BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------oo0oo----------
ĐẶNG THỊ QUỲNH ANH
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------oo0oo----------
ĐẶNG THỊ QUỲNH ANH
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 62.34.02.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.,TS. Đỗ Linh Hiệp
2. PGS.,TS. Hạ Thị Thiều Dao
TP. Hồ Chí Minh – NĂM 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là: Đặng Thị Quỳnh Anh
Sinh ngày: 15 tháng 08 năm 1980 – tại: Qui Nhơn – Bình Định
Hiện công tác tại: trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
Là học viên nghiên cứu sinh khóa 17 của Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí
Minh.
Cam đoan luận án với đề tài: Tác động của chính sách tiền tệ đến thị trường
chứng khoán Việt Nam
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính Ngân hàng; Mã số: 62.34.02.01
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.,TS. Đỗ Linh Hiệp
2. PGS.,TS. Hạ Thị Thiều Dao
Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có
tính độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn
bộ nội dung này bất kỳ ở đâu; các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận văn
được chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của tôi.
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm
Người cam đoan
ĐẶNG THỊ QUỲNH ANH
ii
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đỗ Linh Hiệp, PGS.TS
Hạ Thị Thiều Dao và PGS.TS Lê Thị Tuyết Hoa đã tận tình hướng dẫn, động
viên tôi trong suốt thời gian thực hiện luận án.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô Trường Đại
học Ngân hàng TP.HCM đã hướng dẫn và đóng góp những ý kiến quý báu giúp
tôi hoàn thành luận án này. Đặc biệt, tôi xin cảm ơn ban lãnh đạo Khoa tài chính
và các đồng nghiệp đã động viên, hỗ trợ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Cảm ơn gia đình, người thân luôn ở bên cạnh động viên, tạo động lực cho tôi trên
con đường học tập của mình.
Xin chân thành cảm ơn tất cả!
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm
ĐẶNG THỊ QUỲNH ANH
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục từ viết tắt vi
Danh mục bảng viii
Danh mục hình x
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ......................................... 1
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................... 1
1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ............................................... 3
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ...................................................................... 4
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU: .......................................................................... 4
1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................ 5
1.6 NGUỒN DỮ LIỆU ...................................................................................... 6
1.7 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU ...................................................................... 6
1.8 ĐIỂM MỚI CỦA NGHIÊN CỨU ............................................................... 7
1.9 KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN ........................................................................ 8
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN .................................................................... 9
2.1 TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ TTCK ........................... 9
2.1.1 Chính sách tiền tệ……………………………………………………….. 9
2.1.2 Thị trường chứng khoán…………………………………………………17
2.2 TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN TTCK ........................ 23
2.2.1 Tác động của chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu……………………….23
2.2.2 Tác động của chính sách tiền tệ đến thanh khoản TTCK………………..27
2.3 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ........................................... 35
2.3.1 Một số nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới …………………………..35
2.3.2 Một số nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam……………………………41
iv
Kết luận chương 2 …………………………………………………………………45
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................... 46
3.1 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................................................... 46
3.1.1 Mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đến giá cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam…………………………………47
3.1.2 Mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đến thanh
khoản thị trường chứng khoán Việt Nam………………………….………….50
3.2 BIẾN NGHIÊN CỨU ................................................................................ 53
3.2.1 Biến số đại diện cho chính sách tiền tệ…………………………………53
3.2.2 Biến số đo lường giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán……………54
3.2.3 Các biến số kinh tế vĩ mô………………………………………………..54
3.2.4 Các biến số đo lường thanh khoản thị trường cổ phiếu………………….56
3.2.5 Các biến ngoại sinh………………………………………………………57
3.3 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU……………………………………………..….58
3.4 NGUỒN DỮ LIỆU…………………………………………………………….59
Kết luận chương 3………………………………………………………………….62
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................... 63
4.1 DIỄN BIẾN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2002-2016...........................................................................................................63
4.1.1 Diễn biến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam………......63
4.1.2 Quá trình phát triển của TTCK Việt Nam giai đoạn 2002 - 2016……….67
4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN GIÁ CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM ......................................................................................... 72
4.2.1 Thống kê mô tả các biến số trong mô hình……………………………..72
4.2.2 Tính dừng và sai phân của dữ liệu………………………………………73
4.2.3 Độ trễ tối ưu và các kiểm định mô hình SVAR…………………………74
4.2.4 Thảo luận kết quả nghiên cứu mô hình SVAR………………………….76
v
4.3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
ĐẾN THANH KHOẢN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ........ 91
4.3.1 Tổng quan về thanh khoản thị trường chứng khoán Việt Nam………….91
4.3.2 Thống kê mô tả các biến số trong mô hình VAR……………………….93
4.3.3 Tính dừng, sai phân của dữ liệu và độ trễ của mô hình………………….93
4.3.4 Kết quả ước lượng về tác động của chính sách tiền tệ đến từng đặc tính
thanh khoản thị trường chứng khoán Việt Nam………………………………95
Kết luận chương 4…………………………………………………………….......113
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH .......................... 114
5.1 KẾT LUẬN TỪ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................... 114
5.1.1 Tác động của chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam…..114
5.1.2 Tác động của chính sách tiền tệ đến thanh khoản TTCK Việt Nam…..115
5.1.3 Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ đối với giá cổ phiếu và thanh khoản
thị trường chứng khoán Việt Nam……………………………………………118
5.2 KHUYẾN NGHỊ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ..................... 121
5.2.1 Chuyển từ kiểm soát cung tiền sang kiểm soát lãi suất…………………122
5.2.2 Điều hành CSTT theo hướng ổn định giá cả, ổn định tài chính……….122
5.2.3 Kết hợp với các cơ quan khác hỗ trợ cho sự phát triển của TTCK…….125
5.3 KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ ĐẦU TƯ ........................................... 126
5.4 HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO CỦA LUẬN ÁN ….. 127
Kết luận chương 5………………………………………………………………...129
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 131
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh
Trung tâm Phân tích Thông tin khu ARIC Asia Regional Integration Center vực châu Á
CPI Chỉ số giá hàng tiêu dùng Consumer Price Index
CTCK Công ty chứng khoán Securities Company
GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product
ECB Ngân hàng Trung ương Châu Âu European Central Bank
FED Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ Federal Reserve System
IFS Thống kê tài chính quốc tế International Financial Statistics
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế International Monetary Fund
Chỉ số sản xuất công nghiệp Industrial Production Index IPI
Cung tiền mở rộng M2 Broad Money M2 M2
SVAR Tự hồi qui vectơ cấu trúc Structural Vector Autoregression
Sở giao dịch chứng khoán Thành Ho Chi Minh Stock Exchange HSX phố Hồ Chí Minh
HNX Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội Ha Noi Stock Exchange
NHNN Ngân hàng Nhà nước State Bank of Vietnam
CSTT Chính sách tiền tệ Monetary Policy
NHTM Ngân hàng thương mại Commercial Bank
NHTW Ngân hàng trung ương Central Bank
SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
vii
TCTD Tổ chức tín dụng
TTCK Thị trường chứng khoán
TTTP Thị trường trái phiếu
TTCP Thị trường cổ phiếu
TTTC Thị trường tài chính
TSSL Tỷ suất sinh lời
UBCKNN Ủy ban chứng khoán nhà nước State Securities Commission
VAR Tự hồi qui vectơ Vector Autoregression
VECM Mô hình vector hiệu chỉnh sai số Vector Error Correction Model
VNI Chỉ số giá chứng khoán Việt Nam VN-Index
VSD Trung tâm lưu ký chứng khoán Vietnam Securities Depository
viii
DANH MỤC BẢNG
Số Tên bảng Trang bảng
2.1 Tổng hợp các nghiên cứu ngoài nước 39
2.2 Tổng hợp các nghiên cứu trong nước 43
Kỳ vọng tác động của các biến CSTT lên các biến thanh khoản 58 3.1 TTCK
3.2 Tổng hợp các biến số được sử dụng trong mô hình 60
4.1 Mục tiêu cuối cùng của CSTT Việt Nam giai đoạn 2002-2016 63
4.2 Mục tiêu trung gian của CSTT Việt Nam giai đoạn 2002-2016 65
4.3 Tăng trưởng hàng hóa trên TTCK Việt Nam 69
4.4 Thống kê mô tả các biến trong mô hình SVAR 73
4.5 Kết quả kiểm định ADF và PP các chuỗi dữ liệu mô hình SVAR 74
4.6 Xác định độ trễ tối ưu của mô hình SVAR 75
Phân rã phương sai giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng 82 4.7 12/2007
Một số chỉ tiêu cơ bản của TTCK Việt Nam giai đoạn 2002 – 84 4.8 2007
Phân rã phương sai giai đoạn từ tháng 12/2007 đến tháng 86 4.9 12/2016
Một số chỉ tiêu cơ bản của TTCK Việt Nam giai đoạn 2008 – 90 4.10 2016
4.11 Thống kê mô tả các biến trong mô hình VAR 93
ix
4.12 Kết quả kiểm định ADF và PP các chuỗi dữ liệu mô hình VAR 94
4.13 Độ trễ tối ưu của các mô hình VAR 94
4.14 Phân rã phương sai các biến số mô hình VAR01 99
4.15 Phân rã phương sai các biến số mô hình VAR02 103
4.16 Phân rã phương sai các biến số mô hình VAR03 105
4.17 Phân rã phương sai của mô hình VAR04 và VAR05 109
4.18 Phân rã phương sai các biến số mô hình VAR06 110
Chiều hướng tác động của các yếu tố CSTT đến thanh khoản 116 5.1 TTCK Việt Nam
Tình hình hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết 2015- 119 5.2 2016
x
DANH MỤC HÌNH
Số Tên hình Trang hình
2.1 Mối liên hệ giữa các mục tiêu và công cụ của chính sách tiền tệ 10
4.1 Giá trị cổ phiếu niêm yết và giá trị vốn hóa TTCK Việt Nam 68
Tỷ lệ giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu một số quốc gia trong 69 4.2 khu vực giai đoạn 2002 – 2016 (%GDP)
4.3 Tăng trưởng tài khoản giao dịch trên TTCK Việt Nam 71
4.4 Phản ứng tích lũy của VNI do sốc các biến số trong mô hình 77
Phản ứng tích lũy của giá và sản lượng do sốc cung tiền và lãi 79 4.5 suất
Phản ứng tích lũy của các biến số chính sách tiền tệ do thay đổi 80 4.6 giá cổ phiếu
4.7 Lãi suất liên ngân hàng, M2 và VNI giai đoạn 2002-2007 83
4.8 Lãi suất liên ngân hàng, M2 và VNI giai đoạn 2008-2016 88
4.9 Diễn biến thanh khoản TTCK Việt Nam 92
Khối lượng cổ phiếu niêm yết và tài khoản nhà đầu tư từ 2002 - 96 4.10 2016
4.11 Phản ứng tích lũy của Zeros 97
4.12 Phản ứng của các biến số CSTT do sốc Zeros 98
4.13 Giá trị giao dịch cổ phiếu và cung tiền M2 giai đoạn 2002-2016 100
xi
Phản ứng tích lũy của giá trị giao dịch đối với cú sốc biến số 102 4.14 chính sách tiền tệ, sản lượng và lạm phát
Phản ứng tích lũy của tỷ lệ thanh khoản đối với cú sốc biến số 104 4.15 chính sách tiền tệ
Tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu TTCK Việt Nam giai đoạn 2002- 106 4.16 2016
4.17 Chỉ số MLI của TTCK Việt Nam giai đoạn 2002 -2016 107
4.18 Phản ứng tích lũy của Turnover và MLI đối với cú sốc CSTT 108
4.19 Phản ứng tích lũy của Ailliq đối với cú sốc chính sách tiền tệ 110
5.1 Diễn biến cung tiền và VNI giai đoạn 2015 – 2016 106
5.2 Diễn biến cung tiền và giá trị giao dịch giai đoạn 2015 – 2016 120
5.3 Diễn biến cung tiền và giá trị giao dịch giai đoạn 2015-2016 121
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục tiêu chủ yếu của CSTT là ổn định giá cả, tăng trưởng sản lượng và tạo công ăn
việc làm. Để đạt được mục tiêu này NHTW có thể sử dụng các công cụ của CSTT
như thay đổi lãi suất, điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, CSTT còn tác động
đến nền kinh tế qua tác động đến thị trường tài chính, đặc biệt là TTCK. CSTT tác
động đến quyết định phân bổ tài sản của nhà đầu tư, từ đó lan rộng ra nền kinh tế.
Theo Bernanke và Gertler (2000), quyết định nên mua hay bán chứng khoán của nhà
đầu tư phụ thuộc vào ba nhân tố: (i) chính sách cổ tức hiện tại và tương lai của công
ty; (ii) sự thay đổi lãi suất ngắn hạn; (iii) các rủi ro liên quan đến từng loại tài sản.
Việc điều hành CSTT của NHTW tác động đến cả ba nhân tố trên. Chẳng hạn như
bằng cách thay đổi lãi suất ngắn hạn, NHTW phát đi tín hiệu cho các nhà đầu tư về
nền kinh tế hiện tại và dự báo trong tương lai, từ đó tác động đến quyết định mua bán
cổ phiếu trên TTCK. Các quyết định này sẽ tác động làm thay đổi giá cổ phiếu trên
thị trường, từ đó tác động trở lại đến việc phân bổ tài sản trong toàn bộ nền kinh tế.
Trong nền kinh tế hiện nay, hầu hết mọi cá nhân đều có liên hệ trực tiếp hoặc gián
tiếp đến TTCK. Để quyết định nên mua hay bán cổ phiếu nào nhà đầu tư cần ước
lượng tỷ suất sinh lời kỳ vọng cũng như rủi ro khi đầu tư vào từng cổ phiếu. Trong
khi đó, các công ty khi huy động vốn từ việc bán cổ phiếu ra công chúng cũng cần
quyết định nên bán ở mức giá nào và bán lượng cổ phiếu bao nhiêu. Các nhà hoạch
định chính sách cần hiểu rõ cơ chế tác động của thay đổi trong điều hành chính sách
tiền tệ đến thị trường chứng khoán, từ đó kết hợp mục tiêu ổn định thị trường chứng
khoán với mục tiêu hiện tại. Nghiên cứu của Bernanke và Gertler (2000) cho thấy các
nhà hoạch định CSTT nên duy trì sự ổn định của mức giá cả hàng hóa trong nền kinh
tế để tránh tác động mạnh đến giá cổ phiếu trên TTCK.
2
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua hơn 17 năm hình thành và phát triển
với những bước tiến vượt bậc về mọi mặt. Từ một trung tâm giao dịch chứng khoán
với 2 cổ phiếu niêm yết, hiện nay đã có hai Sở Giao Dịch Chứng khoán (SGDCK) với
hơn 700 cổ phiếu niêm yết, giá trị vốn hóa thị trường từ 986 tỷ đồng năm 2000
(0,01%/GDP) đã tăng lên 1.765.000 tỷ đồng năm 2016, tương đương 42%/GDP. Gần
1.000 đợt huy động vốn của các công ty niêm yết đã được thực hiện trên hai SGDCK
với lượng vốn huy động từ đấu giá cổ phần đạt gần 80.000 tỷ đồng (UBCKNN, 2016).
TTCK dần trở thành một kênh huy động vốn và kênh đầu tư thu hút được sự quan
tâm của các cơ quan quản lý, nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, trong suốt thời gian qua có những lúc TTCK tăng trưởng quá nhanh (điển hình
giai đoạn 2006 -2007) nhưng lại có lúc giảm rất sâu (2008) nên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến các nhà đầu tư, công ty chứng khoán và các nhà cung cấp dịch vụ tài chính
cho thị trường. Hàng loạt các nhà đầu tư bị thua lỗ, các CTCK phải đóng cửa, giá trị
giao dịch giảm mạnh.
Để tìm hiểu những nhân tố chủ yếu nào đã tác động mạnh đến TTCK Việt Nam, có rất
nhiều đề tài nghiên cứu được thực hiện trong từng giai đoạn nhất định với các cách tiếp
cận khác nhau. Cách tiếp cận thứ nhất là phân tích thực trạng hoạt động của TTCK
trong khoảng thời gian ngắn (1-2 năm) từ đó đưa ra một số giải pháp mang tính tức
thời hoặc phù hợp với giai đoạn nghiên cứu. Chẳng hạn như nghiên cứu của Nguyễn
Sơn (2003), Đặng Văn Hải (2007), Hoàng Xuân Quế (2007), Trần Trọng Triết (2008),
Nguyễn Thị Mùi (2009), Nguyễn Đình Tài (2009), Lê Hải Trà (2009), Lê Hoàng Nga
(2009), Trần Hoàng Ngân (2009), VAFI (2012), Đoàn Ngọc Hoàn (2013).
Cách tiếp cận thứ hai là nghiên cứu định lượng theo giai đoạn dài hơn nhằm đánh giá
tác động của một số biến vĩ mô như: lạm phát, tỷ giá, cung tiền, lãi suất, sản lượng
công nghiệp đối với giá cổ phiếu, tỷ suất sinh lợi hoặc thanh khoản của thị trường
như: Trần Thị Xuân Anh và Ngô Thị Hằng (2012), Phan Đình Nguyên và Hà Minh
Phước (2012), Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dương Phương Thảo (2013), Nguyễn
Hữu Huy Nhựt (2013), Thân Thị Thu Thủy và Võ Thị Thùy Dương (2014), Trần Thị
Hải Lý (2015), Lê Đạt Chí (2015) ... Hầu hết đây là các nghiên cứu trên bước đầu đã
3
giúp cho nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư thấy được tác động của các
nhân tố vĩ mô đến TTCK, từ đó có thể dự báo những thay đổi của giá cổ phiếu, thanh
khoản của thị trường khi các nhân tố đó thay đổi. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả
chưa có nghiên cứu định lượng nào trên TTCK đánh giá tác động của CSTT đến TTCK
một cách tổng thể về giá và thanh khoản. Vì vậy, luận án được thực hiện nhằm làm rõ
hơn cơ chế và mức độ tác động của thay đổi các yếu tố của chính sách tiền tệ đến giá cổ
phiếu và thanh khoản cổ phiếu trên TTCK Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp định
hướng cho sự phát triển của thị trường và đưa ra một số gợi ý cho các nhà đầu tư trên
TTCK.
1.2 MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
- Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là xác định mức độ và chiều hướng tác động của
chính sách tiền tệ đến TTCK Việt Nam ở hai góc độ là: tác động đến giá cổ phiếu và
tác động đến thanh khoản thị trường. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị cho các nhà
hoạch định chính sách về các giải pháp hỗ trợ sự phát triển của TTCK, đồng thời giúp
nhà đầu tư hiểu rõ hơn về cơ chế tác động của điều hành CSTT đến TTCK và điều
chỉnh hành vi giao dịch cho phù hợp.
- Mục tiêu cụ thể
Từ mục tiêu tổng quát trên, luận án được thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu cụ
thể sau:
Xác định được chiều hướng tác động của các yếu tố trong chính sách tiền tệ
đến giá cổ phiếu và thanh khoản TTCK Việt Nam.
Xác định được mức độ tác động của các yếu tố trong chính sách tiền tệ đến
giá cổ phiếu và thanh khoản TTCK Việt Nam.
Làm rõ cơ chế tác động của điều hành CSTT đến giá cổ phiếu và thanh khoản
TTCK Việt Nam
4
Đề xuất các khuyến nghị đối với nhà hoạch định chính sách nhằm hỗ trợ sự
phát triển của TTCK. Khuyến nghị đối với nhà đầu tư nhằm gia tăng lợi
nhuận, giảm thiểu rủi ro.
- Câu hỏi nghiên cứu
CSTT có tác động đến giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam không? Nếu có thì
chiều hướng và mức độ tác động của các yếu tố trong CSTT đến giá cổ phiếu
trên TTCK Việt Nam như thế nào?
CSTT có tác động đến thanh khoản TTCK Việt Nam không? Nếu có thì chiều
hướng và mức độ tác động của các yếu tố trong CSTT đến thanh khoản thị
trường như thế nào?
Cơ chế tác động của CSTT đến giá cổ phiếu và thanh khoản TTCK được thể
hiện như thế nào?
Các khuyến nghị nào đối với nhà hoạch định chính sách nhằm hỗ trợ cho sự
phát triển của TTCK?
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác động của chính sách tiền tệ đến TTCK Việt
Nam trên hai khía cạnh là giá cổ phiếu và thanh khoản của thị trường. Trong đó chỉ
số giá chứng khoán Việt Nam (VNI) được sử dụng là đại diện của giá cổ phiếu trên
TTCK. Thanh khoản TTCK được xem xét trên 4 khía cạnh gồm tính tức thời, độ rộng,
độ sâu và độ đàn hồi. Chính sách tiền tệ được điều hành bởi NHNN Việt Nam.
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Về không gian: TTCK được nghiên cứu là thị trường giao dịch cổ phiếu niêm
yết, với đại diện là SGDCK TP.HCM (HSX). Sở dĩ HSX được lựa chọn làm đại
diện cho TTCK Việt Nam là vì: mặc dù trên thị trường có hai SGDCK là HSX
và HNX nhưng HSX được thành lập đầu tiên, lượng giá trị giao dịch hàng ngày
lớn hơn nhiều lần. Ngoài ra, theo tính toán của tác giả, hệ số tương quan của các
5
chỉ số chứng khoán VN-Index và HNX-Index là lớn hơn 0,9. Vì vậy, nghiên
cứu trên HSX mang tính đại diện cho toàn thị trường.
- Về thời gian: luận án nghiên cứu tác động của các yếu tố CSTT đến TTCK Việt
Nam trong khoảng thời gian từ tháng 01/2002 đến tháng 12/2016. Sở dĩ luận án
chọn nghiên cứu về TTCK bắt đầu từ năm 2002 là do trong khoảng thời gian từ
2000- 2001 TTCK Việt Nam mới bắt đầu hoạt động chỉ với 5 công ty niêm yết,
giá trị vốn hóa thị trường nhỏ hơn 1% GDP, giá trị giao dịch hàng ngày chỉ vài
tỷ đồng, thị trường chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công
chúng. Do đó, sự thay đổi trong điều hành CSTT không tác động đáng kể đến
thị trường.
1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu là lượng hóa tác động của CSTT đến TTCK Việt
Nam, tác giả sử dụng phương pháp phân tích định lượng với mô hình được sử dụng
khá phổ biến trong nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa hoạt động kinh tế,
chính sách tiền tệ và TTCK là mô hình tự hồi quy vector (VAR).
- Để đánh giá chiều hướng và mức độ tác động của các yếu tố CSTT đến giá cổ
phiếu trên TTCK Việt Nam, mô hình VAR cấu trúc được sử dụng (Structural
VAR - SVAR). Đây là mô hình được các nghiên cứu gần đây trên thế giới sử
dụng như Ben Naceur và ctg (2007), Laopodis (2010), Li và ctg (2010)… khi
nghiên cứu về tác động của CSTT đến giá cổ phiếu trên TTCK.
- Để lượng hóa tác động của các yếu tố CSTT đến thanh khoản TTCK Việt Nam,
mô hình VAR dạng rút gọn (Reduced form VAR- RVAR) được sử dụng. Các
nghiên cứu của Chordia và cộng sự (2005), Söderberg (2008), Goyenko và Ukhov
(2009), Fernández – Amador và cộng sự (2013)… đều sử dụng mô hình này để
nghiên cứu về tác động của CSTT đến thanh khoản TTCK tại các quốc gia trong
nhiều giai đoạn khác nhau.
Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, phân tích tổng hợp,
phân tích so sánh để phân tích tổng quan về điều hành CSTT Việt Nam, đánh giá thực
6
trạng TTCK Việt Nam hiện nay làm cơ sở cho việc xây dựng mô hình và lý giải các
kết quả ước lượng.
1.6 NGUỒN DỮ LIỆU
Luận án sử dụng dữ liệu thứ cấp, tần suất tháng trong giai đoạn từ tháng 01/2002 đến
tháng 12/2016 từ các nguồn đáng tin cậy như: Ủy ban chứng khoán nhà nước, Sở giao
dịch chứng khoán TP.HCM, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, NHNN, Thống kê Tài
chính Quốc tế (IFS) của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Trung tâm phân tích khu vực châu Á
(ARIC) và một số website có uy tín trên thị trường chứng khoán như Cafef, Stox Plus.
1.7 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU
Các nghiên cứu Lý thuyết về tác - Thực tế điều hành CSTT của NHNN thực nghiệm trong động của CSTT đến - Thực tế phát triển của và ngoài nước TTCK TTCK Việt Nam
Xây dựng mô hình SVAR
- Định dạng cú sốc cấu trúc - Mô tả biến số, nguồn dữ liệu
Đánh giá mức độ tác động của
Xây dựng mô hình VAR - Mô tả biến số, nguồn dữ liệu - Các kiểm định của mô hình
CSTT đến giá cổ phiếu - Đánh giá mức độ thanh khoản TTCK Việt Nam theo 4 đặc tính - Đán giá mức độ tác động của CSTT
đến thanh khoản TTCK Chỉ ra chiều hướng tác động của - Chỉ ra chiều hướng tác động của CSTT đến giá cổ phiếu CSTT đến thanh khoản TTCK
- Đưa ra khuyến nghị đối với nhà điều hành CSTT
7
1.8 ĐIỂM MỚI CỦA NGHIÊN CỨU
Đề tài đã thực hiện hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về tác động của CSTT đến TTCK
với nhiều quan điểm khác nhau. Ngoài ra, các hướng tiếp cận khi nghiên cứu về tác
động của CSTT đến TTCK tại các quốc gia có thị trường tài chính đã phát triển cũng
như đang phát triển được hệ thống, phân tích và trình bày khá đầy đủ. Từ đó đưa ra
bức tranh khái quát về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên thế giới và tại
Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu về tác động của CSTT đến TTCK ở cả hai góc độ là giá cổ phiếu
và thanh khoản thị trường. Vấn đề này chưa được xem xét toàn diện trong các nghiên
cứu trước đó ở Việt Nam. Trên thực tế, các nghiên cứu về thanh khoản TTCK còn
khá ít và mới, đề tài đã tiến hành tính toán tỉ mỉ các thước đó thanh khoản, đánh giá
thực trạng thanh khoản của TTCK Việt Nam và chỉ ra tác động của các biến số CSTT
đến từng thước đo thanh khoản.
