, thời điểm ăn bổ sung, giới

tính của trẻ với SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Mông (p

> 0,05).

65

KHUYẾN NGHỊ

1. Cần tuyên truyền vận động để người dân tích cực học tập nhằm nâng

cao trình độ học vấn; tuyên truyền và can thiệp để nâng cao tình trạng dinh

dưỡng bà mẹ; tuyên truyền và tiến tới xóa bỏ tình trạng tảo hôn, kết hôn cận

huyết tại địa bàn nghiên cứu nói riêng và trên toàn tỉnh Hà Giang nói

chung.

2. Ngành y tế cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe

về cho ăn bổ sung đúng, thời gian cai sữa đúng, bú sau đẻ đúng và tiêm chủng

đúng lịch, đầy đủ cho người Mông tại địa bàn nghiên cứu nói riêng và cho toàn

bộ cộng đồng tỉnh Hà Giang nói chung.

3. Tăng cường đẩy mạnh chương trình làm mẹ an toàn, chăm sóc bà mẹ

trong sinh để tăng tỉ lệ bà mẹ tăng cân từ 10 - 12 kg, tăng tỉ lệ khám đầy đủ

trong thời gian mang thai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Thị Hải Anh, Lê Thị Hợp (2006), "Tình trạng dinh dưỡng và một

số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tỉnh Lào Cai năm

2005", Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm, 2 (3+4), tr. 29-35.

2. Nguyễn Văn Bằng (2018), Thực trạng chương trình phòng chống suy dinh

dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang, Chuyên đề tốt

nghiệp Bác sĩ chuyên khoa I, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái

Nguyên.

3. Bộ môn Nhi - Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (2009),

Bệnh suy dinh dưỡng, Nhi khoa chương trình đại học, Nhà xuất bản Y học,

Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Bộ môn Nhi - Trường Đại học Y Hà Nội (2010), Bài giảng Nhi khoa, Nhà

xuất bản Y học, Hà Nội.

5. Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh

sản, Bộ Y tế, Hà Nội.

6. Bộ Y tế (2015), Bệnh suy dinh dưỡng do thiếu Protein - năng lượng, Hướng

dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em (Ban hành kèm

theo Quyết định số 3312/QĐ-BYT ngày 07/08/2015 của Bộ trưởng Bộ Y

tế), Bộ Y tế, Hà Nội.

7. Bộ Y tế (2015), Nuôi dưỡng trẻ nhỏ, Tài liệu dùng cho nhân viên y tế thôn

bản và công tác viên dinh dưỡng, Bộ Y tế, Hà Nội.

8. Bộ Y tế (2017), Niên giám thống kê y tế năm 2017, Nhà xuất bản Y học, Hà

Nội.

9. Bộ Y tế (2018), Quyết định số 718/QĐ-BYT: Quyết định Phê duyệt Kế hoạch

hành động Quốc gia về dinh dưỡng đến năm 2020, Bộ Y tế, Hà Nội.

10. Bộ Y tế, Nhóm đối tác y tế (2015), Báo cáo chung tổng quan ngành y tế

năm 2014: Tăng cường dự phòng và kiểm soát bệnh không lây nhiễm, Nhà

xuất bản Y học, Hà Nội.

11. Ngọc Xuân Chấn (2011), Thực trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi và

một số yếu tố liên quan tại xã Yên Hà, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang

năm 2011, Chuyên đề tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa I, Trường Đại học Y

Dược, Đại học Thái Nguyên.

12. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2018), Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm

2017, Cục thống kê tỉnh Hà Giang, Hà Giang.

13. Đinh Đạo (2014), Nghiên cứu thực trạng và kết quả can thiệp phòng chống

suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà

My tỉnh Quảng Nam, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược, Đại

học Huế.

14. Trần Văn Điển (2008), Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ của suy dinh

dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Núi Đồi - Kiến Thụy- Hải Phòng năm 2008, Đề tài

tốt nghiệp Bác sĩ chuyên khoa I, Trường Đại học Y Dược Hải Phòng.

15. Lê Cảnh Dũng, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Văn Sánh, et al. (2011), "Các yếu tố

ảnh hưởng đến suy dinh dưỡng trẻ em ở vùng sản xuất nông nghiệp ở Đồng

bằng sông Cửu Long", Tạp chí Khoa học, 20a, tr. 28-38.

16. Lương Thị Thu Hà (2008), Nghiên cứu thực trạng suy dinh dưỡng, thiếu

Protein, năng lượng ở trẻ em dươi 5 tuổi tại hai xã của huyện Phú Lương,

tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Y học dự phòng, Trường Đại học Y

Dược, Đại học Thái Nguyên.

17. Nguyễn Thanh Hà (2011), Hiệu quả bổ sung kẽm và Sprinkles đa vi chất

trên trẻ em 6 - 36 tháng tuổi suy dinh dưỡng thấp còi tại huyện Gia Bình,

tỉnh Bắc Ninh, Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng cộng đồng, Viện Dinh dưỡng

Quốc gia, Hà Nội.

18. Đỗ Hàm (2011), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y học,

Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

19. Lê Văn Hợi, Nguyễn Công Khẩn, Nguyễn Văn Hùng (2005), Báo cáo

nghiên cứu dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ thơ Việt Nam, Ủy ban dân số

gia đình và trẻ em Việt Nam, Ngân hàng phát triển Châu Á, Hà Nội.

20. Hoàng Thị Huế (2010), Đánh giá chương trình phòng chống suy dinh dưỡng

trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Dương Quang, Gia Lâm, Hà Nội giai đoạn 2008 -

2010, Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công cộng,

Hà Nội.

21. Lê Thị Hương, Hoàng Thị Hồng Nhung, Trần Thị Giáng Hương, và cs.

(2014), "Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại thành phố Phủ Lý,

tỉnh Hà Nam năm 2012 và một số yếu tố liên quan", Tạp chí Nghiên cứu Y

học, 87 (2), tr. 151-158.

22. Trần Thị Lan (2013), Hiệu quả của bổ sung đa vi chất và tẩy giun ở trẻ 12

- 36 tháng tuổi suy dinh dưỡng thấp còi, dân tộc Vân Kiều và Pakoh huyện

Dakrông, tỉnh Quảng Trị, Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng

Quốc gia, Hà Nội.

23. Hoàng Khải Lập, Hà Xuân Sơn, Nguyễn Minh Tuấn (2006), "Hiệu quả cải

thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em bằng giáo dục dinh dưỡng cộng đồng cho

các bà mẹ tại xã Nga My, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Dinh

dưỡng và thực phẩm, 2 (3+4), tr. 36-42.

24. Trần Thị Tuyết Mai (2013), Xây dựng và đánh giá hiệu quả mô hình truyền

thông đa dạng tại tuyến y tế cơ sở trong phòng chống suy dinh dưỡng trẻ

em tỉnh Khánh Hòa, Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng, Trường Đại hoc Y tế

công cộng, Hà Nội.

25. Trần Thị Tuyết Mai, Lê Thị Hợp, Vũ Hoàng Lan (2012), "Một số yếu tố

liên quan đến tình trạng dinh dưỡng trẻ từ 0-36 tháng tuổi tại các huyện

đồng bằng ven biển tỉnh Khánh Hòa", Tạp chí Nghiên cứu Y học, 80 (3B),

tr. 254-259.

26. Bùi Xuân Minh, Lê Tấn Phùng, Trần Ngọc Thành (2015), "Thực trạng dinh

dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc

Raglai tại hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa

năm 2013", Tạp chí Y tế công cộng, 37 (10), tr. 19-25.

27. Đặng Văn Nghiêm (2010), Tình trạng dinh dưỡng trẻ em 7-15 tuổi vùng

ven biển Thái Bình và hiệu quả của một số biện pháp can thiệp, Luận án

Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược Thái Bình.

28. Lê Phán (2008), Đánh giá kết quả phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới

5 tuổi dân tộc thiểu số tại 4 xã đặc biệt khó khăn huyện Khánh Vĩnh tỉnh

Khánh Hòa, Luận văn bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Dược,

Đại học Huế.