Đề tài nghiên cứu đã chỉ ra cơ chế tác động của điều hành CSTT đến giá cổ phiếu và
thanh khoản TTCK Việt Nam. Trong đó, việc gia tăng cung tiền của NHNN đã tác
động làm giảm lãi suất thị trường, giảm chi phí sử dụng nợ vay cho các doanh nghiệp
từ đó làm gia tăng lợi nhuận cho các công ty niêm yết. Đồng thời việc giảm lãi suất
còn tác động làm tăng cầu cổ phiếu từ phía các nhà đầu tư, do đó làm tăng giá cổ
phiếu, tăng giá trị giao dịch cổ phiếu trên TTCK.
Một số khuyến nghị về điều hành chính sách tiền tệ đưa ra xuất phát từ kết quả nghiên
cứu của luận án đó là: NHNN cần công bố và sử dụng lãi suất liên ngân hàng là mục
tiêu hoạt động trong điều hành CSTT; chuyển từ kiểm soát lượng tiền sang kiểm soát
lãi suất. Cần điều hành CSTT theo định hướng ổn định lạm phát, ổn định tài chính.
Vì khi lạm phát được duy trì một mức ổn định trong thời gian dài không những hỗ
trợ cho sự phát triển của nền kinh tế, tạo công ăn việc làm mà còn thúc đẩy sự phát
triển ổn định của TTCK Việt Nam.
8
1.9 KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Luận án được cấu trúc thành 5 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu. Chương này tập trung giới thiệu
tổng quát về vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu,
phạm vi nghiên cứu, cấu trúc và điểm mới của nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về tác động của chính sách tiền tệ đến thị trường
chứng khoán. Chương này trình bày lý thuyết tổng quan về chính sách tiền tệ, thị
trường chứng khoán cũng như cơ sở lý thuyết về tác động của CSTT đến giá cổ
phiếu và thanh khoản TTCK. Đồng thời, giới thiệu một số nghiên cứu thực nghiệm
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
Chương 3: Mô hình và phương pháp nghiên cứu. Trong chương này giới thiệu
về phương pháp nghiên cứu và mô hình định lượng được sử dụng nhằm đánh giá
tác động của chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu và thanh khoản TTCK Việt Nam.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận. Trong chương này trình bày kết
quả từ các mô hình hồi quy và phân tích kết quả nghiên cứu nhằm làm rõ tác động
của CSTT đến TTCK Việt Nam.
Chương 5: Kết luận và khuyến nghị chính sách. Chương này trình bày tóm tắt
các kết quả nghiên cứu đã đạt được, từ đó đề xuất một số khuyến nghị cho nhà
hoạch định chính sách tiền tệ.
9
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Trong chương này trình bày các vấn đề lý luận cơ bản về chính sách tiền tệ, thị trường
chứng khoán và tác động của các biến số chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu cũng như
thanh khoản thị trường chứng khoán. Đồng thời, tổng hợp kết quả của một số nghiên
cứu thực nghiệm trên thế giới và tại Việt Nam, từ đó làm cơ sở để lựa chọn mô hình
nghiên cứu ở các chương tiếp theo.
2.1 TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
2.1.1 Chính sách tiền tệ
2.1.1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa là hai chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng
giúp nhà điều hành đạt được các mục tiêu kinh tế đã đặt ra, trong đó CSTT được thực
thi bởi NHTW. Theo (Mishkin, 2013) CSTT là quá trình quản lý cung tiền của
NHTW nhằm đạt được những mục tiêu nhất định như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn
định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
Các NHTW cũng có quan niệm tương tự các nhà nghiên cứu khi điều hành CSTT,
chẳng hạn như FED quan niệm CSTT là những hành động tác động vào tính sẵn có và
chi phí của tiền và tín dụng nhằm đạt được những mục tiêu được Quốc hội lựa chọn
(Labonte và Makinen, 2008); NHTW Châu Âu xác định CSTT là những hành động
được NHTW thực hiện bằng cách sử dụng các công cụ chính sách nhằm đạt được các
mục tiêu sách mà cụ thể là ổn định giá cả với mức lạm phát mục tiêu là 2% (European
Central Bank, 2016). Còn theo luật NHNN Việt Nam năm 2010, CSTT được qui định
là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao
10
gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát,
quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.
Như vậy, CSTT đang được các nhà nghiên cứu và nhà điều hành chính sách quan
niệm thống nhất là quá trình NHTW sử dụng các công cụ để điều tiết cung tiền, tín
dụng và lãi suất trong nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu về ổn định giá trị đồng
tiền, tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm.
2.1.1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ
CSTT thông thường có ba loại mục tiêu: mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung gian và
mục tiêu hoạt động. Trong đó, mục tiêu cuối cùng cho biết đích đến cuối cùng của
điều hành CSTT; mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động còn được gọi là các mục
tiêu điều hành được xác định trong mối quan hệ mật thiết với mục tiêu cuối cùng
nhằm hỗ trợ đạt mục tiêu cuối cùng (Hình 2.1).
Hình 2.1. Mối liên hệ giữa các mục tiêu và công cụ của CSTT
Công cụ của NHTW Mục tiêu hoạt động Mục tiêu trung gian Mục tiêu cuối cùng
-Ổn định tiền tệ -Tăng trưởng kinh - Nghiệp vụ thị tế - Tiền cơ sở;
trường mở -Lãi suất liên
ngân hàng - Khối tiền tệ (M1, M2, M3) - Lãi suất thị trường (ngắn hạn hoặc dài hạn) - Tái chiết khấu -Dự trữ bắt buộc
- Việc làm cao - Ổn định thị trường tài chính - Ổn định lãi suất - Ổn định thị trường ngoại hối
Nguồn: Mishkin (2013)
- Mục tiêu cuối cùng
Chính sách tiền tệ là một bộ phận chính sách kinh tế của nhà nước do đó mục tiêu của
chính sách tiền tệ thường gắn liền với mục tiêu chung của quốc gia đó. Các nhà kinh
tế học như Mishkin (2013), Cecchetti và ctg (2015) đều cho rằng các mục tiêu cuối
11
cùng thường được các NHTW lựa chọn bao gồm: ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh
tế, việc làm cao, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và các định chế tài
chính, ổn định tỷ giá.
Ổn định tiền tệ
Theo Cecchetti và ctg (2015) ổn định tiền tệ là ổn định sức mua của tiền tệ và ổn định
giá cả. Sức mua của tiền tệ là lượng hàng hóa mà một đồng tiền có thể trao đổi được,
đồng tiền trao đổi được càng nhiều hàng hóa, nó càng có giá trị và ngược lại. NHTW
thường lượng hóa mục tiêu này bằng tỷ lệ tăng của chỉ số giá tiêu dùng.
Ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh tế của quốc
gia vì nó giúp việc dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô dễ dàng
hơn. Một mức lạm phát thấp và ổn định sẽ tạo môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu
cầu đầu tư và đảm bảo phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả (Mishkin, 2013).
Lạm phát cao hay thiểu phát đều tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Nếu lạm phát ở
mức cao sẽ hạn chế đầu tư, chi tiêu tiêu dùng và làm sai lệch thông tin dự báo. Ngoài
ra, sự bất ổn định giá cả sẽ dẫn đến phân phối lại nguồn lực của các chủ thể trong xã
hội một cách không công bằng. Tuy nhiên, nếu thiểu phát xảy ra cũng sẽ làm cho nền
kinh tế trì trệ, không khuyến khích sản xuất, đầu tư và có thể dẫn đến suy thoái kinh tế.
Việc lựa chọn lạm phát làm mục tiêu khiến NHTW tập trung vào tính ổn định của
nền kinh tế và giúp giá cả được kiểm soát ngay khi có những cú sốc trong nền kinh
tế. Ngoài ra, lạm phát là chỉ tiêu dễ hiểu đối với công chúng và có tính minh bạch
cao. Hơn nữa, việc đưa ra một tỷ lệ lạm phát cụ thể làm tăng trách nhiệm của NHTW,
tránh việc bằng mọi cách thúc đẩy kinh tế tăng trưởng thông qua thực thi chính sách
tiền tệ mở rộng.
Tuy nhiên, việc sử dụng mục tiêu lạm phát dẫn đến chậm trễ trong việc phát ra tín hiệu
trực tiếp cho công chúng và toàn bộ thị trường về thực trạng của chính sách tiền tệ.
Việc theo đuổi mục tiêu lạm phát ở mức quá thấp có thể ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt
động của nền kinh tế, làm suy giảm tổng sản lượng và tốc độ tăng trưởng GDP (Miller
và VanHoose, 2001).
12
Tăng trưởng kinh tế
Mặc dù lưu thông hàng hóa quyết định đến lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế. Tuy
nhiên, NHTW có thể sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ tác động trở
lại nhằm kích thích kinh tế tăng trưởng. Theo Cecchetti và ctg (2015) NHTW có thể
tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp thông qua điều chỉnh lãi suất.
Tuy nhiên, trong dài hạn để gia tăng mức sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào công
nghệ, quy mô vốn tích tụ, lực lượng lao động và tài nguyên của quốc gia.
Khi nền kinh tế trong giai đoạn suy thoái, NHTW có thể duy trì mức lãi suất thấp
nhằm thúc đẩy tiêu dùng, đầu tư… từ đó hỗ trợ kinh tế phục hồi. Ngược lại, khi nền
kinh tế phát triển quá nóng, NHTW tác động làm gia tăng lãi suất từ đó giảm tiêu
dùng, giảm đầu tư, giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Theo Cecchetti và ctg (2015) điều quan trọng là việc duy trì một tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế cao sẽ khó ổn định. Khi đó rủi ro cho nhà đầu tư trên thị trường gia tăng sẽ
kéo theo sự tăng lên của lãi suất. Vì vậy, nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến tăng trưởng
nếu xét trong dài hạn.
Việc làm cao
Công ăn việc làm được tạo ra nhiều hay ít phụ thuộc rất lớn vào tình hình tăng trưởng
kinh tế. Khi nền kinh tế ở trong giai đoạn tăng trưởng, việc làm được tạo ra nhiều
hơn, tỷ lệ thất nghiệp giảm và ngược lại khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái,
việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Mức việc làm cao là mục tiêu được quan tâm hàng đầu là vì: (i) thất nghiệp cao gây
ra tình trạng khó khăn về tài chính cho cá nhân và gia đình của họ và là mầm mống
nảy sinh các tệ nạn trong xã hội; (ii) thất nghiệp cao sẽ gây áp lực lên cơ cấu chi
tiêu của ngân sách nhà nước và làm lãng phí các nguồn lực khác trong xã hội (máy
móc thiết bị không được khai thác hết công suất) dẫn tới tổn thất về sản lượng
(Mishkin, 2013).
13
Tuy nhiên, tạo công ăn việc làm không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp bằng 0. Tỷ lệ thất
nghiệp trong nền kinh tế thường được xác định theo tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, nghĩa
là tỷ lệ thất nghiệp tương ứng với mức toàn dụng mà tại đó cầu về lao động bằng cung
về lao động. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được cấu thành từ tỷ lệ thất nghiệp tạm thời
và tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp tạm thời nảy sinh là do người
lao động cần có thời gian để tìm kiếm được việc làm thích hợp. Tỷ lệ thất nghiệp cơ
cấu xảy ra do không phù hợp giữa yêu cầu của việc làm và kỹ năng lao động sẵn có
của lực lượng lao động.
Chính sách tiền tệ chỉ có thể tác động làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tạm thời từ đó làm
giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên trong nền kinh tế. Còn việc giảm tỷ lệ thất nghiệp cơ
cấu, chính sách tiền tệ khó có thể thực hiện được mà cần phải thông qua chính sách
công của chính phủ như các chương trình hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động
(Cecchetti và ctg, 2015).
Ổn định thị trường tài chính:
Ổn định thị trường tài chính là một phần không thể thiếu được trong nhiệm vụ của
một NHTW hiện đại. (Cecchetti và ctg, 2015). Thị trường tài chính là nơi tạo ra nguồn
vốn cho phát triển kinh tế, góp phần quan trọng trong việc điều hòa vốn từ nơi thừa
đến nơi thiếu, giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Ổn định thị
trường tài chính còn giúp các NHTW tránh được các cuộc khủng hoảng tài chính, gây
ra các tác động tiêu cực cho nền kinh tế, gảm thiểu rủi ro hệ thống.
Ổn định lãi suất:
Lãi suất là biến số vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến quyết định chi
tiêu, tiết kiệm và đầu tư của doanh nghiệp và cá nhân. Khi lãi suất ở mức thấp sẽ kích
thích người dân vay mượn và chi tiêu. Ngược lại, khi lãi suất tăng lên, người dân sẽ
hạn chế đi vay và chi tiêu ít hơn. Ngoài ra, khi lãi suất biến động mạnh sẽ làm gia
tăng phần bù rủi ro, từ đó gây khó khăn cho hoặt động đầu tư, giảm hiệu quả của nền
kinh tế (Cecchetti và ctg, 2015). Do đó, ổn định lãi suất là một mục tiêu quan trọng
mà NHTW hướng tới để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
14
Ổn định tỷ giá hối đoái
Biến động tỷ giá hối đoái là một trong những mối quan tâm lớn của các NHTW tại
các nền kinh tế mở. Tỷ giá giảm làm nội tệ lên giá, làm giảm sức cạnh tranh của hàng
hóa trong nước; ngược lại tỷ giá tăng có thể gây áp lực lên lạm phát qua con đường
nhập khẩu. Thêm vào đó, tỷ giá biến động mạnh sẽ ảnh hưởng đến các kế hoạch sản
xuất kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp, tiêu dùng của cá nhân (Mishkin, 2013).
Ổn định tỷ giá vì vậy trở thành một mục tiêu quan trọng của CSTT.
Tùy vào từng giai đoạn phát triển cụ thể của nền kinh tế mà NHTW sẽ ưu tiên lựa
chọn mục tiêu nào cho phù hợp. Tuy nhiên, trong dài hạn các NHTW thường theo
đuổi một mục tiêu là duy trì một tỷ lệ lạm phát ổn định, tạo môi trường vĩ mô thuận
lợi cho phát triển kinh tế.
- Mục tiêu trung gian
Do tác động của CSTT đến các mục tiêu cuối cùng thường có độ trễ nhất định, NHTW
thường sử dụng mục tiêu trung gian để xem xét phản ứng của nền kinh tế từ đó có
những điều chỉnh phù hợp giúp cho việc đạt đến mục tiêu cuối cùng (Mishkin, 2013).
Theo Miller và VanHoose (2001), tiêu chuẩn để NHTW lựa chọn mục tiêu trung gian
là: có mối tương quan cao và ổn định với mục tiêu cuối cùng, có thể đo lường được
một cách chính xác dễ dàng và NHTW có thể kiểm soát hiệu quả. Với những tiêu
chuẩn đó, các mục tiêu trung gian của CSTT thường được các NHTW sử dụng là: chỉ
tiêu về lượng là cung tiền (có thể là M1, M2 hoặc M3) hoặc chỉ tiêu về giá là lãi suất
(ngắn hạn hoặc dài hạn). Tuy nhiên, NHTW không thể cùng lúc sử dụng cả cung tiền
và lãi suất làm mục tiêu trung gian, lựa chọn cung tiền làm mục tiêu sẽ mất khả năng
kiểm soát lãi suất và ngược lại (Mishkin, 2013).
- Mục tiêu hoạt động
Mặc dù các mục tiêu trung gian có tác động trực tiếp đến mục tiêu cuối cùng nhưng
không thể phản ứng ngay lập tức với các tác động của NHTW thông qua các công cụ
chính sách. Do vậy, NHTW phải lựa chọn thêm các mục tiêu hoạt động để đạt được
mục tiêu trung gian. Mục tiêu hoạt động một mặt cung cấp những thông tin mang tính
15
chỉ dẫn giúp nhà điều hành tiền tệ đưa ra các quyết định điều hành hàng ngày; mặt
khác cung cấp cho thị trường những thông tin về trạng thái điều hành CSTT của
NHTW. Chính vì vậy, mục tiêu hoạt động được lựa chọn phải có được những tiêu
chuẩn như: có mối quan hệ mật thiết với mục tiêu trung gian, NHTW có thể đo lường
được, phản ứng nhanh dưới tác động của công cụ chính sách. Theo đó, các biến số
thường được lựa chọn về lượng là lượng tiền cơ sở hay dự trữ của các ngân hàng
trung gian; về giá là lãi suất liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở, lãi suất tín phiếu
kho bạc (Miller và VanHoose, 2001).
Để đạt được mục tiêu điều hành CSTT, NHTW sử dụng các công cụ nhằm tác động
và điều tiết khối tiền trong lưu thông (hoặc lãi suất) từ đó đạt được các mục tiêu trong
từng thời kỳ nhất định. Các công cụ được sử dụng phổ biến là dự trữ bắt buộc, chính
sách chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở.
2.1.1.3 Các công cụ của chính sách tiền tệ
- Dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm phản ánh mức dự trữ mà các ngân hàng thương
mại bắt buộc phải thực hiện tính trên tổng số dư tiền gửi các loại. Các NHTM có thể
dự trữ dưới dạnh tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTW Khi NHTW tăng (giảm) tỷ lệ dự
trữ bắt buộc sẽ tác động làm giảm (tăng) tiềm năng tín dụng của các NHTM (Lê Thị
Tuyết Hoa và ctg, 2016). Ngoài ra, việc tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn tác động
làm giảm(tăng) lãi suất chiết khấu của NHTW (Mishkin, 2013).
- Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là biện pháp mà NHTW thực hiện các khoản cho vay đối với
các ngân hàng thương mại bằng cách chiết khấu, tái chiết khấu các loại giấy tờ có giá
nhằm cung ứng tiền vào lưu thông và thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng.
Theo Madura (2014) chính sách chiết khấu có thể tác động đến lượng vốn vay trên
thị trường theo hai cách: tác động đến lãi suất cho vay và tác động đến quy mô vốn
vay. Nghĩa là khi NHTW có thể mở rộng tiền tệ bằng cách sử dụng chính sách chiết
16
khấu: tăng hạn mức chiết khấu và giảm lãi suất chiết khấu, qua đó tác động làm tăng
cung quỹ cho vay, làm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm, lãi suất trên thị
trường tín dụng giảm, kích thích đầu tư, chi tiêu tiêu dùng, từ đó làm tăng tổng cầu
trong nền kinh tế. Ngược lại, khi muốn thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt NHTW sẽ
giảm hạn mức chiết khấu và tăng lãi suất chiết khấu.
Sự thay đổi của lãi suất chiết khấu có thể coi như tín hiệu định hướng chính sách tiền
tệ của NHTW. Khi NHTW công bố tăng lãi suất chiết khấu đó là tín hiệu của chính
sách thắt chặt tiền tệ và ngược lại. Từ đó có tác dụng hướng dẫn hành vi của các chủ
thể trên thị trường.
- Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ để NHTW thực hiện việc cung ứng và điều hòa
khối lượng tiền tệ thông qua hành vi mua hoặc bán các loại công trái, trái phiếu kho
bạc, chứng thư tài sản khác… gọi chung là chứng khoán. Đây là công cụ CSTT quan
trọng nhất vì mỗi hành vi mua (bán) trên thị trường mở sẽ tác động làm tăng (giảm)
cơ số tiền tệ (Lê Thị Tuyết Hoa và ctg, 2016).
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong các công cụ điều hành chính sách tiền tệ đạt
hiệu quả cao và hiện đang được nhiều nước trên thế giới sử dụng. Về mặt hình thức,
thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng khoán nợ cả ngắn hạn và dài hạn. Tuy
nhiên khác với các khái niệm có phạm vi và loại hình công cụ rõ ràng như thị trường
chứng khoán hay thị trường tiền tệ, thị trường mở ở các nước khác nhau lại khác nhau
về phạm vi, loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường.
Đối với một số nước, hàng hoá giao dịch trên thị trường mở chỉ gồm các giấy tờ có giá
ngắn hạn và đối tác tham gia chỉ là các tổ chức tín dụng. Khi đó, thị trường mở là một
bộ phận của thị trường tiền tệ.
Đối với một số quốc gia khác như Mỹ, Đức các giấy tờ có giá dài hạn cũng có thể giao
dịch, khi đó thị trường mở bao gồm cả một phần của thị trường chứng khoán. Điều đó
có nghĩa là các giới hạn, quy định khác nhau về hàng hoá và đối tác tham gia thị trường
mở với NHTW sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước.
17
Theo Mishkin (2013), nghiệp vụ thị trường mở là công cụ có ưu điểm hơn hẳn các
công cụ khác ở độ linh hoạt, chính xác và hiệu quả tức thì vì vậy công cụ này được
các NHTW trên thế giới sử dụng chủ yếu khi muốn điều tiết lượng tiền cung ứng.
2.1.2 Thị trường chứng khoán
2.1.2.1 Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán trên thế giới đã ra đời và hoạt động hàng trăm năm qua, là
một bộ phận không thể thiếu của thị trường tài chính. Theo Cecchetti và ctg (2006),
TTCK gồm có thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường phái sinh. Trong
đó, thị trường cổ phiếu là nơi mua bán trao đổi các loại cổ phiếu đã được phát hành.
Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch các công cụ nợ trung và dài hạn, cho
phép chuyển nhượng vốn từ người cho vay sang người đi vay. Thị trường phái sinh
là thị trường mua bán các hợp đồng phái sinh như: hợp đồng giao sau, hợp đồng
quyền chọn, hợp đồng hoán đổi với mục đích chính là chuyển nhượng rủi ro.
Như vậy, có thể hiểu về mặt hình thức, TTCK là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi,
mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán trung và dài hạn, qua đó thay đổi chủ
thể nắm giữ chứng khoán. Việc giao dịch chứng khoán có thể được thực hiện thông
qua các Sở giao dịch chứng khoán hoặc giao dịch qua quầy.
Xét về bản chất, TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm để phân
phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử
dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án
của người sử dụng.
Vì vậy, TTCK thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ. Các chứng khoán mua
bán trên TTCK có thể đem lại thu nhập cho người nắm giữ nó sau một thời gian nhất
định và được lưu thông trên TTCK theo giá cả thị trường. Đây là nơi mua bán các
quyền sở hữu về tư bản và là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá.
18
2.1.2.2 Chỉ báo về hoạt động của thị trường chứng khoán
Theo Bodie (2013) chỉ số giá chứng khoán, khối lượng và giá trị giao dịch cổ phiếu
là những chỉ báo quan trọng phản ánh hoạt động của TTCK. Trong đó, chỉ số giá
chứng khoán là chỉ số phản ánh sự biến đổi của giá chứng khoán tại một thời điểm so
với thời điểm gốc nào đó. Chỉ số giá cổ phiếu là loại thông tin quan trọng nhất của
thị trường và thường được các nhà đầu tư sử dụng trong phân tích đầu tư chứng khoán
(Nguyễn Đăng Nam, 2006).
Mỗi TTCK đều xây dựng hệ thống chỉ số giá cổ phiếu riêng, có thể được tính cho
toàn bộ cổ phiếu thuộc thị trường của một quốc gia hoặc từng ngành, nhóm ngành.
Theo Đào Lê Minh (2009), chỉ số giá cổ phiếu được tính theo nhiều phương pháp
khác nhau như sau:
I (cid:3404) (cid:4666)2.1(cid:4667) - Chỉ số giá bình quân giản đơn (cid:3041) ∑ (cid:1842)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3036)(cid:2880)(cid:2869) (cid:3041) ∑ (cid:1842)(cid:3036)(cid:3042) (cid:3036)(cid:2880)(cid:2869)
Trong đó:
I: chỉ số giá cổ phiếu bình quân
Pit: Giá cổ phiếu i thời kỳ t
Pio: Giá cổ phiếu i thời kỳ gốc
Theo phương pháp này, cổ phiếu nào có giá trị càng cao thì càng có ảnh hưởng
lớn đến số bình quân. Với cùng một mức tăng giá nhưng cổ phiếu có giá trị cao
sẽ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu bình quân lớn hơn cổ phiếu có giá trị thấp. Vì
vậy, chỉ số bình quân không phản ánh được mức thay đổi bình quân.
- Chỉ số bình quân gia quyền giá trị
Đây là chỉ số giá cổ phiếu được tính bình quân gia quyền với các quyền số sau:
(i) quyền số giá trị (value weighted): là tỷ trọng vốn hóa thị trường của từng cổ
phiếu trong tổng thể; (ii) quyền số giá cả (price weighted): là giá cả của từng cổ
phiếu được tham gia tính toán.
Chỉ số giá bình quân Laspeyres
19
(cid:3041) ∑ (cid:1869)(cid:3036)(cid:2868) . (cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3036)(cid:2880)(cid:2869) (cid:3041) ∑ (cid:1869)(cid:3036)(cid:2868) . (cid:1868)(cid:3036)(cid:2868) (cid:3036)(cid:2880)(cid:2869)
(cid:4666)2.2(cid:4667) I (cid:3404)
Trong đó:
I: chỉ số giá cổ phiếu bình quân
pit: Giá cổ phiếu i thời kỳ báo cáo (t)
pio: Giá cổ phiếu i thời kỳ gốc (0)
qit: Khối lượng cổ phiếu i niêm yết thời kỳ báo cáo (t)
qio: Khối lượng cổ phiếu i niêm yết thời kỳ gốc (0)
Phương pháp này lấy quyền số là giá trị cổ phiếu niêm yết thời kỳ gốc nên không
cần phải thường xuyên cập nhật. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là
không phản ánh được cơ cấu biến đổi của thị trường.