29. Hoàng Văn Phương (2018), Hiệu quả sử dụng hạt nêm, dầu ăn bổ sung vi

chất ở trẻ 36 - 59 tháng tuổi nguy cơ suy dinh dưỡng và suy dinh dưỡng

thấp còi tại huyện Thanh Liêm, Hà Nam, Luận án Tiến sĩ Y học, Viện Vệ

sinh Dịch tễ Trung Ương, Hà Nội.

30. Trần Thị Thanh (2016), Những yếu tố ảnh hưởng đến suy dinh dưỡng trẻ

em dưới 5 tuổi tại huyện Cư Kuin tỉnh Đắc Lắk năm 2012 và hiệu quả sau

01 năm can thiệp cộng đồng trên đồng bào dân tộc Ê đê, Luận án Tiến sĩ Y

học, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí

Minh.

31. Thủ tướng Chính phủ (2001), "Quyết định số 21/2001/QĐ-TTg: Quyết định

của Thủ tướng Chính phủ số 21/2001/QĐ-TTg ngày 22 tháng 02 năm 2001

về việc phê duyệt chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001

- 2010", Chính phủ.

32. Thủ tướng Chính phủ (2007), "Quyết định số 108/2007/QĐ-TTg: Quyết định

phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội,

bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006 - 2010", Chính phủ.

33. Thủ tướng Chính phủ (2015), "Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg: Quyết định

về việc ban hanh chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016

- 2020", Chính phủ.

34. Trung tâm Y tế huyện Quản Bạ (2018), "Báo cáo tổng kết công tác y tế năm

2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019", Trung tâm Y tế huyện Quản

Bạ.

35. Phùng Đức Tùng, Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, et al. (2017),

Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số, Ủy ban Dân

tộc, Hà Nội.

36. Phạm Duy Tường (2010), Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm, Nhà xuất bản

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

37. Lê Danh Tuyên, Lê Thị Hợp, Nguyễn Công Khẩn, và cs. (2011), "Xu hướng

tiến triển suy dinh dưỡng thấp còi và các giải pháp can thiệp trong giai đoạn

mới 2011-2020", Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm, 6 (3+4), tr. 15-24.

38. Đoàn Thị Ánh Tuyết (2012), "Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 2 tuổi và

thực hành nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ tại Hướng Hóa và Dakrong năm 2011",

Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 16 (Phụ bản của số 1), tr. 116-121.

39. United Nations Fund for Population Activities (2008), Sức khỏe sinh sản

của đồng bào Hmông tỉnh Hà Giang: Nghiên cứu Nhân học Y tế, United

Nations Fund for Population Activities Việt Nam, Hà Nội.

40. Nguyễn Thị Thanh Uyên, Võ Văn Toàn (2018), "Nghiên cứu về tình trạng

dinh dưỡng và các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ ở

một số trường mầm non trên địa bàn thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai", Tạp

chí Giáo dục, 6, tr. 126-131.

41. Viện dinh dưỡng Quốc gia - Bộ Y tế (2012), Chiến lược quốc gia về dinh

dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Nhà xuất bản Y

học, Hà Nội.

42. Viện dinh dưỡng Quốc gia (2011), Báo cáo tóm tắt tổng điều tra dinh duõng

năm 2009 - 2010, Viện dinh dưỡng Quốc gia, Hà Nội.

43. Viện dinh dưỡng Quốc gia (2014), Hà Giang: Thông tin giám sát dinh

dưỡng 2013, Viện dinh dưỡng Quốc gia, Hà Nội.

44. Viện dinh dưỡng Quốc gia (2015), Hà Giang: Thông tin giám sát dinh

dưỡng 2014, Viện dinh dưỡng Quốc gia, Hà Nội.

45. Viện dinh dưỡng Quốc gia (2016), Xu hướng giảm suy dinh dưỡng ở bà mẹ

và trẻ em dưới 5 tuổi năm 2000 - 2009. Trang web Viện Dinh dưỡng

http://www.viendinhduong.vn/FileUpload/Documents/So%20lieu%20DD2

02000-2009.pdf., Viện dinh dưỡng Quốc gia, Hà Nội.