Chỉ số giá bình quân Paascher
(cid:3041) ∑ (cid:1869)(cid:3036)(cid:3047) . (cid:1868)(cid:3036)(cid:3047) (cid:3036)(cid:2880)(cid:2869) (cid:3041) ∑ (cid:1869)(cid:3036)(cid:3047) . (cid:1868)(cid:3036)(cid:2868) (cid:3036)(cid:2880)(cid:2869)
I (cid:3404) (cid:4666)2.3(cid:4667)
Trong đó:
I: chỉ số giá cổ phiếu bình quân
pit: Giá cổ phiếu i thời kỳ báo cáo (t)t
pio: Giá cổ phiếu i thời kỳ gốc (0)
qit: Khối lượng cổ phiếu i niêm yết thời kỳ báo cáo (t)
qio: Khối lượng cổ phiếu i niêm yết thời kỳ gốc (0)
Phương pháp này lấy quyền số là khối lượng cổ phiếu niêm yết thời tính toán nên
phản ánh được vai trò của các cổ phiếu niêm yết thời kỳ báo cáo. Tuy nhiên, nhược
điểm của phương pháp này là phải thường xuyên cập nhật về số lượng cổ phiếu
niêm yết. Phương pháp tính chỉ số Paascher được sử dụng phổ biến để tính chỉ số
giá cổ phiếu tại nhiều TTCK trên thế giới như: chỉ số KOSPI (Hàn Quốc), S&P
500 (Mỹ), TOPIX (Nhật Bản), HANGSENG (Hồng Kông)…
20
- Chỉ số giá bình quân nhân
Là chỉ số giá bình quân nhân giữa chỉ số giá Paascher và chỉ số giá Laspeyres
theo công thức sau:
I(cid:2890) (cid:3404) (cid:3493)I(cid:2900). I(cid:2896) (cid:4666)2.4(cid:4667)
Trong đó:
IF: chỉ số giá Fisher
IP: chỉ số giá Paascher
IL: chỉ số giá Laspeyres
Chỉ số này giúp khắc phục nhược điểm của chỉ số Paascher và Laspeyres. Tuy nhiên,
theo Bodie (2013) các chỉ số chứng khoán hiện nay sử dụng phiên bản sửa đổi của
chỉ số Paascher với trọng số là giá trị thị trường của lượng cổ phiếu thả nổi tự do
(free loat), tức là bằng giá trị cổ phiếu tự do trao đổi giữa các nhà đầu tư, không tính
đến lượng cổ phần được nắm giữ bởi các cổ đông sáng lập hay các chính phủ.
2.1.2.3 Vai trò của thị trường chứng khoán
TTCK là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế thị trường phát triển, là cầu
nối giữa nguồn cung và cầu vốn trong nền kinh tế. Một TTCK lành mạnh, hoạt động
có hiệu quả sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế, giúp cho việc
thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế đạt hiệu quả cao nhất.
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
TTCK hoạt động như một trung tâm thu hút mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của
từng hộ dân cư, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính tạo thành nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức khác
không thể làm được. Bên cạnh đó, TTCK là công cụ cho phép vừa thu hút vừa kiểm
soát vốn đầu tư nước ngoài một cách tốt nhất vì nó hoạt động theo nguyên tắc công
khai. Thông qua TTCK, Chính phủ sẽ kiểm soát được việc tham gia đầu tư của các
định chế, cá nhân nước ngoài vào các công ty hay các loại chứng khoán ở từng thời
điểm nhất định.
21
TTCK tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và
thu lợi nhuận nhiều hơn, đồng thời góp phần quan trọng trong việc kích thích các
doanh nghiệp làm ăn ngày càng hiệu quả bằng cách vừa sản xuất kinh doanh hàng
hóa vừa mua bán thêm chứng khoán tạo thêm lợi nhuận.
Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, TTCK đã có những tác động
quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, Chính
phủ và chính quyền các địa phương huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử
dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
- Cung cấp môi trường đầu tư và tạo tính thanh khoản cho chứng khoán
Từ khi TTCK ra đời, công chúng có thêm một kênh đầu tư mới, đa dạng và phong
phú hơn. Những người tiết kiệm có thể tự mình hoặc thông qua những nhà tài chính
chuyên nghiệp lựa chọn những loại cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác nhau từ
nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với cơ hội lựa
chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời
hạn và độ rủi ro, vì thế cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hóa phù
hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia và tác động
đến sự giàu có của hộ gia đình cũng như tiêu dùng của họ. Các hộ gia đình sẽ tăng
tiêu dùng khi các tài sản của họ tăng thêm giá trị và ngược lại. Do đó, khi giá cổ phiếu
tăng, sự giàu có của hộ gia đình tăng lên dẫn đến chi cho tiêu dùng tăng và kết quả là
GDP tăng trưởng.
Bên cạnh đó, nhờ có TTCK mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán
thành tiền mặt và ngược lại. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp
dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an
toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và hiệu quả thì càng có khả
năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
22
- Kích thích các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn
Khi tham gia niêm yết trên TTCK tập trung, các doanh nghiệp niêm yết cần phải đáp
ứng được một số điều kiện cụ thể, nhất định theo qui định như: vốn điều lệ, tình hình
tài chính và phải công khai kết quả hoạt động SXKD theo chế độ báo cáo định kỳ.
Với sức ép thường xuyên của thị trường, với quyền tự do lựa chọn mua chứng khoán
của nhà đầu tư đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp phải biết tính toán, nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh. Từ đó, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới và nâng cao
chất lượng sản phẩm, tối đa hóa lợi nhuận.
- Tạo tiền đề cho quá trình cổ phần hóa
TTCK là nơi tập trung được toàn bộ cung cầu về vốn và cũng là nơi hội tụ nhiều nhất
các NĐT, do đó nó có tác động rất lớn trong việc nhanh chóng chuyển các DNNN
thành các công ty cổ phần một cách có hiệu quả nhất.
Với nguyên tắc hoạt động trung gian, đấu giá, công khai và là nơi mà hoạt động mua
bán chứng khoán diễn ra hàng ngày, hàng giờ. TTCK chính là cơ sở làm cho quá trình
cổ phần hóa theo đúng pháp luật và phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế.
Chỉ có thông qua TTCK, Nhà nước mới có thể thực hiện được cổ phần hóa đối với
bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào. Mục tiêu chủ yếu của cổ phần hóa các DNNN và
các loại hình doanh nghiệp khác là thu hút mọi nguồn vốn nhỏ lẻ trong dân chúng
vào đầu tư. Vì vậy, TTCK còn là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hóa.
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và phát
triển kinh tế - xã hội
Các chỉ số của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính
xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng
trưởng và ngược lại là dấu hiệu tiêu cực không tốt cho nền kinh tế. Vì thế, TTCK còn
được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính
phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
23
Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua hoặc bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn
thu bù đắp thiếu hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ và NHTW
cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định
hướng đầu tư, đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
2.2 TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
2.2.1 Tác động của chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu
2.2.1.1 Cơ chế tác động của cung tiền đến giá cổ phiếu
- Theo lý thuyết số lượng tiền tệ
Theo lý thuyết số lượng tiền tệ của Brunner (1961), Friedman và Schwartz (1975)
CSTT có thể tác động đến giá cổ phiếu qua việc lựa chọn danh mục của nhà đầu tư.
Khi NHTW nới lỏng tiền tệ, nhà đầu tư đang nắm giữ các tài sản khác nhau trong
danh mục sẽ chuyển từ nắm giữ tiền sang nắm giữ các tài sản có mức sinh lời cao
hơn, trong đó có cổ phiếu (hiệu ứng của cải). Sự gia tăng của mức cầu cổ phiếu sẽ
đẩy giá cổ phiếu trên thị trường tăng lên.
Rozeff (1974) đã đưa ra mô hình danh mục đầu tư tiền tệ (monetary portfolio model)
vận dụng lý thuyết số lượng tiền tệ để giải thích về mối quan hệ giữa chính sách tiền
tệ và giá cổ phiếu. Theo đó tác động của sự gia tăng cung tiền là dẫn đến sự tăng lên
của mức giá cả hàng hóa, từ đó làm tăng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế. Việc
tăng tỷ lệ lạm phát dự tính (theo hiệu ứng Fisher) sẽ làm tăng lãi suất danh nghĩa. Lý
thuyết số lượng tiền tệ cho thấy nhà đầu tư sẽ chuyển từ nắm giữ tiền sang nắm giữ
các tài sản tài chính (trong đó có cổ phiếu) để được hưởng tỷ suất sinh lời cao hơn,
do đó thúc đẩy tăng giá cổ phiếu trên thị trường.
Như vậy, theo lý thuyết số lượng tiền tệ tác động của cung tiền đến giá cổ phiếu được
thể hiện như sau:
MS ↑ → do tác động của hiệu ứng của cải → cầu cổ phiếu ↑ → giá cổ phiếu ↑
24
- Theo mô hình chiết khấu cổ tức
Từ mô hình chiết khấu cổ tức của Gordon (1962), Patelis (1997) cho rằng CSTT có
thể tác động đến giá cổ phiếu qua hai cách. Cách thứ nhất là ảnh hưởng trực tiếp đến
giá cổ phiếu thông qua tác động đến lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư. Khi NHTW thực
hiện nới lỏng tiền tệ sẽ làm giảm lãi suất trên thị trường, do đó cũng làm giảm lãi suất
yêu cầu của nhà đầu tư khi mua cổ phiếu công ty, từ đó làm tăng giá cổ phiếu. Theo
Ioannidis và Kontonikas (2008) cơ chế tác động trên xảy ra dựa trên hai giả định là:
lãi suất chiết khấu mà nhà đầu tư trên thị trường sử dụng có liên hệ chặt chẽ với lãi
suất thị trường và giả định thứ hai là NHTW có thể tác động đến lãi suất thị trường.
Cách thứ hai là ảnh hưởng gián tiếp đến giá cổ phiếu thông qua tác động đến lợi
nhuận kỳ vọng của công ty trong tương lai, từ đó ảnh hưởng đến cổ tức kỳ vọng. Việc
nới lỏng CSTT sẽ tác động giảm lãi suất, do đó kích thích doanh nghiệp tăng đầu tư,
mở rộng sản xuất dẫn đến lợi nhuận được kỳ vọng sẽ tăng lên, từ đó làm tăng giá cổ
phiếu trên TTCK. Vì vậy, nếu CSTT có ảnh hưởng đến nền kinh tế thì TTCK cũng
bị ảnh hưởng bởi các yếu tố của CSTT.
Như vậy, theo mô hình chiết khấu cổ tức, nếu gọi MS là cung tiền, r là lãi suất thị
trường, Y là tổng sản lượng, CF là dòng tiền kỳ vọng, SP là giá cổ phiếu, tác động
của CSTT đến giá cổ phiếu được tóm tắt lại như sau:
MS ↑ → r ↓ → SP ↑ (tác động trực tiếp)
MS ↑ → r ↓→ Y ↑, CF ↑ → SP ↑ (tác động gián tiếp)
- Theo lý thuyết thị trường hiệu quả
Theo Fama (1970) thị trường hiệu quả dạng trung bình cho thấy những thay đổi trong
kỳ vọng của cung tiền đã bao hàm trong các thông tin đại chúng được công bố, vì vậy
không có tác dụng giúp dự báo giá cổ phiếu.
Bernanke và Kuttner (2005) cho rằng sự tăng lên của cung tiền ngoài kỳ vọng là dấu
hiệu cho thấy trong tương lai CSTT sẽ được điều chỉnh. Nếu NHTW đang kiểm soát
tốc độ tăng trưởng cung tiền, đồng thời các nhà đầu tư tin tưởng rằng NHTW sẽ bù đắp
25
việc cung tiền tăng lên ngoài mức kỳ vọng bằng cách thắt chặt tín dụng. Điều này sẽ
làm tăng lãi suất thực trên thị trường, giá cổ phiếu sẽ giảm. Nguyên nhân là do tỷ suất
sinh lời yêu cầu sẽ tăng lên do tăng lãi suất thực trong nền kinh tế, đồng thời dòng tiền
kỳ vọng của doanh nghiệp cũng bị giảm xuống. Vì vậy, chỉ có những thay đổi cung
tiền ngoài mức kỳ vọng mới có tác động và có thể dùng để dự báo giá cổ phiếu, được
thể hiện tóm tắt như sau:
MS ↑ ngoài kỳ vọng → lạm phát kỳ vọng ↑ → r ↑ → Y ↓, CF ↓→ SP ↓
MS ↑ ngoài kỳ vọng → kỳ vọng thắt chặt tiền tệ trong tương lai → r ↑ → Y ↓,
CF↓→ SP ↓
MS ↑ ngoài kỳ vọng → bất ổn về chính sách ↑ → rủi ro tăng → SP ↓
Vì TTCK đại diện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế nên giá cổ phiếu
sẽ nhạy cảm với những biến động trong cung tiền. Nếu NHTW chủ trương mở rộng
cung tiền để kích thích kinh tế tăng trưởng thông qua tác động giảm lãi suất và mở
rộng tín dụng sẽ kích thích các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất, lợi nhuận gia
tăng.
Theo mô hình chiết khấu cổ tức giá cổ phiếu trên thị trường cũng sẽ tăng lên. Ngoài
ra, khi lãi suất thị trường giảm còn làm chi phí cơ hội sử dụng vốn đầu tư chứng khoán
giảm xuống, kích thích dòng tiền vào TTCK và làm tăng giá cổ phiếu. Có thể thấy mỗi
lý thuyết có cách giải thích khác nhau về mối quan hệ giữa CSTT và giá cổ phiếu trên
TTCK nhưng tổng hợp lại cho thấy việc mở rộng cung tiền (được thông báo trước) có
tác động làm tăng giá cổ phiếu trên thị trường và ngược lại.
2.2.1.2 Cơ chế tác động của lãi suất đến giá cổ phiếu
Lãi suất là giá cả của vốn vay, vì vậy sự tăng lên của lãi suất sẽ tác động làm phân bổ
lại nguồn vốn đầu tư trên thị trường. Theo mô hình chiết khấu cổ tức, sự giảm xuống
của lãi suất sẽ làm tăng giá trị hiện tại của dòng thu nhập từ đầu tư cổ phiếu. Thêm
vào đó, việc nới lỏng tiền tệ sẽ tác động thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư, từ đó thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng, lợi nhuận của các công ty tăng lên, tăng dòng tiền kỳ vọng trong
26
tương lai và giá cổ phiếu tăng. Ngược lại, khi lãi suất tăng lên sẽ hạn chế tăng trưởng
tín dụng, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn khi huy động nguồn tài trợ do chi phí cao.
Xét về tổng thể, giảm lãi suất giúp kinh tế tăng trưởng tốt hơn, qua đó TTCK với tư
cách là “hàn thử biểu” của nền kinh tế sẽ tăng tương ứng với kỳ vọng từ việc giảm
lãi suất này.
Hơn nữa, khi lãi suất thay đổi sẽ tác động đến lãi suất tiền gửi ngân hàng. Nhà đầu
tư sẽ tiến hành phân bổ lại danh mục đầu tư giữa tiền gửi, trái phiếu, cổ phiếu và
các tài sản khác nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Lãi suất giảm, giúp kênh đầu tư chứng
khoán trở nên hấp dẫn hơn trong mối tương quan giữa lợi nhuận - rủi ro. Lãi suất
giảm, sẽ không khuyến khích nhà đầu tư gửi tiền vào ngân hàng, thay vào đó, họ
thường vay thêm vốn với chi phí thấp hơn trước và tìm kiếm những cơ hội khác có
suất sinh lợi cao hơn. Đối với nhà đầu tư chuyên nghiệp, đây là thời điểm tốt để
tham gia TTCK, bởi chi phí đầu tư rẻ và tín hiệu khả quan của nền kinh tế. Do đó,
thị giá của cổ phiếu có thể sẽ tăng lên do “cầu kéo”.
Ngược lại, nếu lãi suất tiền gửi ngân hàng tăng lên, nhà đầu tư sẽ chuyển dòng vốn
từ đầu từ TTCK sang gửi tiền vào ngân hàng, do đó tác động làm giảm giá cổ phiếu,
trái phiếu trên thị trường. Tuy nhiên, sự thay thế đầu tư này còn phụ thuộc vào độ
co dãn của lãi suất đối với quyết định thay thế đầu tư và mức độ ưa thích rủi ro của
nhà đầu tư. Ngoài ra, lãi suất thấp còn làm cho các công cụ có lãi suất cố định như
trái phiếu sẽ trở nên kém hấp dẫn hơn so với cổ phiếu, nhà đầu tư có thể cũng sẽ
chuyển từ kênh trái phiếu sang kênh cổ phiếu. Vì vậy, chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ
làm tăng giá cổ phiếu và kết quả là đầu tư cũng tăng theo.
Một số nghiên cứu trong giai đoạn những năm 80 – 90 của thế kỷ XX về tác động
của CSTT đến TTCK đã sử dụng lãi suất chiết khấu của NHTW làm đại diện cho
CSTT. Pearce và Roley (1983) đã chỉ ra rằng lãi suất chiết khấu có tác động ngược
chiều với giá cổ phiếu trên TTCK Mỹ. Jensen và Johnson (1995) cũng tìm ra mối
quan hệ dài hạn giữa lãi suất chiết khấu với tỷ suất sinh lời trên TTCK. Tuy nhiên,
27
lãi suất chiết khấu chỉ là công cụ trong điều hành CSTT của NHTW, không phản
ánh rõ tác động đối với nền kinh tế.
Vì vậy, các nghiên cứu sau đó của (Thorbecke, 1997; Bernanke và Kuttner, 2005;
Aziza, 2010) chuyển sang sử dụng lãi suất vốn liên bang (Fed fund rate) làm đại
diện cho CSTT. Một số nghiên cứu gần đây tại các thị trường mới nổi như
(Raghavan và Dungey, 2015) trên TTCK Thổ Nhĩ Kỳ, (Raghavan và Dungey, 2015)
tại các nước Đông Nam Á, Tang và ctg (2013) tại Trung Quốc… đều sử dụng lãi
suất liên ngân hàng làm đại diện cho CSTT.
2.2.2 Tác động của chính sách tiền tệ đến thanh khoản thị trường chứng khoán
2.2.2.1 Khái niệm về thanh khoản thị trường chứng khoán
Theo Lybek và Sarr (2002) khái niệm thanh khoản có thể được nghiên cứu ở nhiều
phạm vi khác nhau như: thanh khoản tài sản (asset liquidity), thanh khoản thị trường
tài sản (an asset’s market liquidity), thanh khoản thị trường tài chính (financial
market’s liquidity) và thanh khoản của định chế tài chính (the liquidity of financial
institutions). Trong đó, thanh khoản của một tài sản là khả năng và chi phí chuyển
đổi tài sản thành tiền hoặc tài sản khác.
Chẳng hạn như tiền mặt hoặc tiền gửi thanh toán tại ngân hàng được xem là tài sản
có tính thanh khoản cao nhất, do các ngân hàng sẵn sàng chi trả cho người gửi ngay
lập tức và không mất bất kỳ chi phí giao dịch nào. Các tài sản khác như cổ phiếu, trái
phiếu để chuyển đổi ra thành tiền hoặc các tài sản khác phải tốn chi phí hoa hồng cho
người môi giới, thời gian chờ bán... nên tính thanh khoản kém hơn. Vì vậy, một cổ
phiếu được coi là có tính thanh khoản cao nếu có chi phí giao dịch thấp, dễ dàng mua
bán tại bất kỳ thời điểm nào và việc giao dịch một lượng lớn không ảnh hưởng nhiều
tới giá thị trường của nó.
Khái niệm thanh khoản thị trường tài sản mang hàm ý rộng hơn thanh khoản tài sản.
Đó là khả năng một lượng lớn tài sản được dễ dàng chuyển nhượng nhanh chóng tại
mức giá hợp lý. Thanh khoản thị trường tài chính ngoài hàm ý như thanh khoản thị
trường tài sản còn phụ thuộc vào khả năng thay thế của các tài sản, thanh khoản của
28
từng tài sản và đặc điểm riêng của từng tài sản (chẳng hạn như rủi ro tín dụng, kỳ hạn,
quyền biểu quyết...).
Thanh khoản định chế tài chính lại đề cập đến khả năng các định chế tài chính có thể
đáp ứng các giao dịch chuyển đổi giữa tài sản và nghĩa vụ nợ một cách nhanh chóng,
được đo lường bằng tỷ lệ thanh khoản tài sản... Việc nắm giữ càng nhiều tài sản có
tính thanh khoản càng cao, khả năng thanh khoản của định chế tài chính càng tốt.
Từ những khái niệm thanh khoản được đề cập ở trên, trong phạm vi nghiên cứu của
luận án, khái niệm thanh khoản được đề cập là thanh khoản thị trường tài chính, với
đại diện là TTCK. Black (1971) đã cho rằng TTCK được coi là có tính thanh khoản
tốt nếu thỏa mãn các điều kiện sau: (i) luôn có giá hỏi mua và giá chào bán để cho
các nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán ngay lập tức; (ii) chênh lệch giữa giá hỏi
mua và chào bán nhỏ; (iii) nhà đầu tư có thể mua được một lượng lớn chứng khoán
ngay lập tức với chi phí giao dịch thấp.
Theo Harris (1990) lại cho rằng một thị trường cổ phiếu được coi là có tính thanh
khoản cao nếu bất cứ chứng khoán nào đều có thể chuyển đổi thành tiền hoặc ngược
lại với chi phí thấp. Đồng ý với quan điểm này, Elliott (2015) cho rằng thanh khoản
TTCK là khả năng người mua và người bán có thể tiến hành các giao dịch lớn và các
chi phí phát sinh khi giao dịch được thực hiện.
Baker (1996) đã đề cập đến các đặc tính của thanh khoản thị trường bao gồm:
- Tính tức thời (immediacy): thể hiện tốc độ các lệnh giao dịch được thực hiện,
phụ thuộc vào hệ thống giao dịch thanh toán của thị trường, khả năng mua và
bán một lượng cổ phiếu nhất định ở một mức giá tương đương tại cùng một
thời điểm.
- Độ rộng (breath): một thị trường có độ rộng cao khi có các lệnh mua bán được
đặt với khối lượng lớn cổ phiếu.
29
- Độ sâu (depth): một thị trường có độ sâu lớn khi tồn tại nhiều lệnh đặt mua, đặt
bán tại các mức giá khác nhau xung quanh giá đang được giao dịch trên thị
trường.
- Độ đàn hồi (resiliency): một thị trường được coi là có độ đàn hồi cao nếu có
nhiều lệnh mua và lệnh bán được đặt nhằm phản ứng với sự thay đổi giá trên thị
trường. Thị trường được coi là kém đàn hồi nếu các lệnh mua bán không được
điều chỉnh nhanh chóng khi có sự thay đổi của giá chứng khoán. Như vậy, trong
khi đặc điểm độ sâu của thị trường đề cập đến khối lượng giao dịch tại mức giá
mua và bán tốt nhất thì đặc điểm độ đàn hồi xem xét đến độ co dãn của cung và
cầu chứng khoán.
2.2.2.2 Đo lường thanh khoản thị trường chứng khoán
Thanh khoản TTCK được thể hiện qua nhiều đặc tính khác nhau nên không có một
chỉ tiêu nào có thể đo lường tất cả các đặc điểm đó. Vì vậy, nhiều tác giả trên thế giới
đã phát triển các thước đo thanh khoản khác nhau, mỗi thước đo tập trung vào một
tính chất nhất định của thị trường.
- Tính tức thời của thị trường (immediacy)
Tính thức thời của thị trường đề cập đến thời gian để hoàn thành một giao dịch
(Lybek và Sarr, 2002). Các nhà tạo lập thị trường đóng vai trò quan trọng đối với đặc
tính này. Với hệ thống giao dịch thông qua đại diện, việc tìm kiếm và kết hợp các
lệnh giao dịch phụ thuộc vào tần suất giao dịch và hệ thống thanh toán bù trừ chứng
khoán. Lesmond và ctg (1999) đã đưa ra thước đo chi phí giao dịch nhằm đo lường
tính tức thời của thị trường dựa trên số ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0. Hệ
số này được tính như sau:
Zeros (cid:3404) (cid:4666)2.1(cid:4667) Số ngày giao dịch có tỷ suất sinh lợi bằng 0 trong tháng t Tổng số ngày giao dịch trong tháng t
Thước đo này cho biết khi chi phí giao dịch cao sẽ ngăn cản các nhà đầu tư tiến hành
các giao dịch để khai thác thông tin riêng mà họ có. Vì vậy, thị trường được coi là
kém thanh khoản nếu có hệ số ngày giao dịch có tỷ suất sinh lợi bằng 0 cao.
30
- Độ rộng của thị trường (breath)
Theo Lybek và Sarr (2002) lượng cổ phiếu giao dịch (Volume – Based measures) là
một thước đo truyền thống để đo lường thanh khoản của thị trường theo độ rộng
(breath). Chỉ tiêu thường được sử dụng để đo lường theo khối lượng giao dịch là:
Giá trị cổ phiếu được giao dịch: gồm tổng giá trị của các cổ phiếu được niêm
(cid:2898)
yết được giao dịch trong một đơn vị thời gian: ngày, tháng, quý hoặc năm.
(cid:2919)(cid:2880)(cid:2869)
TV(cid:3047) (cid:3404) (cid:3533) q(cid:2919) x p(cid:2919) (cid:4666)2.2(cid:4667)
Trong đó:
TVt: giá trị cổ phiếu được giao dịch
qi: khối lượng cổ phiếu i được giao dịch
pi: giá cổ phiếu i
N: tổng số cổ phiếu được niêm yết trên thị trường
Hệ số thanh khoản (Liquidity Ratio – LR)
Đây là chỉ tiêu đo lường thanh khoản phổ biến trong các nghiên cứu thực
nghiệm. LR cho biết mức độ biến động của khối lượng giao dịch bị ảnh hưởng
do thay đổi giá cổ phiếu trên thị trường:
(cid:2904) (cid:2930)(cid:2880)(cid:2869) (cid:2904) (cid:2930)(cid:2880)(cid:2869)
(cid:4666)2.3(cid:4667) LR(cid:2930) (cid:3404) ∑ P(cid:2919)(cid:2930)V(cid:2919)(cid:2930) ∑ |PC(cid:2919)(cid:2930)|
Trong đó:
Vit là tổng khối lượng cổ phiếu i được giao dịch vào ngày t
Pit: giá cổ phiếu i vào ngày t
PCit = Pit – Pit-1: chênh lệch giá cổ phiếu i ngày t so với ngày t-1
LR cho thấy khi giá chứng khoán thay đổi 1%, khối lượng giao dịch thay đổi bao
nhiêu. LR càng cao cho thấy thanh khoản của thị trường càng tốt vì khi một lượng
lớn cổ phiếu được giao dịch chỉ tác động nhỏ đến giá trên thị trường.
31
- Độ sâu của thị trường (depth)
Tỷ lệ luân chuyển của cổ phiếu (turnover) là chỉ tiêu phổ biến được dùng để đo lường
độ sâu của thị trường. Tỷ lệ này được xác định dựa trên số lượng cổ phiếu giao dịch
và số lượng cổ phần đang lưu hành hoặc giá trị cổ phiếu giao dịch so với giá trị vốn
hóa thị trường:
Turnover (cid:3404) x 100% (cid:4666)2.4(cid:4667) Q S
Trong đó:
Q là tổng số lượng cổ phiếu được giao dịch của thị trường tính theo ngày (hoặc tháng,
quý, năm)
S là lượng cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường tính theo ngày (hoặc tháng, quý, năm)
x 100% (cid:4666)2.5(cid:4667) Turnover (cid:3404) V M
Trong đó:
V: tổng giá trị giao dịch của các cổ phiếu trên thị trường tính theo ngày (hoặc tháng,
quý, năm)
M: giá trị vốn hóa toàn thị trường vào cuối ngày (hoặc tháng, quý, năm).
Turnover cho biết số lần một cổ phiếu được giao dịch trong một thời kỳ nhất định.
Hệ số này càng cao cho thấy đây là một thị trường độ rộng và độ sâu cao, thanh khoản
tốt. Đây là thước đo được sử dụng khá phổ biến khi đo lường tính thanh khoản do
tính chất đơn giản và sự sẵn có của dữ liệu giao dịch. Tuy nhiên, thước đo này có hạn
chế là chỉ cho biết mức độ giao dịch thường xuyên như thế nào nhưng lại không phản
ánh chi phí giao dịch. Ngoài ra, do chỉ tập trung vào khối lượng giao dịch nên hệ số
này có khả năng thể hiện sự gia tăng thanh khoản trong thời kỳ TTCK khủng hoảng
thay vì phản ánh sự sụt giảm trong thanh khoản của thị trường.
- Chỉ số thanh khoản Martin
32
Martin (1975) đã đưa ra một chỉ số mới giúp đo lường độ sâu của thị trường. Chỉ số
này được xác định dựa trên biến động của giá cổ phiếu toàn thị trường so với khối
lượng cổ phiếu được giao dịch:
(cid:4666)2.6(cid:4667) MLIt= (cid:3533) (cid:4666)Pt-Pt-1(cid:4667)2 Qt
Trong đó:
MLI (market liquidity index): chỉ số thanh khoản thị trường ngày t
Pt: giá đóng cửa ngày t của chỉ số chứng khoán
Pt-1: giá đóng cửa ngày t-1 của chỉ số chứng khoán
Qt: khối lượng cổ phiếu được giao dịch ngày t
MLI càng cao cho thấy thanh khoản của thị trường càng thấp do ảnh hưởng của giá
bị phân tán, tác động của giá đến lượng giao dịch càng lớn. Do đó, MLI biến động
ngược chiều với thanh khoản của thị trường hay nói cách khác nó là chỉ tiêu đánh giá
tính thiếu thanh khoản (illiquidity).
- Độ đàn hồi của thị trường (resiliency)
Hasbrouck và Schwartz (1988) đã đưa ra hệ số MEC (Market – Efficiency
Coefficient) giúp đo lường thanh khoản của thị trường qua sự khác biệt trong mức
thay đổi giá ngắn hạn và dài hạn.
MEC (cid:3404) (cid:4666)2.7(cid:4667) Var(cid:4666)R(cid:2904)(cid:4667) T ∗ Var(cid:4666)r(cid:2930)(cid:4667)
Trong đó:
Var (Rt) là phương sai logarit tỷ suất sinh lời cổ phiếu trong dài hạn
Var (rt) là phương sai logarit tỷ suất sinh lời cổ phiếu trong ngắn hạn
T là số thời kỳ ngắn trong một thời kỳ dài
MEC cho biết sự thay đổi của giá được diễn ra liên tục và ổn định trong một thị trường
có thanh khoản tốt, tác động của thông tin mới lên mức giá cân bằng trong ngắn hạn
là khá nhỏ. Do đó, nó là chỉ tiêu phản ánh độ đàn hồi của thị trường. MEC nhỏ hơn 1
33
cho thấy thị trường có độ đàn hồi cao, mức biến động giá trong ngắn hạn lớn hơn
mức biến động giá trong dài hạn, thanh khoản của thị trường tốt. Ngược lại, nếu MEC
nhỏ hơn 1 cho thấy độ biến động trong dài hạn lớn hơn trong ngắn hạn, độ đàn hồi
của thị trường thấp.
Một phương pháp khác giúp đo lường độ sâu và độ đàn hồi của thị trường là chỉ số
(cid:2888)(cid:3167),(cid:3178)
thiếu thanh khoản (illiquidity) của (Amihud, 2002).
(cid:2914)(cid:2880)(cid:2869)
(cid:4666)2.8(cid:4667) (cid:3533) ILLIQ(cid:2919),(cid:2930) (cid:3404) 1 D(cid:2919),(cid:2930) (cid:3627)R(cid:2919),(cid:2930),(cid:2914)(cid:3627) VOLD(cid:2919),(cid:2930),(cid:2914)
Trong đó:
Di,t: Số ngày giao dịch trong tháng t của cổ phiếu i
Ri,t,d: Tỷ suất lợi nhuận của cổ phiếu i trong ngày d của tháng t
VOLDi,t,d: Giá trị giao dịch của cổ phiếu i trong ngày d của tháng t
Chỉ số thiếu thanh khoản trong tháng t cho toàn thị trường được xác định như sau:
(cid:2898)(cid:3178) (cid:2919)(cid:2880)(cid:2869)
∑ ILLIQ(cid:2919),(cid:2930) AILLIQ(cid:2930) (cid:3404) (cid:2869) (cid:2898)(cid:3178)
Với Nt là số cổ phiếu được giao dịch trong tháng t
Thước đo này dựa trên ý tưởng sử dụng độ nhạy cảm của giá để đo lường mức độ tác
động của các giao dịch lên giá. Nếu giá cả nhạy cảm mạnh với giá trị giao dịch nghĩa
là thị trường càng kém thanh khoản và ngược lại. Ưu điểm của thước đo này là có thể
tính toán được cho những ngày không có sự thay đổi về giá. Còn những ngày có giá trị
giao dịch bằng 0 thì ít có khả năng xảy ra.
Ngoài ra, so với các phương pháp trước, phương pháp của Amihud giúp tiết kiệm thời
gian và chi phí cho việc tính toán vì nó sử dụng số liệu sẵn có về giá và khối lượng giao
dịch hàng ngày. Amihud (2002) cho biết chỉ số thiếu thanh khoản còn có mối quan hệ
cùng chiều với tỷ suất sinh lời kỳ vọng của cổ phiếu.
34
2.2.2.3 Tác động của chính sách tiền tệ đến thanh khoản thị trường chứng khoán
Theo lý thuyết cấu trúc vi mô thị trường của O'hara (1995), thanh khoản của từng cổ
phiếu phụ thuộc vào đặc điểm riêng của cổ phiếu và cơ chế giao dịch trên thị trường.
Các cổ phiếu được kỳ vọng sẽ thanh khoản tốt hơn nếu những người tham gia thị
trường có thể tìm được nguồn tài trợ rẻ hơn và nhận biết được mức rủi ro thấp của tài
sản đang nắm giữ. Vì CSTT có thể ảnh hưởng đến cả chi phí tài trợ và rủi ro của việc
nắm giữ cổ phiếu nên cũng ảnh hưởng đến thanh khoản cổ phiếu trên thị trường.
Fleming và Remolona (2001) cho rằng việc mở rộng CSTT tác động đến thanh khoản
TTCK thông qua tác động làm giảm chi phí giao dịch và chi phí huy động vốn. Chẳng
hạn thông qua nghiệp vụ thị trường mở, việc mua giấy tờ có giá của NHTW sẽ làm
tăng cơ số tiền tệ, do đó làm tăng cung tiền ra nền kinh tế. Các NHTM có thể mở rộng
tài trợ cho các giao dịch ký quỹ hoặc cho các nhà đầu tư trên TTCK vay. Vì vậy, mở
rộng CSTT sẽ tác động làm gia tăng thanh khoản trên TTCK.
Nghiên cứu của Brunnermeier và Pedersen (2009) đã chứng minh cho điều này dựa
trên việc phát triển mô hình nghiên cứu mối quan hệ tác động qua lại giữa nguồn tài
trợ thanh khoản và thanh khoản của tài sản. Mô hình cho rằng các nhà giao dịch bị
hạn chế về khả năng huy động vốn sẽ gặp khó khăn khi đáp ứng các yêu cầu ký quỹ,
do đó làm giảm thanh khoản của thị trường.
Hơn nữa, sự sụt giảm thanh khoản của thị trường sẽ làm giảm thanh khoản của nguồn
tài trợ do yêu cầu ký quỹ cao hơn. Từ đó lại tác động làm giảm thanh khoản thị trường
và mức ký quỹ lại tiếp tục tăng cao hơn. Vì vậy, CSTT có thể tác động đến thanh
khoản của cổ phiếu trên thị trường thông qua việc nới lỏng (hay thắt chặt) CSTT sẽ
làm giảm bớt (hoặc trầm trọng thêm) tình trạng vay ký quỹ, từ đó tác động làm tăng
(giảm) thanh khoản về vốn của những người tham gia thị trường.
Jensen và Moorman (2010) cũng tìm thấy mối liên hệ mang tính hệ thống giữa CSTT
và thanh khoản cổ phiếu trên thị trường. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự mở
rộng của CSTT sẽ làm gia tăng thanh khoản của vốn, từ đó tác động làm tăng thanh
khoản cho toàn bộ thị trường.
35
Ngoài ra, trong dài hạn CSTT còn tác động đến hành vi nhà đầu tư và cấu trúc thị
trường, từ đó ảnh hưởng đến thanh khoản. Nếu NHTW thực hiện CSTT nới lỏng, duy
trì lãi suất ở mức thấp nhằm thúc đẩy kinh tế, cũng có tác động khuyến khích các nhà
đầu tư tìm kiếm các cơ hội đầu tư với tỷ suất sinh lời cao hơn như đầu tư cổ phiếu,
trái phiếu, mặc dù thanh khoản không cao như gửi ngân hàng. Các quỹ đầu tư cũng
sẽ cơ cấu lại danh mục, đầu tư nhiều hơn vào thị trường cổ phiếu.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa CSTT và thanh khoản thị trường cổ phiếu không phải
lúc nào cũng là quan hệ tuyến tính cùng chiều Đặc biệt trong những năm gần đây,
khi NHTW đã đưa ra một số quy định trong việc hạn chế các NHTM cho vay ký quỹ
và cho vay đầu tư chứng khoán (Freixas và ctg, 2011).
2.3 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
2.3.1 Một số nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới
Nghiên cứu về tác động của CSTT đến TTCK được thực hiện từ những năm 70 của
thế kỷ XX như (Rozeff, 1974; Pesando, 1974; Auerbach, 1976)... trong đó chủ yếu
nghiên cứu về tác động của cung tiền đến giá cổ phiếu trên TTCK tại Mỹ. Sau đó,
các nghiên cứu về tác động của CSTT đến TTCK tại các quốc gia trên thế giới tiếp
tục phát triển nhiều hướng tiếp cận khác nhau.
Hướng tiếp cận thứ nhất là nghiên cứu tác động của CSTT đến TTCK trong đó xem
xét vai trò của TTCK là kênh truyền dẫn tác động của CSTT đến nền kinh tế. Bên
cạnh các kênh truyền dẫn truyền thống như lãi suất tín dụng, kênh giá tài sản cũng là
kênh truyền dẫn ngày càng quan trọng.
Theo Mishkin (2001) kênh giá tài sản được xem xét gồm: giá chứng khoán, giá bất
động sản và tỷ giá. Hướng nghiên cứu này thường được lồng trong nghiên cứu về cơ
chế truyền dẫn tác động của CSTT đối với nền kinh tế.
Cosimano và ctg (1999) đã khẳng định vai trò của thị trường cổ phiếu trong truyền
dẫn CSTT tại Mỹ. Ehrmann và Fratzscher (2004) đã nhấn mạnh: bên cạnh truyền dẫn
36
CSTT qua kênh lãi suất và tín dụng, thị trường cổ phiếu cũng là kênh truyền dẫn
mạnh những thay đổi của lãi suất mục tiêu của FED đối với nền kinh tế. Cassola và
Morana (2004) cũng kết luận rằng giá cổ phiếu đóng vai trò quan trọng trong truyền
dẫn CSTT tại châu Âu, đồng thời khuyến nghị CSTT nên tập trung ổn định giá cả
hàng hóa trong dài hạn sẽ góp phần ổn định TTCK. Nghiên cứu của Berument và
Kutan (2007) trên TTCK Thổ Nhĩ Kỳ cũng cho thấy TTCK cũng đóng vai trò đáng
kể truyền dẫn CSTT trong ngắn hạn. Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy vai trò của
các TTCK mới nổi trong tiến trình toàn cầu hóa thị trường tài chính.
Hướng tiếp cận thứ hai là nghiên cứu phản ứng của giá cổ phiếu trên thị trường trước
những thông báo thay đổi lãi suất điều hành hoặc cung tiền. Theo hướng tiếp cận này,
các nhà nghiên cứu thường sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện (event study)
với dữ liệu theo tần suất cao (theo ngày hoặc tuần) để đo lường tác động tức thời của
các thông báo CSTT (monetary policy announcements effect) đến giá cổ phiếu trên
thị trường.
Biến đại diện cho CSTT là thay đổi cung tiền được sử dụng trong các nghiên cứu của
(Berkman, 1978; Lynge Jr, 1981; Pearce và Roley, 1983; LeSage và Solocha, 1993).
Trong khi đó, các nghiên cứu của (Smirlock và Yawitz, 1985; Jensen và Johnson,
1995) sử dụng lãi suất chiết khấu làm biến đại diện cho CSTT.Bernanke và Kuttner
(2005), Ekanayake và Sengupta (2009) đo lường phản ứng của giá cổ phiếu đối với
những thay đổi lãi suất vốn liên bang (FED funds rate) xét trên góc độ toàn thị trường
và từng ngành.
Hầu hết các nghiên cứu ở giai đoạn trước những năm 90 của thế kỷ XX thường sử
dụng M1 để đo lường thay đổi cung tiền. Các kết quả nghiên cứu cho thấy các thông
báo về việc gia tăng cung tiền ngoài kỳ vọng làm giảm giá cổ phiếu trên thị trường
do kỳ vọng về lạm phát trong tương lai tăng lên. Các nghiên cứu sử dụng lãi suất làm
biến số đại diện cho CSTT lại chỉ ra rằng kết quả của thắt chặt tiền tệ (bằng cách tăng
lãi suất chiết khấu) là sự sụt giảm của giá cổ phiếu.
37
Bên cạnh nghiên cứu ảnh hưởng của các thông báo CSTT, các nhà nghiên cứu còn sử
dụng mô hình hồi quy cho dữ liệu thời gian theo tần suất tháng hoặc quý để đánh giá
tác động trong ngắn hạn và dài hạn của các biến số CSTT đến giá cổ phiếu (hoặc tỷ
suất sinh lời cổ phiếu) trên TTCK. Kết quả của các nghiên cứu giai đoạn trước những
năm 1990 của (Pesando, 1974; Rozeff, 1974; Rogalski và Vinso, 1977; Darrat, 1990)
cho thấy thay đổi CSTT (cung tiền hoặc lãi suất) không có quan hệ Granger với giá
cổ phiếu (hoặc tỷ suất sinh lời). Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ xem xét tác động
trong ngắn hạn với độ trễ từ 1 -3 tháng và sử dụng phương pháp hồi quy OLS.
Từ sau những năm 1990, mô hình VAR của Sims (1991) bắt đầu được sử dụng để
nghiên cứu mối quan hệ này. Thorbecke (1997) đã ứng dụng mô hình VAR với dữ
liệu tần suất tháng trong giai đoạn từ tháng 01/1967 đến tháng 12/1990 để đánh giá
tác động của lãi suất vốn liên bang đến tỷ suất sinh lời cổ phiếu trên TTCK Mỹ.
(Patelis, 1997; Lastrapes, 1998; Corallo, 2006; Ioannidis và Kontonikas, 2008; Li và
ctg, 2010; Aziza, 2010) đã tiếp tục kế thừa mô hình nghiên cứu của Thorbecke (1997)
tại các TTCK phát triển như Anh, Đức, Canada, các nước OECD…
Bên cạnh đó, hướng nghiên cứu này còn được tiếp cận và thực hiện rộng rãi tại các
TTCK mới nổi như nghiên cứu của Tang và ctg (2013) tại Trung Quốc, Abaenewe
và Ndugbu (2012) tại Nigeria, Seong (2013) tại Singapore, Yoshino và ctg (2014) tại
các nước Đông Nam Á…Hầu hết các kết quả nghiên cứu đều cho thấy các cú sốc
trong điều hành CSTT có tác động đến giá cổ phiếu hoặc tỷ suất sinh lời trên TTCK:
việc thắt chặt tiền tệ có tác động ngược chiều đến giá cổ phiếu và ngược lại. Tuy
nhiên, mức độ tác động mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng
quốc gia, khoảng thời gian nghiên cứu và các biến số được nghiên cứu trong mô hình.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn thực hiện đánh giá tác động của CSTT đến độ biến
động của giá cổ phiếu hay tỷ suất sinh lời trên TTCK. Mở đầu cho hướng nghiên cứu
này là Schwert (1989). Theo đó, Schwert (1989) đã phân tích mối quan hệ giữa biến
động lợi suất trái phiếu, tỷ lệ lạm phát, tăng trưởng cung tiền, chỉ số sản xuất công
nghiệp và biến động TSSL trên TTCK. Đồng thời, nghiên cứu còn cho thấy mức độ
38
ảnh hưởng của độ biến động các biến vĩ mô đến độ biến động TTCK. Phương pháp
nghiên cứu được áp dụng phổ biến trong hướng tiếp cận này là sử dụng mô hình
phương sai thay đổi có điều kiện (ARCH và GARCH) do Engle (1982) đưa ra. Jamali
(2009) đã sử dụng mô hình GARCH để nghiên cứu tác động của các cú sốc CSTT
đến độ biến động TSSL cổ phiếu trên TTCK Mỹ. Ngoài ra, (Jamali, 2009) còn xác
định thông qua kênh truyền dẫn nào mà các quyết định của FED tác động đến độ biến
động của TTCK. Nghiên cứu của (Yusof và AbdulMajid, 2007) trên TTCK Malaysia
sử dụng mô hình GARCH kết hợp với mô hình VAR cho thấy sự biến động của lãi
suất có ảnh hưởng đến biến động TSSL cổ phiếu trên TTCK Malaysia trong giai đoạn
1992 – 2000.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ sau khủng hoảng tài chính năm 2008, vấn
đề về thanh khoản TTCK được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. TTCK có thanh
khoản tốt sẽ tạo điều kiện cho nguồn vốn được luân chuyển hiệu quả giữa nhà đầu tư,
người tiết kiệm và người cho vay đồng thời cũng đem lại lợi ích cho nền kinh tế.
Theo Levine (2003) một TTCK có thanh khoản tốt sẽ có thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và dòng vốn đầu tư trong tương lai. Ngoài ra, còn giúp phân bổ rủi ro tài chính giữa
các thành viên tham gia thị trường tốt hơn cũng như giúp các thành viên có chiến lược
phòng ngừa rủi ro và xây dựng danh mục đầu tư hiệu quả hơn. Thanh khoản còn là
thông tin cần thiết cho các công ty khi muốn phát hành thêm cổ phiếu. Vì sự thay đổi
của giá cổ phiếu là thông tin quan trọng liên quan đến giá trị vốn hóa thị trường của
công ty cũng như rủi ro thanh khoản.
Hiệu quả của CSTT cũng phụ thuộc vào điều kiện thanh khoản của thị trường tài
chính trong đó có thị trường chứng khoán. Abbassi và Linzert (2012) đã phân tích
hiệu quả của CSTT trong việc điều tiết lãi suất thị trường ở khu vực châu Âu và thấy
rằng lãi suất thị trường tiền tệ sau khủng hoảng phản ứng kém hơn với những thay
đổi trong chính sách lãi suất của NHTW Châu Âu. Sự giảm sút hiệu quả điều hành
CSTT này một phần là do sự sụt giảm trong thanh khoản trên TTCK ở Châu Âu.
39
Kết quả nghiên cứu của Fernández-Amador và ctg (2013) cũng cho thấy việc mở rộng
CSTT của NHTW Châu Âu dẫn đến sự gia tăng thanh khoản trên TTCK tại các nước
Đức, Ý và Pháp. Vì vậy, một hướng nghiên cứu mới khi đánh giá tác động của CSTT
đến TTCK là nghiên cứu tác động của các biến số CSTT đến thanh khoản TTCK.
Bảng 2.1: Tổng hợp các nghiên cứu ngoài nước
STT
Tác giả
Mục tiêu
Phương pháp
Dữ liệu nghiên cứu
Các nghiên cứu về tác động của CSTT đến giá cổ phiếu
1
- VAR - Event study
Thorbecke (1997)
- Mỹ, tần suất tháng, từ 01/1953 – 12/1990 - Event study: dữ liệu
2
Rigobon và Sack (2001)
tần suất theo ngày - Mỹ - Tỷ suất sinh lời ngày
theo
heteroskedasticity – based estimator - VAR
TTCK (S&P 500)
3
heteroskedasticity – based estimator
Xem xét phản ứng của TSSL cổ phiếu trước các cú sốc CSTT của ứng Phản CSTT đối với sự thay đổi giá cổ phiếu - Tác động của CSTT đến giá cổ phiếu
(Rigobon và Sack, 2004)
- 3/1985 đến 12/1999 - Mỹ - Dữ liệu theo sự kiện, từ 3/1/1994 đến 26/11/2001 (78 ngày chính sách)
- Mỹ - Dữ liệu ngày từ
4
- Event study - OLS using panel
1994 – 2003
Ehrmann và Fratzscher (2004)
- 79 cuộc họp của
FOMC
corrected standards errors (PCSE)
- CSTT tác động đến cổ phiếu từng ngành, từng công ty) vào ngày có quyết định của FED
- Đo
5
- Event study - VAR
- Mỹ - Số lần thay đổi lãi suất và số cuộc họp của FOMC
- Dữ liệu tần suất tháng
từ 1989 - 2002
lường phản ứng của giá cổ phiếu đối với những thay đổi của CSTT - Tác động
6
- VAR
Bernanke và Kuttner (2005) Berument và Kutan (2007)
của CSTT đến TSSL cổ phiếu
- Thổ Nhĩ Kỳ - Dữ liệu theo tháng từ tháng 01/1991 đến 10/2001
- OLS
7
Ioannidis và Kontonikas (2008)
- Event study
8
- 13 quốc gia OECD - Dữ liệu tần suất theo tháng từ 1972 – 2002 - Mỹ - Từ
01/1994
đến
Ekanayake và Sengupta (2009)
10/2007
- SVAR
9
Đo lường tác động của CSTT đến tỷ lời cổ suất sinh phiếu Đo lường phản ứng DJIA với của những thay đổi lãi suất của FED - Tác động
- Canada và Mỹ - Dữ theo theo tháng từ
Li và ctg (2010)
1996 - 2008
của CSTT đến giá cổ phiếu, có xem xét đến độ mở ngoại thương và độ mở TTTC
10 Aziza
- Tác động
- VECM
- 10 quốc gia phát triển
(2010)
và đang phát triển
của CSTT đến hoạt động của TTCK
- Dữ liệu theo tháng từ
1988 – 2008
và
11
- Tác động
- Granger
causality tets
01/2000
đến
- EU - Từ
của CSTT đến giá cổ phiếu
Stoica Diaconașu (2012) 12 Abaenewe
- Nghiên cứu
02/2012 - Nigeria - Dữ liệu theo tháng từ
tác động của CSTT đến giá cổ phiếu
1985 -2010
- VAR - OLS multiple regressions and correlation coefficient
13
- Tác động
- VECM
và Ndugbu (2013) Seong (2013)
của CSTT đến TTCK
- Singapore - Dữ liệu
tháng
từ
01/1991 đến 09/2013
14 Yoshino và
- Tác động
- VECM
ctg (2014)
- Iran - Dữ
liệu
tháng
từ
của CSTT đến giá cổ phiếu
15 Raghavan
- SVECM
và Dungey (2015)
- Mối quan hệ giữa CSTT và cú sốc TTCK
01/1998 đến 6/2013 - Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines đến 01/2000
- Từ
12/2011.