46. Viện dinh dưỡng Quốc gia (2018), Báo cáo kết quả giám sát dinh dưỡng

quốc gia năm 2017, Viện dinh dưỡng Quốc gia, Hà Nội.

47. Nguyễn Anh Vũ (2017), Hiệu quả của bổ sung thực phẩm sẵn có đến tình

trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ 12 - 23 tháng tuổi huyện Tiên Lữ, tỉnh

Hưng Yên, Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Hà Nội.

48. Nguyễn Anh Vũ, Lê Thị Hương, Phạm Thị Thúy Hòa, và cs. (2013), "Kiến

thức và thực hành nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ của bà mẹ và tình trạng dinh

dưỡng của trẻ em từ 12 - 24 tháng tuổi tại huyện Tiên Lữ năm 2011", Tạp

chí Nghiên cứu Y học, 82 (2), tr. 148-154.

TIẾNG ANH

49. Abdulahi Ahmed, Sakineh Shab-Bidar, Shahabeddin Rezaei, et al. (2017),

"Nutritional Status of Under Five Children in Ethiopia: A Systematic

Review and Meta-Analysis", Ethiopian journal of health sciences, 27 (2),

pp. 175-188.

50. Abera Lamirot, Tariku Dejene, and Tariku Laelago (2017), "Prevalence of

malnutrition and associated factors in children aged 6-59 months among

rural dwellers of damot gale district, south Ethiopia: community based cross

sectional study", International journal for equity in health, 16 (1), pp. 111-

111.

51. Allen L. H. (1994), "Nutritional influences on linear growth: a general

review", Eur J Clin Nutr, 48 Suppl 1 pp. S75-89.

52. Amare, Desalegne Ayenew Negesse, Baye Tsegaye, et al. (2016),

"Prevalence of Undernutrition and Its Associated Factors among Children

below Five Years of Age in Bure Town, West Gojjam Zone, Amhara

National Regional State, Northwest Ethiopia", Advances in Public Health,

2016 pp. 8.

53. Ansuya, Baby S. Nayak, B. Unnikrishnan, et al. (2018), "Risk factors for

malnutrition among preschool children in rural Karnataka: a case-control

study", BMC public health, 18 (1), pp. 283-283.

54. Biswas S. and Bose K. (2010), "Sex differences in the effect of birth order

and parents' educational status on stunting: a study on Bengalee preschool

children from eastern India", Homo, 61 (4), pp. 271-276.

55. Black Robert E., Lindsay H. Allen, Zulfiqar A. Bhutta, et al. (2008),

"Maternal and child undernutrition: global and regional exposures and

health consequences", The Lancet, 371 (9608), pp. 243-260.

56. Das Sunanda and Jahida Gulshan (2017), "Different forms of malnutrition

among under five children in Bangladesh: a cross sectional study on

prevalence and determinants", BMC Nutrition, 3 (1), pp. 1.

57. Endris Neima, Henok Asefa, and Lamessa Dube (2017), "Prevalence of

Malnutrition and Associated Factors among Children in Rural Ethiopia",

BioMed research international, 2017 pp. 6587853-6587853.

58. Jomon John and Jomol John (2018), "Prevalence and risk factors associated

with underweight among under-five children in a rural area of Puducherry", Muller

Journal of Medical Sciences and Research, 9 (1), pp. 7-11.

59. Kang Y., Aguayo V. M., Campbell R. K., et al. (2018), "Nutritional status

and risk factors for stunting in preschool children in Bhutan", Matern Child

Nutr, 14 Suppl 4 pp. e12653.

60. Kejo Dyness, Theobald C. E. Mosha, Pammla Petrucka, et al. (2018),

"Prevalence and predictors of undernutrition among underfive children in

Arusha District, Tanzania", Food science & nutrition, 6 (8), pp. 2264-2272.