40
Các nghiên cứu về tác động của CSTT đến thanh khoản TTCK
16 Amihud
- Cross
–section
- Mỹ
(2002)
- Phương pháp đo lường tính thiếu
estimation
- Dữ liệu tháng, từ 1963
- 1996
thanh khoản của TTCK
17 Chordia và
- VAR
- Mỹ
- Tác động
ctg (2002)
- Từ
06/1991
đến
12/1998
của CSTT đến thanh khoản TTTP, TTCP
và
- VAR
- Nhật Bản
- Các nhân tố vĩ mô thanh khoản
- Dữ
liệu
tháng,
từ
18 Choi Cook (2006)
và TTCK
01/1975 đến 12/2001
19
- Tác động
- VAR
- Đan Mạch, Na Uy,
Söderberg (2008)
Thụy Điển
- ARMA
- Dữ
liệu
tháng,
từ
của nhân tố vĩ mô đến thanh khoản TTCK
01/1193 đến 6/2005
- Tác động
- Cross – section
- Thụy Điển
20 Lindqvist và Rietz
estimation
- Dữ
liệu
từ
Du (2010)
của thanh khoản đến giá cổ phiếu
tháng, 6/1993 đến 6/2007
21
- Time – series
- Mỹ
regression
- Từ
08/1953
đến
12/2009
(Lu- Andrews và Glascock, 2010)
- Tác động của các nhân tố vĩ mô đến thanh khoản TTCK
22
- Tác động
- Panel
- Đức, Ý, Pháp
estimations
- Dữ
liệu
tháng,
từ
Fernández- Amador và ctg (2013)
của CSTT đến thanh khoản TTCK o
- VAR
01/1999 đến 12/2009
- Jordanian
23 Mousa (2016)
- ANOVA analysis
- Dữ
liệu
tháng,
từ
01/2012 đến 06/2016
- Tác động của các biến số vĩ mô đến thanh khoản TTCK
24
- Event study
- Thổ Nhĩ Kỳ
Sensoy (2016)
- Tác động của các thông báo CSTT đến thanh khoản TTCK
- Dữ liệu ngày, từ các cuộc họp của NHTW các nước
41
Nguồn: Tác giả tổng hợp
42
2.3.2 Một số nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam
Mặc dù TTCK Việt Nam ra đời được hơn 17 năm nhưng thị trường bắt đầu phát triển
chỉ từ năm 2006 đến nay. Việc nghiên cứu định lượng đòi hỏi phải có dữ liệu trong
một khoảng thời gian dài, vì vậy các nghiên cứu về tác động của các nhân tố vĩ mô
và CSTT đến TTCK mới chỉ được thực hiện trong những năm gần đây. Các nghiên
cứu được thực hiện theo hướng đánh giá tác động của các nhân tố vĩ mô như: lạm
phát, sản lượng, tỷ giá, giá vàng, giá dầu thô, cung tiền, lãi suất đến giá cổ phiếu trên
thị trường (thường được lấy đại diện là chỉ số chứng khoán). Do các nghiên cứu được
thực hiện trong nhiều giai đoạn khác nhau với các phương pháp khác nhau nên kết
quả không nhất quán. Phạm Thế Anh (2010) cho thấy trong ngắn hạn các yếu tố vĩ
mô có tác động tức thời đến VNI gồm lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng và tỷ giá
USD/VND, trong khi đó cung tiền và sản lượng tác động cùng chiều với VNI nhưng
sau độ trễ 1 tháng.
Các nghiên cứu của Nguyễn Hữu Tuấn (2011), Phan Đình Nguyên và Tống Trang
Châu (2013), Nguyễn Minh Kiều và Nguyễn Văn Điệp (2013), Phan Thị Bích Nguyệt
và Phạm Dương Phương Thảo (2013), Bùi Kim Yến và Nguyễn Thái Sơn (2014),
Dương Ngọc Mai Phương và Vũ Thị Phương Anh (2015), Thân Thị Thu Thủy (2015)
hầu hết đều tìm thấy mối quan hệ dài hạn giữa các biến số vĩ mô và giá chứng khoán
với các mức độ và chiều hướng tác động khác nhau.
Ngoài ra, một hướng tiếp cận khác là nghiên cứu về tác động của CSTT đến thanh
khoản của TTCK ở cả cấp độ vi mô và vĩ mô cũng bắt đầu được thực hiện tuy chưa
nhiều. Trần Thị Xuân Anh và Ngô Thị Hằng (2012) và Trần Thị Hải Lý (2015) đã
tiếp cận ở góc độ vĩ mô khi nghiên cứu tác động của CSTT đến thanh khoản của
TTCK.
Trần Thị Xuân Anh và Ngô Thị Hằng (2012) đã sử dụng hai biến để đo lường CSTT
là cung tiền M2 và lãi suất tái cấp vốn; còn biến số đo lường thanh khoản là khối
lượng giao dịch bình quân tháng trên HOSE giai đoạn từ tháng 8/2000 – 8/2012. Dựa
trên kết quả hồi quy OLS cho thấy lãi suất tái cấp vốn có tương quan nghịch chiều với
43
thanh khoản, còn cung tiền M2 tương quan cùng chiều. Tính thanh khoản với đại diện
là khối lượng giao dịch bình quân tháng trên HOSE không chịu tác động của CSTT
thời kỳ trước hay độ trễ của CSTT. CSTT ban hành thời kỳ nào sẽ ngay lập tức tác
động đến tâm lý giao dịch của nhà đầu tư, biểu hiện qua khối lượng giao dịch trong
ngày, từ đó tác động đến thanh khoản của thị trường.
Nghiên cứu ở giai đoạn từ tháng 09/2007 đến tháng 11/2014, Trần Thị Hải Lý (2015)
sử dụng hai biến số của CSTT gồm tăng trưởng cung tiền và lãi suất liên ngân hàng
với 4 thước đo thanh khoản dựa trên dữ liệu của 643 công ty trên cả HOSE và HNX.
Kết quả cho thấy những thay đổi ngoài kỳ vọng của hai biến số thuộc CSTT không
có ảnh hưởng nào có ý nghĩa lên thanh khoản thị trường. Trong khi đó, sự gia tăng
của tỷ suất sinh lời của thị trường, lạm phát và tăng trưởng sản lượng công nghiệp
góp phần cải thiện thanh khoản. Ngoài ra, biến động của thị trường có ảnh hưởng
nhưng không nhất quán về dấu ở các thước đo thanh khoản.
Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013) lại xem xét tác động của CSTT đến thanh khoản của
TTCK cả cấp độ vi mô và vĩ mô giai đoạn 2008 – 2012 dựa trên dữ liệu của 300 cổ
phiếu giao dịch trên HOSE. Kết quả cho thấy ở cấp độ vi mô, tăng trưởng cung tiền
M0 không tác động đến tính khoản của các chứng khoán riêng lẻ trên HOSE, nhưng
biến lập trường tiền tệ lại tác động ngược chiều đến thanh khoản từng cổ phiếu. Ở
cấp độ vĩ mô, CSTT có tác động đến thanh khoản tổng thể của toàn bộ TTCK Việt
Nam, tuy nhiên mức tác động còn khiêm tốn.
Nghiên cứu của Lê Đạt Chí và Hoàng Thị Phương Thảo (2016) xem xét tác động của
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 lên thanh khoản TTCK Việt Nam thông qua sử
dụng nhiều thước đo thanh khoản khác nhau với dữ liệu bảng không cân bằng được
thu thập từ 609 công ty trong thời gian từ quý 04/2007 đến quý 04/2013. Sử dụng
phương pháp GMM cho dữ liệu bảng, kết quả cho thấy trong thời kỳ khủng hoảng
thanh khoản cổ phiếu bị sụt giảm so với thời kỳ sau khủng hoảng. Ngoài ra, các biến
số thị trường như: giá trị vốn hóa, tỷ suất sinh lời có tác động mạnh đến thanh khoản
44
từng cổ phiếu. Các biến số có ảnh hưởng không đáng kể đến thước đo thanh khoản là
đòn bẩy, dòng tiền và tỷ suất sinh lợi của doanh nghiệp.
Bảng 2.2: Tổng hợp các nghiên cứu trong nước
STT
Tên tác giả
Mục tiêu
Thời gian
PPNC
OLS
1
Phạm Thế Anh (2010)
03/2004 đến 03/2009
Mối quan hệ định lượng trong ngắn hạn giữa các biến vĩ mô và biến động của TTCK
VECM
2
Nguyễn Hữu Tuấn (2011)
Ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến giá chứng khoán
01/2005 đến 12/2010
OLS
3
8/2000 đến 8/2012
Kiểm chứng xem liệu CSTT có ảnh hưởng đến thanh khoản TTCK Việt Nam
Trần Thị Xuân Anh và Ngô Thị Hằng (2012)
VECM
4
01/2004 đến 12/2011
Nguyễn Minh Kiều và Nguyễn Văn Điệp (2013)
Đo lường mối quan hệ của 4 yếu tố vĩ mô: CPI, Tỷ giá, M2 và giá vàng trong nước đến mức độ biến động của TTCK VN
VAR
5
Ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến giá chứng khoán
01/2006 đến 07/2012
Phan Đình Nguyên và Tống Trang Châu (2013)
OLS
6
7/2000 đến 09/2011
Kiểm định tại VN có tồn tại mối tương quan giữa những nhân tố kinh tế vĩ mô với thị trường chứng khoán VN hay không?
Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dương Phương Thảo (2013)
VECM
7
01/2007 đến 12/2012
Ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến thị trường chứng khoán VN trong giai đoạn 2007-2012
Bùi Kim Yến và Nguyễn Thái Sơn (2014)
SVAR
8
01/2005 đến 12/2014
Phân tích và đo lường chuyển động của TTCK thông qua giá tài sản (chỉ số giá cổ phiếu) thay đổi ntn trước các cú sốc của CSTT
Dương Ngọc Mai Phương, Vũ Thị Phương Anh (2015)
VAR
9
01/2009 đến 06/2014
Thân Thị Thu Thủy (2015)
Nghiên cứu này nhằm đo lường sự tác động của sáu nhân tố kinh tế vĩ mô đến các chỉ số giá cổ phiếu đang được áp dụng tại (HOSE).
VAR
10
Trần Thị Hải Lý (2015)
Ảnh hưởng của CSTT lên thanh khoản của TTCK VN
01/2007 đến 11/2014
GMM
11
Lê Đạt Chí (2016)
Quý 4/2007 đến quý 4/2013
Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu lên thanh khoản thị trường chứng khoán Việt Nam
45
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Từ tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam, cho thấy nghiên cứu về
tác động của các nhân tố vĩ mô nói chung và CSTT nói riêng tác động đến TTCK
được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các nghiên cứu trên thế giới được thực hiện
từ những năm 60 của thế kỷ 20 đến nay đã thay đổi nhiều về nội dung và phương
pháp nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau tại nhiều quốc gia.
Trong khi đó, tại Việt Nam các nghiên cứu về vấn đề này mới chỉ được thực hiện
trong khoảng 5 năm gần đây chủ yếu theo hướng tiếp cận đánh giá tác động của các
biến số vĩ mô đến TTCK mà chưa có nghiên cứu chuyên sâu về tác động của CSTT
đến sự phát triển của TTCK. Trong phạm vi tìm hiểu của tác giả chưa có đề tài nào
được thực hiện nhằm đánh giá tác động của CSTT đến TTCK Việt Nam ở cả hai
hướng tiếp cận là tác động đến giá chứng khoán và tác động đến thanh khoản. Vì vậy,
luận án được thực hiện nhằm bổ sung vào khoảng trống nghiên cứu này.
Kết luận chương 2
Trong chương này đã trình bày khái quát cơ sở lý luận về CSTT, TTCK và hệ thống
hóa các học thuyết, mô hình về tác động của chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu và
thanh khoản thị trường. Ngoài ra, việc tổng hợp và xác định các hướng nghiên cứu
về tác động của CSTT đến TTCK tại nhiều quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt
Nam được trình bày trong chương. Từ đó chỉ ra khoảng trống nghiên cứu cần được
thực hiện, làm cơ sở cho quá trình lựa chọn phương pháp và mô hình nghiên cứu
được trình bày ở chương tiếp theo.
46
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Từ việc hệ thống các hướng nghiên cứu cho thấy có nhiều phương pháp được sử dụng
nhằm đánh giá tác động của CSTT đến TTCK. Phương pháp nghiên cứu phổ biến
được sử dụng tại các quốc gia phát triển và đang phát triển là sử dụng mô hình hồi
quy dữ liệu thời gian như: VAR, SVAR, VECM…
Ngoài ra, trong những năm gần đây, phương pháp nghiên cứu sự kiện (event study)
và phương pháp phương sai thay đổi (heteroskedasticity) được sử dụng khi nghiên
cứu về tác động của CSTT đến giá cổ phiếu tại quốc gia có thị trường tài chính và
TTCK phát triển lâu đời. Chẳng hạn như nghiên cứu của Rigobon và Sack (2004),
Hayford và Malliaris (2004), Bernanke và Kuttner (2005) thực hiện trên TTCK Mỹ,
nghiên cứu của Stoica và Diaconașu (2012) trên TTCK châu Âu, Gregoriou và ctg
(2009) nghiên cứu trên thị trường Anh.
Ưu điểm của các phương pháp này là có thể đo lường phản ứng tức thời của TTCK
do những thay đổi từ các thông báo của nhà điều hành CSTT. Tuy nhiên, nhược điểm
các phương pháp này là cần có dữ liệu tần suất cao (theo ngày), các cuộc họp công
bố thay đổi CSTT được ấn định trước, NHTW có định hướng rõ ràng và truyền thông
đầy đủ về hệ thống mục tiêu cũng như các công cụ được sử dụng. Vì vậy, khó có thể
áp dụng phương pháp này để ước lượng cho TTCK tại các nước đang phát triển như
Việt Nam.
Với đặc điểm dữ liệu nghiên cứu thu thập được là dữ liệu thời gian với tần suất tháng,
trong bối cảnh nền kinh tế được xếp vào nhóm đang phát triển và TTCK được MSCI
xếp vào nhóm thị trường cận biên, mô hình hồi quy được sử dụng trong luận án là mô
hình tự hồi quy vector (VAR) và mô hình tự hồi quy vector cấu trúc (SVAR).
47
3.1.1 Mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đến giá cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
3.1.1.1 Giới thiệu mô hình SVAR
Theo Lütkepohl (2005), dạng tổng quát mô hình SVAR có biến ngoại sinh như sau:
(cid:3043) (cid:3036)(cid:2880)(cid:2869)
(3.1) AY(cid:2930) (cid:3404) Φ(cid:2868) (cid:3397) ∑ Φ(cid:3036) Y(cid:2930)(cid:2879)(cid:2919) (cid:3397) ΨX(cid:2930) (cid:3397) ε(cid:2930)
Trong đó: A là ma trận (n x n) hệ số tác động cùng thời điểm giữa các biến nội sinh;
Yt là vectơ (n x 1) biến nội sinh; Φ0 là vectơ (nx1) của hệ số chặn; Φi (i=1…p) là ma
trận (n x n) hệ số tác động của các biến nội sinh có trễ; Yt-i là ma trận (nxn) các biến
nội sinh trễ; p số bậc trễ của mô hình; Xt là vectơ biến ngoại sinh; Ψ là vectơ hệ số
của các biến ngoại sinh; ɛt là vectơ (nx1) các nhiễu trắng.
Để ước lượng mô hình (3.1) cần phải chuyển hệ phương trình sang dạng VAR rút gọn
(reduced form VAR) bằng cách nhân hai vế của mô hình (3.1) với A-1 và có được mô
hình dưới dạng ma trận như sau:
(cid:3043) (cid:3036)(cid:2880)(cid:2869) (cid:1851)(cid:3047)(cid:2879)(cid:3036) (cid:3397) Ψ(cid:1850)(cid:3047) (cid:3397) (cid:2020)(cid:3047) (3.2)
(cid:1851)(cid:3047) (cid:3404) (cid:1829) (cid:3397) ∑ Г(cid:3036)
Với C = A-1Φ(cid:2868) là vectơ hằng số ; Г(cid:3036) = A-1Φi; và (cid:2020)(cid:3047) = A-1(cid:2013)(cid:3047) là vectơ (n x 1) của sai số có trung bình bằng không, phương sai không đổi và không tương quan chuỗi với tất
cả các biến số ở vế phải của mô hình.
Theo Lütkepohl (2005) các cú sốc cấu trúc được tách khỏi các phần dư dạng rút gọn
được ước lượng bằng cách đặt ra những giới hạn (restrictions) cho các tham số của
ma trận A và B trong phương trình:
(3.3) A(cid:2020)(cid:3047) = (cid:1828)(cid:2013)(cid:3047)
Trong đó:
1 0 ⋯ 0 (cid:1854)(cid:2869)(cid:2869)
0 (cid:1853)(cid:2870)(cid:2869) (cid:1854)(cid:2870)(cid:2870) ⋯ 0 A = … 1 ⋮ ⋮ ⋮ … … ⋮
0 (cid:1741) (cid:1742) (cid:1742) (cid:1742) (cid:1742) (cid:1743) 0 ⋯ 0 (cid:1744) (cid:1741) (cid:1745) (cid:1742) 1 ⋯ 0 (cid:1745) (cid:1742) B= (cid:1745) (cid:1742) (cid:1745) (cid:1742) (cid:1853)(cid:3041)(cid:2869) (cid:1853)(cid:3041)(cid:2870) … 1(cid:1746) (cid:1743) (cid:1744) (cid:1745) (cid:1745) (cid:1745) (cid:1745) 0 … (cid:1854)(cid:3041)(cid:3041)(cid:1746)
Do ma trận A là ma trận vuông (n x n), tổng của 2n2 phần tử chưa biết có thể được
xác định dựa vào n(n + 1)/2 giới hạn được xác định (với n là số biến nội sinh). Do
48
vậy, để xác định ma trận A và B, cần có ít nhất n(3n – 1)/2 giới hạn bổ sung phải
thêm vào.
Phương pháp phổ biến được sử dụng để xác định các giới hạn này là dựa trên phân rã
Cholesky ma trận A. Phương pháp này giả định rằng các phần tử trong ma trận A có
mối quan hệ đệ quy, do vậy, ma trận A là ma trận tam giác dưới (tất cả các phần tử
nằm phía trên đường chéo của ma trận bằng 0).
Quan hệ đệ quy chỉ ra rằng việc xác định các cú sốc cấu trúc được dựa vào sắp xếp
trật tự của các biến số nội sinh trong mô hình. Với một trật tự nhất định, biến số ở vị
trí đầu tiên sẽ không có mối quan hệ cùng thời điểm với các biến số còn lại trong mô
hình, nói cách khác là tại thời điểm t biến số ở vị trí đầu tiên không chịu tác động của
các biến số còn lại cũng ở thời điểm t, mà chỉ chịu tác đồng trễ của các biến số này,
t-1, t-2…; biến số ở vị trí thứ hai chỉ chịu tác động cùng thời điểm của chính nó và
biến số ở vị trí đầu tiên; biến số ở vị trí thứ ba sẽ chịu tác động cùng thời điểm của
chính nó và sốc cấu trúc của hai biến số ở vị trí trước đó…. Vấn đề của phương pháp
Cholesky là nằm ở trật tự này vì khi thay đổi trật tự của các biến số trong mô hình có
thể sẽ làm cả hệ số ước lượng, phần dư ước lượng và theo đó là các cú sốc thay đổi
(Lütkepohl, 2005).
3.1.1.2 Mô hình nghiên cứu đề xuất
Để đánh giá tác động của CSTT đến giá cổ phiếu trên TTCK Mỹ trong giai đoạn từ
1967 đến 1990, Thorbecke (1997) là người đầu tiên ứng dụng mô hình VAR do Sims
và ctg (1990) đề xuất nhằm. Nhiều nghiên cứu tiếp theo đã kế thừa mô hình của
Thorbecke (1997) khi nghiên cứu vấn đề này tại các quốc gia khác như: Cassola và
Morana (2004) nghiên cứu TTCK khu vực đồng tiền chung Châu Âu, Ioannidis và
Kontonikas (2008) tại 13 quốc gia OECD, Berument và Kutan (2007) tại Thổ Nhĩ Kỳ...
Vì mô hình VAR chỉ cho phép xem xét tác động trễ giữa các biến nội sinh trong mô
hình mà không cho thấy tác động đồng thời. Các nghiên cứu trong thời gian gần đây
như Ben Naceur và ctg (2007), Laopodis (2010) Li và ctg (2010)…đã sử dụng mô
hình VAR dạng cấu trúc (SVAR) nhằm xét đến tác động đồng thời cũng như tác động
49
trễ giữa các biến số CSTT và giá cổ phiếu trên TTCK được ràng buộc theo các lý
thuyết kinh tế. Vì vậy, mô hình SVAR cũng được sử dụng trong luận án nhằm định
lượng những thay đổi của giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam khi có các cú sốc xảy ra
trong điều hành CSTT.
Định dạng cú sốc cấu trúc
Với mục tiêu nghiên cứu là xem xét các phản ứng trong ngắn và trung hạn, nên
phương pháp định dạng cú sốc cấu trúc được dựa trên các nghiên cứu của Kim (1999),
Kim và Roubini (2000), Ben Naceur và ctg (2007)… Do đó, các cú sốc cấu trúc theo
phương trình (3.3) với trật tự của các biến số vectơ Yt trong phương trình (3.2) được
định dạng như sau:
(cid:3007)(cid:3007)(cid:3019) μ(cid:2930)
1 0 0 0 0 0 0
(cid:2899)(cid:2893)(cid:2896) μ(cid:2930)
0 1 0 0 0 0 0
1 0 0 0 0 Φ(cid:2871)(cid:2869) Φ(cid:2871)(cid:2870)
(cid:2893)(cid:2900)(cid:2893) μ(cid:2930) (cid:2887)(cid:2900)(cid:2893) μ(cid:2930)
1 0 0 0 (3.4) (cid:1827) (cid:3404) 0 Φ(cid:2872)(cid:2870) Φ(cid:2872)(cid:2871) μ(cid:3047) (cid:3404)
(cid:2897)(cid:2870) μ(cid:2930)
Φ(cid:2873)(cid:2869) 0 Φ(cid:2873)(cid:2871) Φ(cid:2873)(cid:2872) 1 Φ(cid:2872)(cid:2873) 0 (cid:1735) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1738) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1738) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1735) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) 1 0 0 Φ(cid:2874)(cid:2869) 0 Φ(cid:2874)(cid:2872) Φ(cid:2874)(cid:2873)
(cid:2893)(cid:2902) μ(cid:2930) (cid:2906)(cid:2898)(cid:2893)(cid:1740) μ(cid:2930)
(cid:1737) (cid:1737) Φ(cid:2875)(cid:2869) Φ(cid:2875)(cid:2870) Φ(cid:2875)(cid:2871) Φ(cid:2875)(cid:2872) Φ(cid:2875)(cid:2873) Φ(cid:2875)(cid:2874) 1(cid:1740)
(3.5) (cid:1828) (cid:3404) (cid:2013)(cid:3047) (cid:3404)
(cid:1735) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1738) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1738) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1735) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736)
(cid:2890)(cid:2890)(cid:2902) ε(cid:2930) (cid:2899)(cid:2893)(cid:2896) ε(cid:2930) (cid:2893)(cid:2900)(cid:2893)(cid:2893) ε(cid:2930) (cid:2887)(cid:2900)(cid:2893) ε(cid:2930) (cid:2897)(cid:2870) ε(cid:2930) (cid:2893)(cid:2902) ε(cid:2930) (cid:2906)(cid:2898)(cid:2893)(cid:1740) ε(cid:2930)
(cid:2010)(cid:2869)(cid:2869) 0 0 0 0 0 0 0 (cid:2010)(cid:2870)(cid:2870) 0 0 0 0 0 0 0 (cid:2010)(cid:2871)(cid:2871) 0 0 0 0 0 0 0 (cid:2010)(cid:2872)(cid:2872) 0 0 0 0 0 0 0 (cid:2010)(cid:2873)(cid:2873) 0 0 0 0 0 0 0 (cid:2010)(cid:2874)(cid:2874) 0 (cid:1737) 0 0 0 0 0 0 (cid:2010)(cid:2875)(cid:2875)(cid:1740) (cid:1737)
Trong mô hình (3.4) và (3.5) hai biến ngoại sinh gồm lãi suất vốn liên bang của Mỹ
và giá dầu thế giới đại diện cho cú sốc từ bên ngoài. Trong đó, FFR đại diện cho
điều hành CSTT của FED có tác động đến sản lượng trong nước (IPI), điều hành
CSTT của NHNN và giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam. Theo Li và ctg (2010), giá
50
dầu thế giới (OIL) có tác động đồng thời đến các biến số vĩ mô như sản lượng, lạm
phát và giá cổ phiếu.
Phương trình thứ ba thể hiện mối quan hệ giữa hoạt động kinh tế thực với lạm phát
và các biến số CSTT. Tuy nhiên, không chịu tác động đồng thời mà chỉ phản ứng với
giá và các yếu tố tài chính (lãi suất, TTCK) sau một độ trễ.
Phương trình thứ tư thể hiện phản ứng đồng thời của CPI đối với sản lượng. Sở dĩ giá
được đặt sau sản lượng là do giá được giả định là thay đổi nhanh hơn so với sản lượng,
điều này phù hợp đối với các nền kinh tế đang phát triển (Dabla-Norris và
Floerkemeier, 2006).
Phương trình thứ năm thể hiện trạng thái cân bằng trên thị trường tiền tệ. Theo lý
thuyết số lượng tiền tệ của Friedman và Schwartz (1975) lượng cầu tiền thực tệ phụ
thuộc vào thu nhập và chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền. Vì vậy, tổng mức cung
tiền phụ thuộc vào sản lượng, mức giá và lãi suất trong nền kinh tế. Phương trình
thứ sáu thể hiện cú sốc trong điều hành CSTT, trong đó lãi suất không phản ứng
đồng thời với giá cổ phiếu, lạm phát và sản lượng mà chỉ phản ứng sau một độ trễ.
Phương trình cuối cùng cho thấy mối quan hệ giữa giá cổ phiếu với các biến trong
mô hình, theo đó giá cổ phiếu phản ứng tức thời với các cú sốc của CSTT, giá, sản
lượng và các cú sốc từ bên ngoài.
3.1.2 Mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đến thanh
khoản thị trường chứng khoán Việt Nam
3.1.2.1 Giới thiệu mô hình tự hồi quy vector (VAR)
Mô hình tự hồi quy vector (VAR) được sử dụng phổ biến trên thế giới khi nghiên cứu
về các biến số kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, VAR được sử dụng để đo lường sự phụ thuộc
và quan hệ tuyến tính giữa các biến số thời gian. Mô hình VAR có ưu điểm là không
yêu cầu phải xác định biến nội sinh hoặc ngoại sinh. Ngoài ra, nó còn cho phép giá
trị của biến phụ thuộc không chỉ phụ thuộc vào biến trễ của chính nó mà còn phụ
51
thuộc vào biến trễ của các biến số khác (Brooks, 2008). Do đó, mô hình VAR phù
hợp để đo lường mối quan giữa các biến vĩ mô dạng dữ liệu thời gian.
Theo Brooks (2008), mô hình VAR có dạng tổng quát như sau:
Y(cid:2930) (cid:3404) A(cid:2868) (cid:3397) A(cid:2869)Y(cid:2930)(cid:2879)(cid:2869) (cid:3397) A(cid:2870)Y(cid:2930)(cid:2879)(cid:2870) (cid:3397) ⋯ (cid:3397) A(cid:2926)Y(cid:2930)(cid:2879)(cid:2926) (cid:3397) ε(cid:3047) (3.6)
Trong đó, Yt là vector nx1 biến ngẫu nhiên dừng, εt là vector các nhiễu trắng, A0 là
vector hằng số (hệ số chặn), Ai (i=1,2..p) là ma trận vuông cấp nxn, p là số độ trễ.