61. Khan Gul Nawaz, Ali Turab, Mohammad Imran Khan, et al. (2016),

"Prevalence and associated factors of malnutrition among children under-

five years in Sindh, Pakistan: a cross-sectional study", BMC Nutrition, 2

(1), pp. 69.

62. Lemeshow Stanley, David W Hosmer Jr, Janelle Klar, et al. (2013),

Adequacy of Sample Size in Health studies, John Wiley $ Sons, Chichester,

England.

63. Mahgoub Salah, Maria Nnyepi, and Theodore Bandeke (2005), "Factors

affecting prevalence of malnutrition among children under three years of

age in Botswana", African Journal of Food, Agriculture, Nutrition and

Development, 6 (1), pp. 34-43.

64. Mann J. and Truswell A. S (2002), Essentials of human nutrition, Oxford

University Press, Australia.

65. Mazengia Amare Lisanu and Gashaw Andargie Biks (2018), "Predictors of

Stunting among School-Age Children in Northwestern Ethiopia", Journal

of nutrition and metabolism, 2018 pp. 7521751-7521751.

66. Mgongo M., Chotta N. A. S., Hashim T. H., et al. (2017), "Underweight,

Stunting and Wasting among Children in Kilimanjaro Region, Tanzania; a

Population-Based Cross-Sectional Study", Int J Environ Res Public Health,

14 (5).

67. Mohseni M., Aryankhesal A., and Kalantari N. (2018), "Prevalence of

Malnutrition Among Iran’s Under Five-Year-Old Children and the Related

Factors: A Systematic Review and Meta-Analysis", Iran J Pediatr, 28 (1),

pp. e9189.

68. Phengxay M., Ali M., Yagyu F., et al. (2007), "Risk factors for protein-

energy malnutrition in children under 5 years: study from Luangprabang

province, Laos", Pediatr Int, 49 (2), pp. 260-265.

69. Pravana Nilesh Kumar, Suneel Piryani, Surendra Prasad Chaurasiya, et al.

(2017), "Determinants of severe acute malnutrition among children under 5

years of age in Nepal: a community-based case-control study", BMJ open,

7 (8), pp. e017084-e017084.

70. Rollet S. R., Gray E. S., Previl H., et al. (2014), "Prevalence of malnutrition

in children under five and school-age children in Milot Valley, Haiti",

Public Health, 128 (12), pp. 1094-1098.

71. Stevens G. A., Finucane M. M., Paciorek C. J., et al. (2012), "Trends in

mild, moderate, and severe stunting and underweight, and progress towards

MDG 1 in 141 developing countries: a systematic analysis of population

representative data", Lancet, 380 (9844), pp. 824-834.

72. Sulaiman Amel Abdalrhim, Sarra O. Bushara, Wadie M. Elmadhoun, et al.

(2018), "Prevalence and determinants of undernutrition among children

under 5-year-old in rural areas: A cross-sectional survey in North Sudan",

Journal of family medicine and primary care, 7 (1), pp. 104-110.

73. Talukder Ashis (2017), "Factors Associated with Malnutrition among

Under-Five Children: Illustration using Bangladesh Demographic and

Health Survey, 2014 Data", Children (Basel, Switzerland), 4 (10), pp. 88.

74. Tariku Eshetu Zerihun, Getaneh Alemu Abebe, Zeleke Aschalew

Melketsedik, et al. (2018), "Prevalence and factors associated with stunting

and thinness among school-age children in Arba Minch Health and

Demographic Surveillance Site, Southern Ethiopia", PloS one, 13 (11), pp.

e0206659-e0206659.

75. United Nations Children’s Fund (2013), Improving Child Nutrition: The

achievable imperative for global progress, UNICEF, New York.

76. United Nations Children’s Fund, World Health Organization, and World

Bank (2012), Level and trends in child malnutrition, Department of

Nutrition for Health and Development, Geneva, Switzerland.

77. United Nations Children’s Fund, World Health Organization, and World

Bank (2013), Level and trends in child malnutrition 2013, Department of

Nutrition for Health and Development, Geneva, Switzerland.

78. United Nations Children’s Fund, World Health Organization, and World

Bank (2015), Global Nutrition Report, Department of Nutrition for Health

and Development, Geneva, Switzerland.

79. United Nations Children’s Fund, World Health Organization, and World

Bank (2017), Level and trends in child malnutrition: Key findings of the

2017 edition, Department of Nutrition for Health and Development,

Geneva, Switzerland.

80. Victora Cesar G., Linda Adair, Caroline Fall, et al. (2008), "Maternal and

child undernutrition: consequences for adult health and human capital", The

Lancet, 371 (9609), pp. 340-357.

81. Wasihun A. G., Dejene T. A., Teferi M., et al. (2018), "Risk factors for

diarrhoea and malnutrition among children under the age of 5 years in the

Tigray Region of Northern Ethiopia", PLoS One, 13 (11), pp. e0207743.

82. Wong Hui Jie, Foong Ming Moy, and Sulochana Nair (2014), "Risk factors

of malnutrition among preschool children in Terengganu, Malaysia: a case

control study", BMC public health, 14 pp. 785-785.

83. World Health Organization (1981), Infant and young child feeding current

issue, World Health Organization, Geneva, Switzerland.

84. World Health Organization (2007), WHO global database on child growth

and malnutrition, World Health Organization, Geneva, Switzerland.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN

PHỤ LỤC

PHIẾU ĐIỀU TRA TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG

TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI HUYỆN QUẢN BẠ TỈNH HÀ GIANG NĂM 2018

(Khoanh tròn một đáp án đúng nhất với mỗi câu hỏi hoặc điền vào chỗ trống)

1. Thông tin chung về gia đình:

Câu hỏi

Mã trả lời

STT 1.

Họ và tên mẹ của trẻ

……………………………………

2.

Ngày tháng năm sinh

.…………/………/………………

3.

Dân tộc

1. Mông 2. Khác (ghi rõ):....................

4.

Nghề nghiệp chính của mẹ

1

Nông dân

(khoanh tròn 01 đáp án đúng)

2

Công nhân

3

Cán bộ, viên chức

4

Học sinh, sinh viên

5

Kinh doanh, buôn bán

6

Tự do, làm thuê

7

Thất nghiệp

1

Chưa hết tiểu học

5.

Trình độ học vấn của mẹ

2 Tiểu học (hết lớp 5)

(khoanh tròn 01 đáp án đúng)

THCS (hết lớp 9)

3

THPT (hết lớp 12)

4

Trung cấp trở lên

5

………. tuổi

Tuổi kết hôn lần đầu

6.

Có kết hôn cận huyết không

1. Có 2. Không

7.

………. tuổi

8.

Sinh con lần đầu năm bao nhiêu tuổi

………. con

9.

Tổng số con hiện có

………. con

10. Trong đó, số con dưới 5 tuổi

……… người

11. Tổng số thành viên trong gia đình

……………………………………

12. Họ và tên bố của trẻ

.…………/………/………………

13. Ngày tháng năm sinh

1. Mông 2. Khác (ghi rõ):....................

14. Dân tộc

STT

Câu hỏi

Mã trả lời

15.

Nghề nghiệp chính của bố

Nông dân

1

(khoanh tròn 01 đáp án đúng)

Công nhân

2

Cán bộ, viên chức

3

Học sinh, sinh viên

4

Kinh doanh, buôn bán

5

Tự do, làm thuê

6

Thất nghiệp

7

16.

Chưa hết tiểu học

Trình độ học vấn của bố (khoanh tròn 01 đáp án đúng)

1 2 Tiểu học (hết lớp 5) 3 4 5

THCS (hết lớp 9) THPT (hết lớp 12) Trung cấp trở lên

17.

1. Có ……… người 2. Không

Trong gia đình có ai bị tàn tật hay thường xuyên ốm nặng không?

18.

Xếp loại kinh tế hộ gia đình

Hộ trên trung bình Hộ trung bình Hộ cận nghèo Hộ nghèo

1 2 3 4

2. Các thông tin liên quan đến trẻ:

19.