Các bước ước lượng mô hình VAR
Kiểm định tính dừng (unit root test): việc kiểm định nghiệm đơn vị để xem xét
tính dừng và không dừng của chuỗi thời gian các biến trong mô hình thực
nghiệm để tránh hiện tượng hồi quy giả mạo trong quá trình phân tích dữ liệu.
Các kiểm định thường được sử dụng để xem xét tính dừng hay không dừng
của chuỗi thời gian là ADF (Augmented Dickey – Fuller) và Phillip Perron.
Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình dựa trên các kiểm định như: Akaike
Information Criterion (AIC), Schwarz Information Criterion (SC), Hannan
and Quinn (HQ) và sai số dự báo cuối cùng (FPE).
Kiểm định nhân quả Granger được thực hiện nhằm lựa chọn số biến cho mô
hình:
Yt = α0 + α1Yt-1 + α2Yt-2 +…+ αpYt-p + β1Xt-1 + β2Xt-2 +…+ βpXt-p +ut (3.7)
Giả thuyết H0: β1 = β2 = … = βp
Nếu H0 bị bác bỏ thì X có tác động Granger tới Y, nghĩa là X có chứa thông
tin để giải thích, dự báo Y. Ngược lại, nếu chưa có cơ sở để bác bỏ H0 thì X
không có tác động Granger tới Y.
Thực hiện các kiểm định nhằm đảm kết quả ước lượng là đáng tin cậy, bao gồm:
(i) tương quan chuỗi của phần dư bằng kiểm định Autocorrelation LM; (ii) tính
ổn định tổng quát của mô hình bằng nghiệm nghịch đảo của đa thức đặc tính
52
AR; (iii) tính nhiễu trắng của phần dư bằng kiểm định Portmanteau
Autocorrelation.
Phân tích trên mô hình VAR gồm phân tích phản ứng đẩy và phân tích phân rã
phương sai. Trong đó phân tích phản ứng đẩy cho biết sau bao lâu để những cú
sốc của biến này tác động tới biến khác trong mô hình. Phân tích phân rã phương
sai được sử dụng để phân tích phần đóng góp của các chuỗi thời gian khác cũng
như của chính chuỗi thời gian đó trong phương sai của sai số dự báo.
3.1.2.2 Mô hình nghiên cứu đề xuất
Để đánh giá tác động của các biến CSTT đến thanh khoản của TTCK Việt Nam luận
án sử dụng mô hình nghiên cứu của Chordia và cộng sự (2005) làm cơ sở lý thuyết
về mối quan hệ giữa các biến số trong mô hình VAR. Đây cũng là mô hình được sử
dụng trong nhiều nghiên cứu trên thế giới như: Lu-Andrews và Glascock (2010),
Fernández-Amador và ctg (2013).
Mô hình nghiên cứu có dạng như sau:
zt = c + Azt-1 + ut (3.8)
Trong đó:
(cid:1873)(cid:2869),(cid:3047) c(cid:2869) (cid:1853)(cid:2869)(cid:2869) (cid:1853)(cid:2869)(cid:2870) (cid:1853)(cid:2869)(cid:2871) (cid:1853)(cid:2869)(cid:2872) (cid:1853)(cid:2869)(cid:2873) (cid:1853)(cid:2869)(cid:2874) (cid:1838)(cid:1835)(cid:1843)(cid:3047)
(cid:1873)(cid:2870),(cid:3047) c(cid:2870) (cid:1853)(cid:2870)(cid:2869) (cid:1853)(cid:2870)(cid:2870) (cid:1853)(cid:2870)(cid:2871) (cid:1853)(cid:2870)(cid:2872) (cid:1853)(cid:2870)(cid:2873) (cid:1853)(cid:2870)(cid:2874) (cid:1835)(cid:1844)(cid:3047)
(cid:1873)(cid:2871),(cid:3047) c(cid:2871) (cid:1853)(cid:2871)(cid:2869) (cid:1853)(cid:2871)(cid:2870) (cid:1853)(cid:2871)(cid:2871) (cid:1853)(cid:2871)(cid:2872) (cid:1853)(cid:2871)(cid:2873) (cid:1853)(cid:2871)(cid:2874) (cid:1839)2(cid:3047) c (cid:3404) (cid:1827) (cid:3404) (cid:2208)(cid:3047) (cid:3404) (cid:2203)(cid:3047) (cid:3404) (cid:1873)(cid:2872),(cid:3047) c(cid:2872) (cid:1853)(cid:2872)(cid:2869) (cid:1853)(cid:2872)(cid:2870) (cid:1853)(cid:2872)(cid:2871) (cid:1853)(cid:2872)(cid:2872) (cid:1853)(cid:2872)(cid:2873) (cid:1853)(cid:2872)(cid:2874) (cid:1845)(cid:1844)(cid:3047) (cid:1735) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1738) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1735) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1738) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1735) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1738) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1735) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1736) (cid:1738) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1739) (cid:1873)(cid:2873),(cid:3047) c(cid:2873) (cid:1853)(cid:2873)(cid:2869) (cid:1853)(cid:2873)(cid:2870) (cid:1853)(cid:2873)(cid:2871) (cid:1853)(cid:2873)(cid:2872) (cid:1853)(cid:2873)(cid:2873) (cid:1853)(cid:2873)(cid:2874) (cid:1829)(cid:1842)(cid:1835)(cid:3047)
(cid:1737) (cid:1737) (cid:1737) (cid:1873)(cid:2874),(cid:3047)(cid:1740) (cid:1737) (cid:1855)(cid:2874)(cid:1740) (cid:1853)(cid:2874)(cid:2869) (cid:1853)(cid:2874)(cid:2870) (cid:1853)(cid:2874)(cid:2871) (cid:1853)(cid:2874)(cid:2872) (cid:1853)(cid:2874)(cid:2873) (cid:1853)(cid:2874)(cid:2874)(cid:1740) (cid:1835)(cid:1842)(cid:3047) (cid:1740)
Trong mô hình 3.7, zt là vector các biến nội sinh, gồm biến đại diện cho thanh khoản
TTCK, biến đại diện cho CSTT, biến đại diện cho hoạt động kinh tế là chỉ số sản xuất
công nghiệp và lạm phát; ut là vector của phần dư, c là vector hằng số (hệ số chặn),
A là ma trận vuông cấp nxn, bao gồm hệ số hồi quy của tất cả các biến nội sinh trong
mô hình.
là biến đại diện cho 5 biến thanh khoản thị trường cổ phiếu gồm: Zeros,
53
Biến LIQt
LR, MLI, Turnover và Ailliq. Nhóm biến đại diện cho CSTT gồm: cung tiền (M2) và
lãi suất liên ngân hàng (IR). Nhóm biến kiểm soát gồm tỷ suất sinh lời bình quân tháng
của cổ phiếu (SR), lạm phát (CPI) và sản lượng công nghiệp (IPI).
Trật tự các biến trong mô hình được sắp xếp dựa theo các nghiên cứu trước đó của
Chordia và ctg (2005), Goyenko và Ukhov (2009), Fernández-Amador và ctg (2013).
Theo đó, các biến vĩ mô như sản lượng (IPIt), lạm phát (CPIt) được sắp xếp đầu tiên,
sau đó là các biến số đại diện CSTT như cung tiền (M2t), lãi suất liên ngân hàng (IRt)
và cuối cùng là các biến tỷ suất sinh lời cổ phiếu (SRt), các biến số đại diện cho thanh
khoản (LIQt).
3.2 BIẾN NGHIÊN CỨU
3.2.1 Biến số đại diện cho chính sách tiền tệ
Theo Cecchetti và ctg (2006), Mishkin (2013), NHTW có thể sử dụng các công cụ để
tác động làm thay đổi cung tiền, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất và các biến số khác
trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, NHTW cũng có thể sử dụng các lãi suất chính sách
để điều hành CSTT. Các nghiên cứu về tác động của CSTT đến TTCK ở Mỹ như
(Bernanke và Blinder, 1992; Hayford và Malliaris, 2004; Ioannidis và Kontonikas,
2008) thường lựa chọn lãi suất vốn liên bang (Fed fund rate) là đại diện cho CSTT
của Mỹ vì Fed chủ yếu sử dụng lãi suất này để điều hành CSTT.
Các nghiên cứu ở châu Âu như (Corallo, 2006) tại Đức và Anh lại lựa chọn lãi suất
ngắn hạn làm đại diện cho CSTT; Hofmann và Mizen (2004) sử dụng lãi suất cơ bản
khi nghiên cứu tại Anh. Vì vậy, việc lựa chọn lãi suất nào đại diện cho CSTT tùy
thuộc vào tầm quan trọng của từng loại trong điều hành thực tế tại từng quốc gia.
Biến cung tiền M2 đại diện cho mục tiêu trung gian của CSTT. Trong các nghiên cứu
trên thị trường Mỹ ở giai đoạn trước năm 1990, khi FED chọn cung tiền là mục tiêu
trung gian, biến này cũng được sử dụng trong các mô hình ước lượng như nghiên cứu
của Homa và Jaffee (1971).
54
Tuy nhiên, từ sau khi FED chọn lãi suất vốn liên bang làm mục tiêu điều hành, hầu
hết các nghiên cứu trên thị trường Mỹ lại chọn lãi suất này làm biến đại diện cho
CSTT. Chẳng hạn như nghiên cứu của (Bernanke và Kuttner, 2005; Rigobon và Sack,
2004; Li và ctg, 2010; Hayford và Malliaris, 2004; Bagliano và Favero, 1997). Còn
đối với các nghiên cứu được thực hiện tại nhiều quốc gia có mức độ phát triển kinh
tế không đồng đều như nghiên cứu của Lastrapes (1998), Aziza (2010) biến đại diện
cho mục tiêu trung gian của CSTT thường được lựa chọn là cung tiền.
Ở Việt Nam, từ thực tế điều hành CSTT của NHNN cho thấy mục tiêu cơ bản được
xác định là ổn định lãi suất và tăng trưởng cung tiền, tín dụng theo kế hoạch. Vì vậy,
kế thừa từ các nghiên cứu trước và thực tiễn điều hành CSTT, lãi suất liên ngân hàng
và cung tiền được lựa chọn là các biến số đại diện cho CSTT của NHNN Việt Nam.
3.2.2 Biến số đo lường giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
VNI được lựa chọn là biến đại diện cho giá cổ phiếu toàn thị trường là do: trên TTCK
Việt Nam hiện nay mặc dù có hai SGDCK là HOSE và HSX với hai chỉ số chứng
khoán đại diện lần lượt là VNI và HNI. Tuy nhiên, hai chỉ số này có xu hướng diễn
biến cùng chiều với nhau và kết quả thống kê mô tả cho thấy hệ số tương quan của
hai chỉ số này rất cao (0,85). Do đó, khi nghiên cứu thay đổi giá cổ phiếu chỉ cần lựa
chọn một trong hai chỉ số.
Vì HOSE được thành lập đầu tiên, có nhiều công ty niêm yết với giá trị vốn hóa thị
trường lớn nên dùng VNI làm đại diện cho giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam là hợp
lý. Việc lựa chọn chỉ số chứng khoán làm đại diện cho sự thay đổi của TTCK được sử
dụng tại nhiều nghiên cứu như (Ioannidis và Kontonikas, 2008; Stoica và Diaconașu,
2012; Rigobon và Sack, 2004; Raghavan và Dungey, 2015).
3.2.3 Các biến số kinh tế vĩ mô
Sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế tác động trực tiếp tới các chủ thể tham gia
trên TTCK. Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao doanh thu, tích lũy lợi nhuận. Từ đó, các
doanh nghiệp tích cực tái đầu tư thông qua hoạt động thu hút vốn từ xã hội. Điều này,
55
làm cho luồng vốn tiết kiệm xã hội dịch chuyển liên tục và tạo ra giá trị thặng dư. Có
thể thấy, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, mối liên hệ nhân quả giữa các chủ thể
là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của TTCK.
Biến số đại diện cho tăng trưởng kinh tế được sử dụng trong mô hình nghiên cứu là
chỉ số sản xuất công nghiệp (IPI). Đây cũng là biến số được nhiều nghiên cứu trên
thế giới sử dụng như (Ioannidis và Kontonikas, 2008; Raghavan và Dungey, 2015;
Thorbecke, 1997; Ben Naceur và ctg, 2007). Ngoài ra, khi kiểm tra mối quan hệ giữa
tăng trưởng GDP và tăng trường giá trị sản lượng công nghiệp có tương quan cùng
chiều. Vì vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp được sử dụng để đánh giá tác động của
tổng sản lượng trong nền kinh tế đến thay đổi giá cổ phiếu trên TTCK.
Lạm phát là một trong các tiêu chí đo lường ổn định kinh tế vĩ mô của một quốc gia
đồng thời cũng có tác động đáng kể đến TTCK. Về lý thuyết, lạm phát có thể tác động
trực tiếp và gián tiếp đến TTCK. Tác động trực tiếp của lạm phát là ảnh hưởng đến
tâm lý nhà đầu tư và giá trị của các khoản đầu tư trên TTCK. Nếu lạm phát cao, đồng
tiền bị mất giá nhanh, nhà đầu tư sẽ chuyển hướng sang tích trữ các tài sản thực, làm
cho giá chứng khoán và giá trị giao dịch giảm.
Ngoài ra, lạm phát còn tác động gián tiếp đến TTCK thông qua kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Lạm phát làm tăng chi phí đầu vào (hiệu ứng Fisher) nên
doanh nghiệp phải tăng giá bán sản phẩm để đảm bảo kế hoạch lợi nhuận. Nếu tăng
giá quá cao thì người dân sẽ chuyển sang dùng sản phẩm thay thế khác hoặc giảm
tiêu dùng, dẫn đến sản lượng tiêu thụ giảm, làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp
không đạt được kế hoạch. Do đó cũng tác động làm giảm giá cổ phiếu niêm yết.
Vì vậy, biến số đại diện cho lạm phát trong nền kinh tế Việt Nam được sử dụng là chỉ
số giá hàng tiêu dùng (CPI). Đây cũng là cách đo lường lạm phát phổ biến trên thế
giới và được nhiều nghiên cứu sử dụng. Theo tổng hợp của Camino Torrecillas
(2013), nghiên cứu của Fama and Schwert (1977) trên TTCK Mỹ giai đoạn từ 1953
– 1971 cho thấy lạm phát (đại diện là CPI) và tỷ suất sinh lời của cổ phiếu có tương
quan ngược chiều.
56
Fama (1981), Geske và Roll (1983) lại cho rằng CPI và tỷ suất sinh lời cổ phiếu có
tương quan cùng chiều. Jaffe and Mandelker (1976) nghiên cứu TTCK Mỹ từ năm
1875 – 1970 đưa ra kết luận: lạm phát và tỷ suất sinh lời của cổ phiếu có tương quan
ngược chiều trong ngắn hạn nhưng lại tương quan cùng chiều trong dài hạn.
Boudoukh and Richardson (1993) khi nghiên cứu TTCK Mỹ và Anh từ 1802 – 1990
cũng đưa ra kết luận này.
3.2.4 Các biến số đo lường thanh khoản thị trường cổ phiếu
Thanh khoản của thị trường cổ phiếu Việt Nam được xem xét dựa trên bốn đặc tính,
đó là: tính tức thời, độ rộng, độ sâu và độ đàn hồi của thị trường dựa trên cơ sở lý
thuyết được trình bày ở chương 2.
Tính tức thời của thị trường được đo lường bằng tỷ số Zeros được tính toán theo
công thức (2.1). Đây là chỉ tiêu được nhiều nghiên cứu sử dụng để đo lường
thanh khoản cho thị trường cổ phiếu như Lee (2011) đo lường thanh khoản cho
nhiều thị trường, Marshall và cộng sự (2013) cũng dùng Zeros để đo lường thanh
khoản cho 19 thị trường chứng khoán cận biên. Đây là chỉ tiêu đo lường tính
thiếu thanh khoản của thị trường, khi Zeros cao cho thấy thanh khoản của thị
trường càng giảm.
Độ rộng của thị trường được đo lường theo hai chỉ tiêu là tổng giá trị cổ phiếu
được giao dịch theo tháng (TV) được tính theo công thức (2.2) và tỷ lệ thanh
(cid:3021) (cid:3047)(cid:2880)(cid:2869)
khoản (LR) được tính toán dựa trên công thức (2.3) cho toàn thị trường như sau:
(cid:2904) (cid:2930)(cid:2880)(cid:2869)
(cid:4666)3.9(cid:4667) LR(cid:2904) (cid:3404) ∑ (cid:1842)(cid:3036)(cid:3047)(cid:1848)(cid:3036)(cid:3047) ∑ |VNI(cid:3047) (cid:3398) VNI(cid:3047)(cid:2879)(cid:2869)|
Trong đó:
PitVit: tổng giá trị giao dịch trên thị trường ngày t
VNIt và VNIt-1 là giá đóng cửa của VNI ngày t và ngày t-1
T: số ngày giao dịch trong tháng
TV và LR là hai chỉ tiêu biểu hiện tính thanh khoản của thị trường. Các chỉ
tiêu này càng cao thì tính thanh khoản của TTCK càng tốt.
57
Độ sâu của thị trường được đo lường bằng chỉ tiêu tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu
(Turnover) và chỉ số thanh khoản của Martin (MLI). Trong đó, tỷ lệ luân chuyển
cổ phiếu được tính bằng cách lấy tổng giá trị cổ phiếu được giao dịch trong
tháng chia cho giá trị vốn hóa toàn thị trường (công thức 2.5). Đây là chỉ tiêu
biểu hiện tính thanh khoản của TTCK, Turnover càng lớn, thanh khoản của thị
trường càng được cải thiện. MLI được tính theo công thức (2.6) dựa trên dữ liệu
của VNI và khối lượng cổ phiếu được giao dịch hàng ngày trên HOSE. MLI là
chỉ tiêu biểu hiện tính thiếu thanh khoản của TTCK. MLI càng cao thể hiện
TTCK càng kém thanh khoản.
Độ đàn hồi của thị trường được đo lường bằng chỉ số thiếu thanh khoản (Ailliq)
của Amihud (2002). Đây là thước đo được nhiều nghiên cứu sử dụng cho thị
trường phát triển, thị trường mới nổi và thị trường cận biên. Chẳng hạn như
nghiên cứu của Lu và Glascock (2010) trên TTCK Mỹ, nghiên cứu của
Fernández-Amador và cộng sự (2013) trên TTCK châu Âu và nghiên cứu của
Marshall và cộng sự (2013) trên 19 TTCK cận biên.
Chỉ số Ailliq được xác định như sau:
(cid:4666)3.10(cid:4667) (cid:1827)(cid:1835)(cid:1838)(cid:1838)(cid:1835)(cid:1843)(cid:3047) (cid:3404) |(cid:1844)(cid:3047)| (cid:1848)(cid:3047)
Trong đó:
Rt: mức thay đổi giá chứng khoán ngày t so với ngày t-1
Vt: tổng giá trị giao dịch chứng khoán ngày t
Ailliq theo tháng được tính bằng bình quân Ailliq các ngày trong tháng.
3.2.5 Các biến ngoại sinh gồm: lãi suất vốn liên bang của FED và giá dầu thế giới
Lãi suất vốn liên bang của FED (FFR) được sử dụng là biến ngoại sinh trong mô hình
SVAR là vì theo Ben Naceur và ctg (2007) đây là lãi suất đại diện cho CSTT của
NHTW Mỹ. Đối với những quốc gia neo đồng nội tệ vào USD sẽ chịu tác động từ
việc thay đổi lãi suất của FED. Đồng Việt Nam cũng được NHNN định giá neo và
58
USD. Vì vậy, việc sử dụng FFR là biến ngoại sinh trong mô hình nhằm đánh giá các
tác động bên ngoài đến TTCK trong nước.
Ngoài ra, theo Dalimunthe (2013) đối với nền kinh tế nhỏ và mở thì giá cả trên thị
trường thế giới có tác động đến giá cả trong nước và điều hành CSTT của NHTW.
Khi có cú sốc về phía tổng cung dẫn đến lạm phát, NHTW sẽ thắt chặt tiền tệ nhằm
giảm mức độ tăng giá trong nước. Vì vậy để loại bỏ tác động của các nhân tố bên
ngoài đến để đánh giá mức độ tác động của CSTT trong nước đến giá cổ phiếu, biến
giá dầu được đưa vào mô hình nghiên cứu là biến ngoại sinh.
3.3 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Phương trình biểu hiện tác động của các biến số đến giá cổ phiếu trên TTCK được
viết từ ma trận cấu trúc (3.4) như sau:
VNIt = Φ70 + Φ71.FFRt + Φ72.OILt + Φ73.IPIt + Φ74.CPIt + Φ75.M2t +Φ76.IRt + εt (3.11)
VNI được kỳ vọng biến động cùng chiều với tăng trưởng sản lượng, tăng trưởng cung
tiền (tương ứng Φ73 và Φ75 mang dấu dương). Ngược lại, VNI được kỳ vọng biến
động nghịch chiều với tốc độ tăng giá hàng tiêu dùng và sự gia tăng của lãi suất liên
ngân hàng (tương ứng Φ74 và Φ76 mang dấu âm). Giả định này phù hợp với các lý
thuyết được trình bày ở chương 2 và một số nghiên cứu thực nghiệm như (Rigobon
và Sack, 2004; Bernanke và Kuttner, 2005)…
Kỳ vọng về tác động của CSTT đến các biến số thanh khoản TTCK được thể hiện
trong bảng 3.1 sau đây:
Dấu kỳ vọng
Biến số thanh khoản
Zeros TV LR Turnover MLI Ailliq
Tăng trưởng cung tiền M2 - + + + - -
Lãi suất liên ngân hàng + - - - + +
Bảng 3.1 Kỳ vọng tác động của các biến CSTT lên các biến thanh khoản TTCK
Nguồn: Tác giả
59
Từ bảng 3.1 cho thấy, các biến số biểu hiện cho tính thanh khoản của TTCK được kỳ
vọng biến động cùng chiều với tăng trưởng cung tiền M2 và nghịch chiều với lãi suất
liên ngân hàng. Trong khi đó, các biến số biểu hiện cho tính thiếu thanh khoản của
TTCK được kỳ vọng biến động ngược chiều với tăng trưởng cung tiền M2 và cùng
chiều với lãi suất liên ngân hàng.
Các kỳ vọng này được đặt ra dựa trên cơ sở lý thuyết về tác động của CSTT đến thanh
khoản TTCK được trình bày trong chương 2. Theo đó việc thực thi CSTT mở rộng
(tăng cung tiền, giảm lãi suất chính sách) có tác động tích cực đến thanh khoản của
TTCK. Các nghiên cứu thực nghiệm của (Chordia và ctg, 2002; Lu-Andrews và
Glascock, 2010; Fernández-Amador và ctg, 2013)… cũng đặt ra các kỳ vọng này.
3.4 NGUỒN DỮ LIỆU
Dữ liệu được sử dụng trong mô hình ước lượng được thu thập theo tần suất tháng, trong
giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng 12/2016 với các biến số được tính toán như sau:
Chỉ số VNI được sử dụng làm đại diện cho giá cổ phiếu trên thị trường, được
thu thập bằng cách lấy trung bình của chỉ số VNI đóng cửa cuối mỗi ngày giao
dịch trong tháng.
Chỉ số sản lượng công nghiệp (IPI) của Việt Nam được tính theo tỷ lệ thay đổi
kỳ sau so với cùng kỳ năm trước với đơn vị là %, bao gồm các giá trị tạo ra của
các ngành công nghiệp như khai khoáng, chế biến, chế tạo, hàng tiêu
dùng…Nguồn dữ liệu được lấy từ thống kê của Trung tâm Hội nhập Khu vực
Châu Á (ARIC).
Tỷ lệ lạm phát được tính theo tốc độ tăng giá hàng tiêu dùng, có đơn vị tính là
%, được thu thập từ thống kê của Trung tâm Hội nhập khu vực châu Á (ARIC)
Cung tiền mở rộng (theo phép đo M2): được NHNN công bố và sử dụng là mục
tiêu trung gian trong điều hành CSTT. Số liệu về cung tiền (M2) được thu thập
từ thống kê tài chính quốc tế của IMF (IFS) theo tốc độ tăng, có đơn vị là %.
60
Lãi suất liên ngân hàng (IR) được tính bằng cách lấy trung bình của các ngày
giao dịch trong tháng, có đơn vị tính là %/năm với nguồn dữ liệu được lấy từ
website của NHNN.
Mặc dù NHNN chưa công bố lãi suất liên ngân hàng là mục tiêu điều hành của
CSTT vì không đặt ra một mức nhất định phải duy trì, nhưng biến số này được
theo dõi chặt chẽ nhằm đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng và ổn
định thị trường tiền tệ. Phương châm điều hành này được thể hiện trong các chỉ
thị điều hành CSTT vào đầu năm của NHNN như chỉ thị 02/2010, 01/2011,
01/2012, 01/2013, 01/2014, 01/2015, 01/2016. Vì vậy, lãi suất liên ngân hàng
được sử dụng để nghiên cứu thay đổi trong điều hành CSTT của NHNN.
- Biến ngoại sinh được sử dụng trong mô hình là giá dầu thế giới (OIL) và lãi suất
vốn liên bang của FED với dữ liệu được thu thập từ thống kê tài chính quốc tế
(IFS) theo tần suất tháng. Trong đó giá dầu thế giới được tính bằng bình quân
giá dầu các ngày có giao dịch trong tháng.
- Các hệ số đo lường thanh khoản TTCK Việt Nam được tác giả tính toán dựa
trên dữ liệu của HSX, StoxPlus và Cafef.vn. Tất cả các biến số được tính toán,
thu thập theo tần suất tháng trong giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng 12/2016.