Họ và tên trẻ

……………………………………

20.

Ngày tháng năm sinh của trẻ

.…………/………/………………

21.

Giới tính của trẻ

1. Nam 2. Nữ

22.

Cân nặng khi đẻ

Có cân: ……….. kg Không cân

1 2

23.

Nơi sinh trẻ

Tại nhà/nhà bà đỡ Tại Trạm xá xã Tại Bệnh viện

1 2 3

24.

Tuổi thai khi đẻ

Đủ tháng (≥ 37 tuần) Thiếu tháng (< 37 tuần)

1 2

25.

Tiền sử cuộc đẻ (khoanh tròn 01 đáp án đúng)

Đẻ thường Đẻ mổ không tai biến Đẻ khó, tai biến sản khoa

1 2 3

26.

Trẻ có được tiêm chủng đầy đủ không (kiểm tra thêm thông tin từ Trạm y tế xã)

Đầy đủ, đúng lịch Không đủ/không đúng lịch Không tiêm

1 2 3

27.

Trẻ được bú mẹ lần đầu khi nào?

Ngay sau đẻ Từ 12-24 giờ sau đẻ Trên 24 giờ sau đẻ

1 2 3

28.

Đầy đủ Không đầy đủ

1 2

Mẹ có được ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai và cho con bú không?

Số cân mẹ tăng trong thời kỳ mang thai

.....................kg

29.

30.

Mẹ có đủ sữa cho trẻ bú không?

Đủ Thiếu

1 2

31.

Nếu mẹ thiếu sữa thì trẻ được ăn gì thay thế? (có thể chọn nhiều ý)

Sữa ngoài Bột Nước cơm, nước cháo Khác (ghi rõ):.................................

1 2 3 4

32.

Trẻ có được uống sữa ngoài thường xuyên không?

Không/hiếm khi Thỉnh thoảng (cách ngày) Thường xuyên (hằng ngày)

1 2 3

33.

Trẻ được cai sữa khi nào

Dưới 12 tháng tuổi Từ 12 đến 18 tháng tuổi Từ 18 đến 24 tháng tuổi Trên 24 tháng tuổi

1 2 3 4

34.

Trẻ bắt đầu được ăn sam khi nào?

Dưới 5 tháng tuổi Từ 5 đến 6 tháng Trên 6 tháng

1 2 3

35.

Chế độ ăn sam của trẻ

Đủ các thành phần dinh dưỡng Thiếu chất dinh dưỡng Thừa chất dinh dưỡng

1 2 3

36.

Sức ăn của trẻ

Trẻ ăn tốt Trẻ ăn bình thường Trẻ ăn kém

1 2 3

37.

Người thường xuyên cho trẻ ăn nhất (khoanh tròn 01 đáp án đúng)

Bố, mẹ của trẻ Ông, bà của trẻ Cô giáo mầm non

1 2 3

Người chăm sóc trẻ

4

38.

Từ nhỏ đến nay trẻ hay mắc những bệnh chủ yếu nào? (có thể chọn nhiều đáp án trừ đáp án 1)

Không mắc bệnh gì Tiêu chảy Hô hấp, TMH Khác (ghi rõ): ……………………

1 2 3 4

39.

................. lần

Nếu có, trẻ mắc các bệnh trên mấy lần trong 01 năm

40.

Những bệnh cấp tính trẻ mắc trong 2 tuần qua? (có thể chọn nhiều đáp án trừ đáp án 1)

Không mắc bệnh gì Tiêu chảy Hô hấp, TMH Khác (ghi rõ):....…………………..

1 2 3 4

3. Đo các chỉ số nhân trắc của trẻ:

Cân nặng: ………,…. kg

Chiều cao: ………… cm

(Ghi chú: đo chiều cao đứng khi trẻ trên 2 tuổi, đo chiều cao nằm khi trẻ dưới 2 tuổi)

Xác nhận của Trạm y tế xã

(Ký tên, đóng dấu)

Ngày ……. tháng …… năm 2018 Người điều tra (Ký, ghi rõ họ tên)