Bảng 3.2 Tổng hợp các biến số được sử dụng trong mô hình
Biến số
Ký hiệu
Cách tính
Nguồn
Chỉ số chứng khoán
VNI
HOSE
Bình quân chỉ số VN-Index các ngày có giao dịch trong tháng
Bình quân tỷ suất sinh lời của VNI
Tỷ suất sinh lời của cổ
HOSE
SR
theo tháng
phiếu
NHNN
Lãi suất liên ngân hàng
IR
Được tính bằng lãi suất bình quân các ngày có giao dịch trong tháng
IPI
Chỉ số sản xuất công nghiệp
ARIC
Chỉ số sản xuất công nghiệp
Lạm phát
CPI
Chỉ số giá hàng tiêu dùng
ARIC
IFS
Cung tiền
M2
Tốc độ thay đổi tổng phương tiện thanh toán (%)
IFS
Giá dầu thế giới
OIL
Bình quân giá dầu thế giới các ngày trong tháng
Zeros
Công thức (2.1)
Tổng giá trị cổ phiếu được giao dịch
TV
trong tháng
LR
Tỷ lệ thanh khoản (công thức (3.9))
HOSE,
Tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu (Công
Các biến đo lường thanh
Turnover
StoxPlus,
thức (2.5))
khoản
Cafef
Chỉ số thanh khoản Martin (công
MLI
thức (2.6))
Chỉ số thiếu thanh khoản Amihud
(công thức (3.10))
Ailliq
61
Kết luận chương 3
Từ cơ sở lý thuyết và hệ thống hóa các hướng tiếp cận liên quan đến đề tài, luận án
đã chọn được phương pháp nghiên cứu phù hợp với thực tế tại Việt Nam nhằm đạt
được mục tiêu đã đưa ra. Mô hình được sử dụng để đánh giá tác động của CSTT đến
giá cổ phiếu là tự hồi quy vector cấu trúc (SVAR) và mô hình được sử dụng để đánh
giá tác động của CSTT đến thanh khoản TTCK là tự hồi quy vector dạng rút gọn
(VAR). Các biến số được sử dụng trong mô hình SVAR được chia thành 3 nhóm: (i)
nhóm biến chính sách tiền tệ (cung tiền và lãi suất liên ngân hàng); (ii) nhóm biến
kinh tế vĩ mô (tăng trưởng sản lượng, lạm phát; (iii) biến đại diện giá cổ phiếu trên
TTCK . Các biến số được sử dụng trong mô hình VAR gồm: nhóm biến chính sách
tiền tệ, nhóm biến kinh tế vĩ mô và nhóm biến thanh khoản TTCK.
62
Các giả thuyết được đặt ra dựa trên cơ sở lý thuyết được trình bày ở chương 2 và các
nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới. Theo đó, việc thực thi CSTT mở rộng được kỳ
vọng có tác động làm tăng giá cổ phiếu và thanh khoản cho TTCK Việt Nam.
Với dữ liệu nghiên cứu được lấy từ các nguồn đáng tin cậy như thống kê tiền tệ quốc
tế (IFS), ARIC, NHNN, UBCKNN, HSX, HNX… Các mô hình được ước lượng bằng
phần mềm Eviews 8.0 và được thực hiện các kiểm định nhằm đảm bảo tính ổn định,
tin cậy trước khi sử dụng để phân tích.
63
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 DIỄN BIẾN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2002 - 2016
4.1.1 Diễn biến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam
4.1.1.1 Về xác định mục tiêu cuối cùng
Từ thực tế điều hành CSTT trong giai đoạn từ năm 2002 - 2010 cho thấy NHNN thực
hiện CSTT đa mục tiêu gồm có: tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát và ổn định tỷ
giá. Từ bảng 4.1 cho thấy hàng năm Quốc hội thực hiện ấn định chỉ tiêu tăng trưởng
GDP và tốc độ tăng CPI trong Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Theo đó, chính phủ và NHNN phải cố gắng điều hành để đạt được mục tiêu đề ra.
Ở giai đoạn trước năm 2007 (trước khi Việt Nam gia nhập WTO) mục tiêu và kết
quả thực hiện tương đối khớp với nhau. Tuy nhiên, từ sau năm 2007, đặc biệt giai
đoạn 2008 – 2011, tăng trưởng sản lượng thường không đạt mục tiêu đề ra, trong
khi đó lạm phát luôn ở mức cao hơn kỳ vọng ban đầu.
Bảng 4.1 Mục tiêu cuối cùng của CSTT Việt Nam giai đoạn 2002-2016
Tăng trưởng sản lượng (%)
Tỷ lệ lạm phát (%)
Năm
Mục tiêu
Thực hiện
Mục tiêu
Thực hiện
2002
7-7,2
7,08
4
4
2003
7-7,5
7,34
3
3
2004
7
7,79
< 5
9,5
2005
8-8,5
8,43
6,5
8,4
2006
8
8,17
<8
6,6
2007
8,2-8,5
8,48
<8,2-8,5
12,63
2008
8,5-9
6,18
<8,5-9
19,89
2009
6,5
5,32
<15, 7*
6,52
2010
6,5
6,78
<7, 8*
11,75
2011
7-7,5
5,89
7, 15*, 17*
18,13
2012
6 – 6,5
5,03
<10
8
2013
5,5
5,42
8,0
6,04
2014
5,8
5,98
7,0
1,84
2015
6,2
6,68
5,0
0,6
2016
6,7
6,21
<5
4,74
Ghi chú: *thay đổi chỉ tiêu trong năm.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Nghị quyết Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của GSO từ năm 2002 – 2016.
64
Luật NHNN Việt Nam 2010 ra đời (có hiệu lực từ ngày 1/1/2011) đã đánh dấu sự
thay đổi lớn trong quan điểm điều hành CSTT qua việc xác định mục tiêu cao nhất là
ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát do Quốc hội quyết định
(Điều 3, luật NHNN 2010). Kết quả của việc thay đổi này đã thể hiện rõ rệt ở chỉ tiêu
lạm phát từ sau năm 2011. Riêng năm 2014 lạm phát chỉ có 1,84% thấp hơn nhiều so
với mục tiêu khoảng 7% do Quốc hội đưa ra. Việc thắt chặt tín dụng, giảm cầu tiêu
dùng cùng với giá dầu thế giới giảm mạnh đã dẫn đến kết quả này.
Tuy nhiên, việc cố gắng duy trì lạm phát thấp do giảm cầu tiêu dùng mà không phải
do tăng năng suất lao động làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành là biện pháp không
bền vững, trong tương lai có thể gây mất cân đối cung cầu hàng hóa và tạo ra lạm
phát do thiếu cung.
Việc chuyển đổi điều hành CSTT từ đa mục tiêu sang điều hành CSTT hướng đến
mục tiêu lạm phát là định hướng đúng của Quốc hội, chính phủ và NHNN. Từ thực
tế cho thấy trong giai đoạn 2012 – 2016, lạm phát ở Việt Nam được kiềm chế dưới
10%, tạo môi trường vĩ mô ổn định cho hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế.
4.1.1.2 Về xác định mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động
Trên cơ sở xác định mục tiêu cuối cùng, hệ thống mục tiêu trung gian và mục tiêu
hoạt động cũng dần được hình thành rõ nét. Trên thực tế, do điều hành CSTT ở Việt
Nam hướng tới nhiều mục tiêu nên mục tiêu trung gian thường đa dạng, tùy thuộc
vào diễn biến tiền tệ của từng giai đoạn.
65
Ngay từ thời gian đầu hoạt động, NHNN Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ chủ
yếu hướng vào điều tiết lượng tiền cung ứng do chính phủ phê duyệt hàng năm và
thực tế này vẫn tiếp tục được duy trì trong giai đoạn nghiên cứu. Do đó có thể thấy
thực chất là NHNN đã lựa chọn mục tiêu trung gian là theo khối lượng tiền cung
ứng.Từ năm 1995, NHNN đã xác định điều hành lượng tiền cung ứng của NHNN
tăng thêm hàng năm để thực hiện ổn định tiền tệ theo các chỉ tiêu dự kiến. Khối lượng
tiền cung ứng cần thiết tăng thêm này được xác định trên cơ sở mức tăng trưởng tổng
phương tiện thanh toán (cung tiền M2), phù hợp với mức độ tăng trưởng GDP và chỉ
số lạm phát dự kiến và hệ số tạo tiền dự kiến của các tổ chức tín dụng. Sau khi được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt mức cung ứng tiền tăng thêm hàng năm, Thống đốc
NHNN điều hành việc cung ứng tiền trong phạm vi được chính phủ phê duyệt thông
qua việc điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, tác động đến cung tiền nhằm đạt
được các mục tiêu trung gian định hướng (Bảng 4.2).
Bảng 4.2 Mục tiêu trung gian của CSTT Việt Nam giai đoạn 2002 - 2016
Tăng trưởng cung tiền M2 (%)
Tăng trưởng tín dụng (%)
Năm
Mục tiêu
Thực hiện
Mục tiêu
Thực hiện
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
- - - 22 23-25 23-25 <32 25 25 14-16 14-16 16-18 16-18 16-18 16-18
24,0 20,6 23,6 29,65 33,59 46,12 20,31 28,99 33,3 9,27 19,85 18,51 15,99 16,23 18,38
- - - 25 18-20 17-21 <30 21-23, 25-27* 25 15-17 8-10 12-14 12-14 12-14 18-20
28,0 26,2 41,65 31,10 25,44 53,89 23,38 37,53 31,19 10,9 7,0 12,51 12,62 17,26 18,71
Ghi chú: *thay đổi chỉ tiêu trong năm,
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo thường niên của NHNN từ 2002 – 2016
66
Bảng 4.2 cho thấy cung tiền M2, tín dụng, lãi suất và tỷ giá sẽ được lựa chọn là biến
trung gian phù hợp với chủ trương và các quyết sách điều hành trong mỗi giai đoạn
phát triển. Từ năm 2002 – 2005, để đạt được mục tiêu cuối cùng, NHNN thường xác
định hai mục tiêu cơ bản hàng năm đó là tỷ lệ mất giá của VNĐ; tổng phương tiện
thanh toán và tín dụng.
Tuy nhiên từ năm 2005 đến nay, NHNN đã chú trọng thêm mục tiêu ổn định lãi suất
thông qua việc điều tiết thanh khoản qua thị trường mở nhằm tránh những tác động
bất lợi của việc tăng lãi suất đến tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, trong giai đoạn từ năm
2012 đến 2016, việc chênh lệch giữa kế hoạch và thực hiện trong điều tiết cung tiền
và tín dụng không lớn, thể hiện quyết tâm của NHNN trong việc kiềm chế và kiểm
soát lạm phát.
Tóm lại, có thể thấy việc điều hành CSTT của NHNN Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn
từ Quốc hội và chính phủ. Theo Luật NHNN năm 2010, NHNN có trách nhiệm xây
dựng chính sách tiền tệ quốc gia để chính phủ xem xét và trình Quốc hội quyết định.
Sau đó NHNN chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách đã được phê duyệt này.
Như vậy, NHNN không phải là người có thể có ý kiến quyết định cuối cùng về chính
sách tiền tệ.
Mức độ độc lập hạn chế của NHNN có một số hệ lụy quan trọng đối với sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Thứ nhất là chính sách tiền tệ và tín dụng
không những không độc lập, mà trong một chừng mực nào đó, còn chạy theo chính
sách tài khóa của chính phủ. Thứ hai là nguy cơ lạm phát, kết quả trực tiếp của tính
không độc lập về chính sách. Thứ ba là nợ xấu của hệ thống NHTMNN không được
giám sát và xử lý một cách thích đáng và kịp thời.
Ngoài ra, còn có thể kể tới những hạn chế khác như khả năng ứng phó với khủng
hoảng thấp, khả năng thích nghi trong tiến trình hội nhập kinh tế - tài chính toàn cầu
không cao, khả năng thu hút nguồn nhân lực trình độ cao vào hệ thống NHNN còn
yếu (Vũ Thành Tự Anh, 2016).
67
4.1.2 Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn
2002 - 2016
4.1.2.1 Về quy mô thị trường
Từ hai cổ phiếu niêm yết đầu tiên gồm: REE và SAM vào tháng 07/2000 với giá trị
vốn hóa thị trường chỉ 444 tỷ đồng, qua 16 năm hoạt động, quy mô TTCK Việt Nam
đã tăng trưởng nhanh chóng. Hình 4.1 cho thấy, trong 5 năm đầu khối lượng cổ phiếu
niêm yết tăng khá chậm, đến năm 2005 mới chỉ có 340 triệu cổ phiếu được niêm yết.
Tương tự như lượng cổ phiếu niêm yết, giá trị vốn hóa TTCK trong 5 năm đầu chỉ
tăng chậm và chiếm tỷ lệ không đáng kể so với GDP. Theo Báo cáo thường niên của
UBCKNN năm 2005, giá trị vốn hóa toàn TTCK chỉ đạt 9.274 tỷ đồng, chiếm 1,2%
GDP. Hình 4.1 cho thấy giá trị vốn hóa thị trường tăng mạnh vào năm 2007 (hơn
100% so với năm 2006), chủ yếu là do VNI tăng hơn là do số lượng cổ phiếu niêm
yết tăng.
Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự kiện thứ nhất là tháng 11/2006 Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự
kiện thứ hai là Việt Nam đã tổ chức thành công “Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương” và đặc biệt là sự kiện tổng thống Mỹ đến thăm TTGDCK
TP.HCM. Từ đó mở ra những cơ hội hợp tác kinh doanh đối với các doanh nghiệp
trong nước và thúc đẩy nền kinh tế phát triển khởi sắc trong giai đoạn này, thu hút
một lượng vốn đầu tư trong và ngoài nước vào TTCK.
Ngoài ra, do được hưởng ưu đãi về thuế nên nhiều công ty đã nộp đơn xin niêm yết
cổ phiếu để dễ dàng huy động vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu. Vì vậy, số
lượng công ty niêm yết đã tăng từ 42 công ty vào cuối năm 2005 lên 195 công ty năm
2006 và 249 công ty năm 2007. Theo đó, khối lượng cổ phiếu niêm yết tăng từ 2.526
triệu cổ phiếu năm 2006 lên 5.318 triệu cổ phiếu năm 2007.
Sang năm 2008, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu làm chỉ
số VNI giảm mạnh (từ 921 điểm vào ngày 2/1/2008 giảm còn 315 điểm ngày
31/12/2008) tuy nhiên lượng cổ phiếu niêm yết trên cả hai SGDCK vẫn tiếp tục tăng
68
mạnh do có sự tham gia của nhiều công ty lớn như: CTCP Sữa Việt Nam, NHTMCP
Ngoại thương Việt Nam, Tập đoàn Bảo Việt, NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam,
Tập đoàn Masan...
tỷ đồng
tỷ đồng
500,000
1,800,000
450,000
1,600,000
400,000
1,400,000
350,000
1,200,000
300,000
1,000,000
250,000
800,000
200,000
600,000
150,000
400,000
100,000
200,000
50,000
0
‐
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Giá trị vốn hóa thị trường
Giá trị chứng khoán niêm yết
Hình 4.1. Giá trị cổ phiếu niêm yết và giá trị vốn hóa TTCK Việt Nam
Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp từ Báo cáo thường niên của HNX và HSX.
Một chỉ tiêu nữa dùng để đo lường quy mô thị trường là tỷ lệ giá trị giao dịch cổ phiếu
bình quân so với GDP. Tỷ lệ này cho biết quy mô giao dịch thị trường cổ phiếu so
với quy mô toàn bộ nền kinh tế. Theo World Development Indicators Database thì
giá trị vốn hóa TTCK được tính dựa trên tổng số lượng cổ phiếu niêm yết trên các sở
giao dịch chứng khoán vào cuối năm và tỷ lệ giá trị vốn hóa TTCK giai đoạn 2002 –
2016 là tỷ lệ bình quân của từng năm của thị trường. Hình 4.2 cho thấy TTCK
Singapore có tỷ lệ giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu so với GDP cao nhất trong khu
vực, đạt mức 209%/GDP, trong khi đó bình quân tỷ lệ này của các nước khu vực châu
Á Thái Bình Dương là 54%/GDP.
69
Hình 4.2. Tỷ lệ giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu của một số quốc gia trong
0
50
100
150
200
250
Singapore
Malaysia
Thailand
China
Philippines
Indonesia
Vietnam
East Asia & Pacific
khu vực giai đoạn 2002 – 2016 (%/GDP)
Nguồn: World Bank Development Indicators
Theo nghiên cứu của Bayraktar (2014) TTCK Việt Nam được xếp vào nhóm có quy
mô nhỏ và nỗ lực thấp (low effort), cho thấy quy mô thị trường còn thấp so với khả
năng của nền kinh tế. Vì vậy, thị trường cổ phiếu Việt Nam còn nhiều tiềm năng để
tăng quy mô trong tương lai thông qua thực hiện cải cách.
4.1.2.2 Số lượng và chủng loại hàng hóa
Khi mới được thành lập vào năm 2000, trên TTCK Việt Nam mới chỉ có cổ phiếu của
2 công ty và một số ít trái phiếu chính phủ được niêm yết giao dịch. Trải qua hơn 16
năm hình thành và phát triển, số lượng và giá trị chứng khoán niêm yết đã gia tăng
mạnh mẽ.
Số lượng niêm yết (cp)
Giá trị niêm yết (tỷ đồng)
Năm
Cổ phiếu Chứng chỉ quỹ
Cổ phiếu
Chứng chỉ quỹ
2000
5
-
321
-
2005
41
1
3.408
300
2006
193
2
25.262
300
2007
250
3
51.383
1.714
Bảng 4.3 Tăng trưởng hàng hóa trên TTCK Việt Nam
2008
338
4
80.851
2.521
2009
453
4
142.783
2.521
2010
642
5
236.856
2.760
2011
694
5
281.471
2.760
2012
704
6
334.037
3.001
2013
678
2
356.965
454
2014
670
-
423.464
-
2015
684
-
434.072
-
2016
696
2
493.887
57.2
70
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ báo cáo thường niên của HSX và HNX
Từ bảng 4.3 cho thấy số lượng cổ phiếu niêm yết gia tăng nhanh chóng, từ 5 loại cổ
phiếu cuối năm 2000 đến năm 2012 đã tăng lên đến 702 cổ phiếu. Giá trị niêm yết
cũng gia tăng mạnh mẽ từ 321 tỷ đồng ban đầu đến năm 2016 là 493.887 tỷ đồng.
Tốc độ tăng trung bình giai đoạn 2006 – 2016 đạt 46%/năm.
Ngoài hàng hóa truyền thống là cổ phiếu và trái phiếu thì chứng chỉ quỹ đầu tư cũng
đã được niêm yết trên TTGDCK TP.HCM từ năm 2004. Đến năm 2012 số lượng
chứng chỉ quỹ niêm yết tăng lên 6 chứng chỉ, đạt giá trị cao nhất 30.011 tỷ đồng,
chiếm 3,8% giá trị toàn thị trường. Sang năm 2013 tình hình huy động vốn gặp nhiều
khó khăn và thanh khoản kém nên hàng loạt các quỹ đầu tư đã xin hủy niêm yết. Toàn
thị trường chỉ còn lại hai chứng chỉ quỹ là Quỹ đầu tư tăng trưởng ACB (ASIAGF)
và Quỹ đầu tư tăng trưởng Manulife (MAFPF1) với tổng khối lượng niêm yết là 45
triệu chứng chỉ.
Mặc dù số lượng và khối lượng chứng khoán niêm yết liên tục tăng qua các năm nhưng
chủng loại chứng khoán vẫn là các loại cơ bản như cổ phiếu phổ thông, trái phiếu chính
phủ, trong khi đó chứng chỉ quỹ mặc dù có được niêm yết và giao dịch nhưng chỉ chiếm
tỷ lệ không đáng kể. Ngoài ra, thị trường còn thiếu vắng các công cụ phái sinh như hợp
đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, chứng quyền…và các công cụ đầu tư khác.
71
Bên cạnh đó, số lượng chứng khoán nhiều nhưng chất lượng còn thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu của các nhà đầu tư. Đa số các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch là
những công ty vừa và nhỏ; trong số 703 công ty niêm yết/đăng ký giao dịch chỉ có
368 công ty (khoảng 50%) có vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng; chất lượng của các công
ty niêm yết chưa cao, đặc biệt là quản trị công ty và tính công khai, minh bạch. Trong
thời kỳ khó khăn đặc biệt là giai đoạn 2010-2011 nhiều công ty niêm yết làm ăn thua
lỗ, ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của cổ phiếu niêm yết và niềm tin của các nhà đầu tư.
4.1.2.3 Cơ cấu và số lượng nhà đầu tư
Trên TTCK Việt Nam, số lượng nhà đầu tư, bao gồm cả tổ chức và cá nhân, trong
nước và nước ngoài, đã gia tăng đáng kể trong 16 năm qua. Từ gần 3.000 tài khoản
nhà đầu tư khi mở cửa thị trường năm 2000 đã tăng lên 1,7 triệu tài khoản vào năm
2016. Từ hình 4.3 cho thấy số lượng tài khoản đã tăng 10 lần trong 5 năm, từ 106.393
tài khoản năm 2006 lên đến 1.056.027 tài khoản năm 2010. Tuy nhiên, theo VSD, Số
lượng nhà đầu tư cá nhân chiếm tỷ lệ chủ yếu với hơn 99%, số còn lại là của nhà đầu
tư tổ chức (6.642 tài khoản năm 2016). Số lượng tài khoản giao dịch nước ngoài là
17.789 tài khoản, trong đó của nhà đầu tư cá nhân chiếm hơn 87% (15.525 tài khoản).
1,800,000
1,600,000
1,400,000
1,200,000
1,000,000
800,000
600,000
400,000
200,000
0
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Hình 4.3. Tăng trưởng tài khoản giao dịch trên TTCK Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thường niên của Trung tâm lưu ký chứng khoán.
72
Tuy nhiên, số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán mới chỉ chiếm hơn 1,5% tổng
dân số của Việt Nam. So với Trung Quốc hay Đài Loan thì đây là con số khá nhỏ bé.
Trung Quốc hiện có hơn 95 triệu tài khoản giao dịch, tương đương với với 7% dân
số của nước này đầu tư vào TTCK và Đài Loan có 10% dân số đang sở hữu tài khoản
giao dịch chứng khoán.
Thêm vào đó, chất lượng tài khoản chưa tương xứng với sự tăng trưởng số lượng.
Nguyên nhân là do một nhà đầu tư được phép mở nhiều tài khoản giao dịch nên số
lượng tài khoản ảo là rất nhiều. Bên cạnh đó, trước áp lực cạnh tranh, nhiều CTCK
đã đưa ra nhiều chương trình khuyến mãi, tư vấn miễn phí, hỗ trợ giao dịch trực
tuyến… nên đã thu hút được nhiều nhà đầu tư mở tài khoản. Tuy nhiên, số tài khoản
giao dịch thường xuyên chiếm tỷ lệ thấp, chỉ từ 20 – 30%.
Bên cạnh đó, cấu trúc nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam còn nhiều bất cập, với tỷ trọng
nhà đầu tư cá nhân chiếm đa số, trong khi tỷ trọng tham gia của các nhà đầu tư tổ
chức còn thấp. Giá trị tài sản của nhà đầu tư tổ chức cả trong và ngoài nước ở thời
điểm cuối năm 2016 ước đạt khoảng 15% GDP, thấp hơn một số quốc gia khác trong
khu vực, ví dụ tại Malaysia và Thái Lan lần lượt khoảng 66% và 22% GDP.
Tình trạng các nhà đầu tư cá nhân chiếm tỷ trọng lớn về số lượng và giá trị giao dịch
dẫn đến những bất ổn trên thị trường. TTCK thường biến động nhanh, mạnh và bất
thường do tâm lý của các nhà đầu tư cá nhân với mức tiết kiệm thấp, đầu tư theo
phong trào và kỳ hạn ngắn. Các nhà đầu tư này dễ bị tổn thương, gây khó khăn cho
việc huy động vốn, cổ phần hóa các DNNN và là yếu tố khiến TTCK chưa thể phát
triển bền vững.
4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
ĐẾN GIÁ CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.2.1 Thống kê mô tả các biến số trong mô hình
73
Chỉ tiêu
FFR
OIL
IPI
CPI
M2
IR
VNI
Trung bình
1,371
84,266
12,243
8,016
25,116
6,729
459,7
Trung vị
0,380
79,577
10,104
6,876
23,248
6,511
466,9
Tối đa
5,260
168,106
67,718
28,320
50,501
18,651
1.110,9
Tối thiểu
0,070
23,431
-10,140
-0,002
10,393
0,541
135,2
Độ lệch chuẩn
1,710
40,323
8,686
6,204
8,368
3,512
213,1
Độ nghiêng
1,249
0,227
2,093
1,480
0,752
1,080
0,831
Độ nhọn
3,166
1,669
11,845
4,860
3,259
4,132
3,939
Số quan sát
180
180
180
180
180
180
180
Bảng 4.4 Thống kê mô tả các biến trong mô hình SVAR
Nguồn: trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Vì dữ liệu được lấy theo tháng nên chịu ảnh hưởng tính mùa vụ cao, vì vậy các biến
IPI, CPI và M2 sử dụng trong mô hình đã được loại bỏ tính mùa vụ bằng công cụ
Census X12.
Vì giá dầu và VNI không thuộc dạng phân phối chuẩn nên các chuỗi dữ liệu này được
lấy logarit để đáp ứng các yêu cầu của mô hình SVAR và phương pháp ước lượng
bình phương nhỏ nhất. Bảng 4.1 cho thấy với 180 quan sát phù hợp để sử dụng hồi
quy các chuỗi dữ liệu thời gian. Sau khi được loại bỏ tính mùa vụ và lấy log, các
chuỗi dữ liệu hoàn toàn phù hợp để sử dụng trong mô hình nghiên cứu.
4.2.2 Tính dừng và sai phân của dữ liệu
Để mô hình hồi quy có kết quả ước lượng đáng tin cậy, tránh hiện tượng hồi quy giả
mạo cần thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị để xem xét tính dừng và không dừng của
các chuỗi biến số. Các phương pháp phổ biến được áp dụng là Augmented Dickey-
Fuller (ADF) và Phillips-Perron (PP).
74
Bảng 4.5 Kết quả kiểm định ADF và PP các chuỗi dữ liệu mô hình SVAR
Chuỗi gốc
Chuỗi sai phân bậc I
Biến số
Kết quả
Trị thống kê t (Kiểm định ADF)
Trị thống kê t (Kiểm định PP)
Trị thống kê t (Kiểm định ADF)
Trị thống kê t (Kiểm định PP)
VNI
-8,1342*
-7,8863*
I(0)
-2,5923***
-2,0750
-11,7516*
-11,9321*
IR
I(1)
IPI
-3,4358**
-10,9083*
I(0)
CPI
-2,6177***
-2,6421***
I(0)
M2
-1,2655
-2,6524
-7,6133*
-10,7506*
I(1)
OIL
-9,4699*
-9,3877*
I(0)
FFR
-3,0328**
-1,2423
-5,8095*
-5,6700*
I(1)
(Ghi chú: *, **, *** lần lượt cho biết mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%)
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Từ kết quả ở bảng 4.5 cho các chuỗi đều dừng ở bậc gốc, trừ chuỗi lãi suất, cung tiền
và lãi suất vốn liên bang của Mỹ là không dừng. Trong nghiên cứu này, các chuỗi dữ
liệu được sử dụng để ước lượng mô hình SVAR là các chuỗi dừng. Vì khi sử dụng
dữ liệu ở bậc gốc (không dừng) để ước lượng các mô hình SVAR, kết quả kiểm định
phân phối chuẩn của phần dư, kiểm định tương quan chuỗi đều không thỏa mãn.
Ngoài ra, nghiệm nghịch đảo của đa thức đặc tính AR phần lớn đều vượt qua giới hạn
1. Do đó, các chuỗi không dừng được lấy sai phân bậc 1 để chuyển thành chuỗi dừng
nhằm đảm bảo các kết quả ước lượng là ổn định và đáng tin cậy.
75
4.2.3 Độ trễ tối ưu và các kiểm định mô hình SVAR
4.2.3.1 Độ trễ tối ưu
Theo Brooks (2008) việc xác định độ trễ thích hợp là rất quan trọng vì nếu độ trễ quá
ngắn, mô hình có thể không được xác định chính xác, trong khi đó nếu độ trễ quá lớn
sẽ làm cho bậc tự do giảm, ước lượng sẽ không hiệu quả.
Dựa vào các tiêu chuẩn thông tin để xác định độ phù hợp của mô hình (sai số mô hình
càng nhỏ càng tốt) hay nói cách khác việc có nhiều biến trong mô hình dẫn đến dự
báo không hiệu quả. Do đó, các tiêu chuẩn thông tin có thể kết hợp để lựa chọn độ trễ
tối ưu của mô hình. Các tiêu chuẩn thông tin thường được sử dụng là AIC, BSC, HQ,
LR, FPE (Lütkepohl, 2005).
Lag
LogL
LR
FPE
AIC
SC
HQ
-1297,437
NA
0,0119
15,437
15,566
15,489
0
-830,873
888,954
0,00835
10,495
11,532*
10,916
1
-725,421
192,185
0,00434*
9,827*
11,772
10,616*
2
-683,995
72,066
0,00483
9,917
12,769
11,074
3
-633,977
82,869
0,00484
9,905
13,664
11,430
4
-598,528
55,795
0,00581
10,065
14,732
11,959
5
-552,702
68,331*
0,00624
10,102
15,677
12,365
6
-517,693
49,302
0,00772
10,268
16,750
12,899
7
-480,859
48,821
0,00951
10,412
17,802
13,411
8
9
-439,170
51,803
0,00113
10,499
18,796
13,866
10
-402,100
42,992
0,00145
10,640
19,844
14,375
Bảng 4.6 Xác định độ trễ tối ưu của mô hình SVAR
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Bảng 4.6 cho thấy, các tiêu chí là FPE, AIC và HQ đều cho kết quả lựa chọn độ trễ là
2. Việc lựa chọn độ trễ tối ưu thường sử dụng tiêu chuẩn AIC và FPE; vì vậy độ trễ tối
ưu cho mô hình được lựa chọn là 2.
76
4.2.3.2 Các kiểm định mô hình
Từ kết quả kiểm định tính ổn định tổng quát của mô hình bằng nghiệm nghịch đảo
của đa thức đặc tính AR cho thấy tất cả các nghiệm của đa thức đều nằm trong vòng
tròn đơn vị, chứng tỏ mô hình VAR được ước lượng có tính ổn định (Phụ lục A –
Hình A.1). Kết quả kiểm định tương quan chuỗi của phần dư cho thấy không có tồn
tại tương quan chuỗi của phần dư trong mô hình (Phụ lục A – Bảng A.1). Vì vậy, mô
hình SVAR được ước lượng là đáng tin cậy.
4.2.4 Kết quả nghiên cứu mô hình SVAR
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ nhất về chiều hướng và mức độ tác động của CSTT
đến giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam, phân tích phản ứng đẩy và phân rã phương sai
từ kết quả ước lượng của mô hình SVAR được thực hiện (Phụ lục B).
4.2.4.1 Phản ứng của giá cổ phiếu trước cú sốc chính sách tiền tệ, giá và sản lượng
Hình 4.4 cho thấy phản ứng của VNI do sốc điều hành CSTT đại diện bằng lãi suất liên
ngân hàng và cung tiền M2. Kết quả phản ứng đẩy cho thấy việc gia tăng cung tiền bắt
đầu tác động đến giá cổ phiếu trên thị trường từ tháng thứ hai với mức tăng 1,4% và
đạt mức cao nhất là tăng 3,5% sau 6 tháng (hình 4.4a). Tuy nhiên, đà tăng này không
tiếp tục được duy trì mà VNI lại bị sụt giảm sau đó, trở về lại mức cân bằng ban đầu
sau 12 tháng.
Kết quả này phù hợp với thực tế tại TTCK Việt Nam. Khi NHNN bắt đầu mở rộng
CSTT thông qua các công bố về tốc độ tăng trưởng cung tiền, tốc độ tăng trưởng tín
dụng vào đầu năm sẽ tạo ra sự kỳ vọng về giảm lãi suất, giảm chi phí sử dụng vốn, gia
tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp. Vì vậy, giá cổ phiếu gia tăng thể hiện kỳ vọng
này. Tuy nhiên, sau khi CSTT bắt đầu phát huy tác động trên thực tế (độ trễ 6-9 tháng)
kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp không thực sự như kỳ vọng trước đó nên đã
đẩy giá cổ phiếu trở về lại mức cân bằng cũ.
Lãi suất liên ngân hàng bắt đầu ảnh hưởng đến VNI sau một quý với mức tác động
không lớn. Khi có cú sốc tăng lên một độ lệch chuẩn của lãi suất liên ngân hàng, VNI
77
tăng nhẹ 1,6%, nhưng lại giảm ngay sau đó và đạt mức cân bằng mới là giảm 2,0% sau
9 tháng (hình 4.4b). Điều này có thể giải thích là do khi lãi suất liên ngân hàng tăng
lên, lãi suất thị trường (nhất là lãi suất cho vay của các NHTM) bắt đầu tăng sau đó tạo
nên áp lực tăng chi phí sử dụng vốn của các doanh nghiệp, giảm kỳ vọng của các nhà
đầu tư về lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai.
Hình 4.4. Phản ứng tích lũy của VNI do sốc các biến số trong mô hình
20
20
15
15
10
10
5
5
0
0
-5
-5
-10
-10
-15
-15
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(a) Do sốc cung tiền (b) Do sốc lãi suất liên ngân hàng
20
20
15
15
10
10
5
5
0
0
-5
-5
-10
-10
-15
-15
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(c) Do sốc sản lượng (d) Do sốc giá hàng hóa
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Ngoài ra, từ hình 4.4c còn cho thấy giá cổ phiếu không phản ứng mạnh tức thời khi
có cú sốc của sản lượng mà chỉ bắt đầu tăng sau 3 tháng, đạt mức cân bằng mới tăng
4,5% sau 12 tháng. Kết quả này cũng giống với nghiên cứu của Phan Thị Bích
Nguyệt (2013), Võ Lê Mai (2012) cho thị trường Việt Nam và cũng như một số
nghiên cứu trên các thị trường phát triển và thị trường mới nổi như (Ioannidis và
Kontonikas, 2008; Raghavan và Dungey, 2015; Thorbecke, 1997; Ben Naceur và
78
ctg, 2007). Theo mô hình chiết khấu cổ tức và lý thuyết số lượng tiền tệ, sự gia tăng
của sản lượng trong nền kinh tế cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp tốt hơn, gia tăng lợi nhuận từ đó tác động làm tăng dòng tiền kỳ vọng
và tăng giá cổ phiếu.
Ngược lại với cú sốc sản lượng, VNI phản ứng khá mạnh trước cú sốc lạm phát. VNI
bắt đầu giảm từ ngay từ tháng đầu tiên khi có cú sốc chỉ số giá tiêu dùng xảy ra và đạt
mức cân bằng mới giảm 6% sau 3 quý (hình 4.4d). Kết quả này cho thấy các nhà đầu
tư trên TTCK Việt Nam phản ứng mạnh trước cú sốc chỉ số giá tiêu dùng. Lo ngại về
sự bùng lên của lạm phát luôn thường trực và ảnh hưởng lớn đến tâm lý nhà đầu tư.
Ngoài ra, tác động gián tiếp của lạm phát đến VNI là do việc tăng giá hàng hóa trong
nền kinh tế (nhất là những năm có lạm phát cao như 2008, 2011) đã làm tăng giá nguyên
liệu đầu vào của các doanh nghiệp (trong đó có các doanh nghiệp niêm yết), gây khó
khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đây cũng là yếu tố làm giảm giá cổ phiếu trên thị trường. Kết quả trên cũng phù hợp
với một số nghiên cứu được thực hiện trên TTCK Việt Nam trước đó như: Nguyễn
Hữu Tuấn (2011), Nguyễn Minh Kiều và Nguyễn Văn Điệp (2013), Phan Đình Nguyên
và Tống Trang Châu (2014), Thân Thị Thu Thủy và Võ Thị Thùy Dương (2015),
Dương Ngọc Mai Phương và cộng sự (2015).
Từ các kết quả phân tích ở trên cho thấy, CSTT có những tác động ngày càng mạnh
đến giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam. Những thay đổi trong điều hành CSTT của
NHNN thông qua thay đổi lãi suất liên ngân hàng có tác động ngược chiều và cung tiền
có tác động cùng chiều đến giá chứng khoán sau độ trễ từ 3-6 tháng. Đặc biệt, VNI khá
nhạy cảm đối với sự thay đổi của giá hàng hóa. Khi có sự gia tăng đột ngột từ CPI, VNI
cũng phản ứng giảm ngay lập tức và tiếp tục giảm mạnh sau đó. Từ kết quả này là cơ
sở để đưa ra các gợi ý chính sách cho NHNN trong việc điều hành CSTT.
4.2.4.2 Phản ứng của sản lượng và giá hàng hóa trước cú sốc chính sách tiền tệ
Hình 4.5 cho thấy CPI có phản ứng mạnh trước các cú sốc điều hành CSTT. Việc thắt
chặt tiền tệ (biểu hiện bằng sự gia tăng của lãi suất liên ngân hàng) không làm lạm
79
phát giảm như kỳ vọng mà ngược lại làm lạm phát tăng lên (hình 4.5a). Kết quả này
tương đồng với các nghiên cứu của Phạm Thị Tuyết Trinh (2013), Nguyễn Hà Thanh
(2014), Trần Ngọc Thơ và Nguyễn Hữu Tuấn (2015) cho Việt Nam. Đây là hiện tượng
“price puzzle” diễn ra khá phổ biến tại các nền kinh tế khác nhau.
Giải thích cho hiện tượng này là do việc tăng lãi suất tái chiết khấu làm tăng lãi suất
cho vay của các ngân hàng, chi phí đi vay của các doanh nghiệp trong nền kinh tế tăng,
làm tăng giá thành sản xuất và giá tiêu dùng (Schabert, 2001). Biểu hiện rõ nhất là ở
giai đoạn năm 2008 với hàng loạt các biện pháp được NHNN sử dụng để thắt chặt tiền
tệ, đối phó với lạm phát như: (i) tăng tỷ lệ DTBB thêm 1% (Quyết định số
187/2008/QĐ-NHNN); (ii) phát hành tín phiếu bắt buộc 20.300 tỷ đồng cho các
NHTM (Quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008); (iii) khống chế tổng dư nợ
cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán không được
vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD (Quyết định 03/2008/ QĐ-NHNN ngày
1/2/2008). Những quyết định này đã gây khó khăn cho thanh khoản của hệ thống
ngân hàng, làm lãi suất liên ngân hàng liên tục tăng cao (lên mức xấp xỉ 43%/năm
vào ngày 19/2/2008), chi phí đi vay tăng lập tức được phản ánh vào chi phí sản xuất
và theo đó là giá tiêu dùng.
Hình 4.5. Phản ứng tích lũy của giá và sản lượng do sốc cung tiền và lãi suất
30
20
25
20
10
15
0
10
5
-10
0
-5
-20
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24 -10
24
(a) Phản ứng của CPI do sốc IR (b) Phản ứng của CPI do sốc M2
80
15
15
10
10
5
5
0
0
-5
-5
-10
-10
-15
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24 -15
24
(c) Phản ứng của IPI do sốc IR (d) Phản ứng của IPI do sốc M2
Nguồn: Trích xuất từ kết quả hồi quy trên phần mềm Eviews 8.0
Việc mở rộng cung tiền không làm lạm phát tăng ngay lập tức mà ngược lại, CPI
giảm nhẹ khi có cú sốc tăng cung tiền và chỉ bắt đầu tăng mạnh sau 12 tháng và đạt
mức tăng 16% ở 12 tháng kế tiếp (hình 4.5b). Kết quả này phản ánh đúng diễn biến
trong thực tế điều hành CSTT tại Việt Nam, nhất là hai giai đoạn xảy ra lạm phát cao
là năm 2008 và 2011. Giai đoạn từ 2002 – 2007 NHNN đã liên tục mở rộng CSTT
bằng cách gia tăng cung tiền, kết quả là lạm phát năm 2008 đạt mức xấp xỉ 20%. Tiếp
theo đó, để giảm tác động của khủng hoảng tài chính, kích thích kinh tế tăng trưởng
NHNN liên tục mở rộng tiền tệ trong năm 2009, kết quả là lạm phát tăng lên mức hai
con số vào năm 2010 và 2011 (Báo cáo thường niên NHNN).
Ngược lại với phản ứng mạnh mẽ của giá hàng hóa đối với các cú sốc trong điều hành
CSTT, sản lượng chịu tác động từ lãi suất liên ngân hàng với mức độ nhẹ hơn. Cụ
thể, sản lượng bắt đầu giảm 1,1% từ tháng thứ ba và đạt mức giảm cao nhất là 4,2%
sau 12 tháng khi có cú sốc tăng lãi suất liên ngân hàng (hình 4.5c). Trong khi đó, sản
lượng gần như không chịu tác động đáng kể nào từ cú sốc tăng cung tiền. Mở rộng
tiền tệ chỉ có tác động làm tăng sản lượng xấp xỉ 1% sau 12 tháng (hình 4.5d).
4.2.4.3 Phản ứng của chính sách tiền tệ đối với sự thay đổi giá cổ phiếu
Hình 4.6. Phản ứng tích lũy của các biến số CSTT do thay đổi giá cổ phiếu
81
20
.4
.2
15
.0
10
-.2
5
-.4
0
-.6
-5
-.8
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(a) Phản ứng M2 do sốc VNI (b) Phản ứng IR do sốc VNI
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Từ hình 4.6 cho thấy việc điều hành CSTT của NHNN theo xu hướng hỗ trợ cho
TTCK trong giai đoạn nghiên cứu. Để hỗ trợ cho cú sốc tăng giá cổ phiếu trên thị
trường, NHNN thực hiện điều hành CSTT theo hướng giảm lãi suất liên ngân hàng,
gia tăng cung tiền. Điều này thể hiện ở phản ứng của lãi suất liên ngân hàng khi có
cú sốc giá cổ phiếu. Lãi suất bắt đầu giảm từ tháng thứ hai với mức 2,0%, tiếp tục
giảm đạt mức cao nhất là 4,0% sau một quý (hình 4.6b). Tuy nhiên, lãi suất không
tiếp tục đà giảm này mà có xu hướng trở lại mức cân bằng cũ sau 12 tháng.
Cung tiền cũng có phản ứng ngay từ tháng thứ hai sau cú sốc tăng giá cổ phiếu theo
hướng cùng chiều và đạt mức cao nhất là tăng 7,2% sau 3 quý (hình 4.6a). Từ đó cho
thấy, bên cạnh các mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát,
NHNN còn chú trọng đến phát triển TTCK qua việc điều tiết cung tiền hỗ trợ tăng
giá cổ phiếu.
4.2.4.4 Phân tích phân rã phương sai
Phân tích phản ứng đẩy cho thấy được chiều hướng và mức độ tác động của các biến
số trong mô hình, tuy nhiên, lại không thấy được vai trò của các cú sốc đối với sự
thay đổi của các biến số trong thời gian nghiên cứu. Vì vậy phân tích phân rã phương
sai được thực hiện trên mô hình SVAR nhằm làm sáng tỏ hơn vấn đề này.
Để làm rõ hơn vai trò của CSTT đối với những thay đổi của giá cổ phiếu trên TTCK
Việt Nam, phân rã phương sai được thực hiện theo hai đoạn là từ tháng 01/2002 đến
82
tháng 12/2007 và từ tháng 01/2008 đến tháng 12/2016. Sở dĩ, cần thực hiện phân chia
thành hai giai đoạn là là do vào ngày 28/05/2007 NHNN đã ban hành chỉ thị số
03/2007/CT-NHNN về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư,
kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo
đó, các tổ chức tín dụng phải thực hiện các biện pháp khống chế dư nợ vốn cho vay,
chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư
nợ tín dụng của tổ chức tín dụng.
Sau đó đến ngày 01/02/2008 NHNN đã thay thế chỉ thị này bằng quyết định số
03/2008/QĐ-NHNN về cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh
chứng khoán. Đây là hai quyết định được coi là có ảnh hưởng mạnh mẽ của NHNN
đối với hoạt động đầu tư trên TTCK.
- Giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng 12/2007
Từ kết quả phân rã phương sai ở Bảng 4.7 cho thấy trong giai đoạn 2002 – 2007 giá
cổ phiếu trên TTCK có phản ứng tức thời với các cú sốc của tất cả các biến trong mô
hình ngay từ kỳ đầu tiên. Các biến ngoại sinh giải thích được hơn 17% mức độ biến
động của VNI, trong khi đó các biến đại diện cho CSTT của NHNN mới chỉ giải thích
được khoảng 10,5% mức độ biến động của VNI. Ngoài ra, VNI cũng chịu tác động
từ lạm phát và sản lượng với mức tác động không lớn, xấp xỉ 5%
Bảng 4.7 Phân rã phương sai giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng 12/2007
Phân rã phương sai của M2
Kỳ
FFR
OIL
IPI
CPI
M2
IR
VNI
1
0,200
9,243
10,500
1,374
78,682
0,000
0,000
3
4,446
10,026
14,442
1,667
64,182
4,997
0,240
6
4,271
9,380
14,060
1,867
60,853
8,978
0,591
9
8,300
8,969
13,241
2,397
55,521
9,244
2,327
12
9,367
8,603
13,692
2,634
53,086
8,937
3,682
24
9,944
8,452
14,672
2,691
51,466
8,824
3,951
Phân rã phương sai của IR
Kỳ
FFR
OIL
IPI
CPI
M2
IR
VNI
1
0,020
0,201
0,116
0,371
2,149
97,142
0,000
3
3,957
3,213
0,962
0,909
5,478
82,872
2,609
6
4,695
3,982
1,078
2,791
10,560
69,738
7,155
9
5,117
5,682
4,084
2,798
11,797
62,563
7,958
12
6,427
5,609
4,196
2,823
12,519
60,001
8,426
24
13,433
4,915
6,255
2,848
10,957
52,280
9,311
83
Phân rã phương sai của VNI
Kỳ
FFR
OIL
IPI
CPI
M2
IR
VNI
1
0,070
3,572
2,802
1,387
0,135
0,177
91,857
3
0,728
8,293
1,578
1,651
1,130
2,254
84,366
6
4,741
9,598
1,655
1,953
2,656
3,075
76,322
9
4,936
10,581
1,886
2,090
2,808
6,686
71,013
12
5,171
10,485
2,058
2,430
3,361
6,709
69,786
24
7,250
10,261
2,439
2,385
3,571
6,701
67,393
Nguồn: Trích xuất kết quả từ phần mềm Eviews 8.0
Kết quả trên được giải thích là do đây là giai đoạn thị trường mới đi vào hoạt động
với số lượng cổ phiếu niêm yết cũng như giao dịch rất thấp. Giá trị vốn hóa thị trường
trong 5 năm đầu xấp xỉ 1%/GDP, VNI chỉ dao động trong khoảng hẹp, từ 200 – 300
điểm (Hình 4.7). Chính vì vậy, những tác động từ điều hành CSTT của NHNN đến
thị trường không lớn là hợp lý.
Từ hình 4.7 cho thấy trong giai đoạn 2002 – 2007 lãi suất chính sách của NHNN được
điều chỉnh theo xu hướng tăng với biên độ hẹp (4,8% - 6,0%) và cung tiền được mở
rộng với tốc độ tăng trên 30% (giai đoạn 2002 – 2007) nhưng giá cổ phiếu đã không
có những phản ứng rõ rệt trước các thay đổi của chính sách. Như vậy, có thể thấy đặc
điểm nổi bật của giai đoạn này là tính nhạy cảm của giá cổ phiếu trước các thay đổi
của CSTT chưa cao.
84
Điểm
%
1200
60
1000
50
800
40
600
30
400
20
200
10
0
0
1 M 2 0 0 2
4 M 2 0 0 2
7 M 2 0 0 2
1 M 3 0 0 2
4 M 3 0 0 2
7 M 3 0 0 2
1 M 4 0 0 2
4 M 4 0 0 2
7 M 4 0 0 2
1 M 5 0 0 2
4 M 5 0 0 2
7 M 5 0 0 2
1 M 6 0 0 2
4 M 6 0 0 2
7 M 6 0 0 2
1 M 7 0 0 2
4 M 7 0 0 2
7 M 7 0 0 2
0 1 M 2 0 0 2
0 1 M 3 0 0 2
0 1 M 4 0 0 2
0 1 M 5 0 0 2
0 1 M 6 0 0 2
0 1 M 7 0 0 2
LS liên NH
M2 (%)
VNI
Hình 4.7. Lãi suất liên ngân hàng, M2 và VNI giai đoạn 2002 - 2007
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ NHNN và HSX
Sở dĩ giá cổ phiếu chưa có những phản ứng rõ rệt đối với những thay đổi trong điều
hành CSTT là do quy mô thị trường còn quá nhỏ. Giai đoạn 2002 -2006 giá trị vốn
hóa TTCK chỉ mới xấp xỉ 1% GDP với hơn 20 công ty niêm yết, quy mô giao dịch
chỉ vài trăm tỷ đồng/phiên (bảng 4.5). Vì vậy, những ảnh hưởng không những của
điều hành CSTT mà còn từ các yếu tố vĩ mô không có tác động rõ ràng lên giá chứng
khóan là điều dễ hiểu. Nghiên cứu tại các thị trường mới phát triển cũng cho thấy
điều này như nghiên cứu của (Abaenewe và Ndugbu, 2013) tại Nigeria.
Sang đầu năm 2006 giá cổ phiếu liên tục tăng do tác động từ nhiều sự kiện như: (i)
BTC ban hành thông tư 11/2006/TTCK-BTC ngày 21/02/2006 về phí và lệ phí trong
lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán theo đó phí giảm dịch giảm xuống chỉ còn 0,05%
(so với trước đó là 0,1%); (ii) Luật chứng khoán được Quốc hội thông qua ngày
29/06/2006. Chỉ trong vòng 3 tháng, VNI đã tăng từ 313,14 điểm (06/02/2006) lên
632,69 điểm (25/04/2006) với mức tăng gần 100% (hình 4.7).
85
Năm
Tài khoản nhà đầu tư
Cổ phiếu niêm yết
Công ty chứng khoán
trị Giá vốn hóa thị trường so với GDP
Khối lượng cổ phiếu niêm yết (triệu cp)
Công ty quản lý quỹ
Giá trị giao dịch bình quân phiên (tỷ đồng)
Giá trị vốn hóa thị trường (tỷ đồng)
2.436
0,2
2002
13.607
99,96
20
-
9
5
2.370
0,2
2003
16.486
112,00
22
1
12
12
4.237
0,8
2004
21.600
133,58
26
2
13
80
7.390
1,2
2005
29.065
340,75
41
6
14
112
2006 110.652
2.526,2
195
18
55
402
147.967
22,7
2007 312.139
5.138,2
253
25
78
1.562
364.425
40,0
Bảng 4.8 Một số chỉ tiêu cơ bản của thị trường chứng khoán Việt Nam Giai đoạn 2002 – 2007
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ báo cáo thường niên của HSX và HNX
Giai đoạn từ đầu năm 2006 đến cuối năm 2007, NHNN không điều chỉnh lãi suất cơ
bản và lãi suất tái chiết khấu nhưng giá cổ phiếu vẫn liên tục tăng. Từ đó cho thấy giá
cổ phiếu không bị ảnh hưởng nhiều từ thay đổi lãi suất chính sách. Tuy nhiên, cung
tiền M2 tăng mạnh tới 9,75% chỉ trong 4 tháng đầu năm 2006 (mức cao nhất so với
cùng kỳ các năm trước đó) đã dẫn đến dòng vốn chảy vào TTCK tăng khá nhanh, thể
hiện qua dư nợ cho vay của các NHTM đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Theo Tú Anh (2006), tổng dư nợ cho vay ngành ngân hàng cả năm 2006 tăng 137.000
tỷ đồng, tương đương khoảng 19%, ước đoán con số cho vay đầu tư chứng khoán
khoảng từ 2-3% tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2006.
Đến cuối năm 2006, sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập WTO và việc tổ chức
thành công Hội nghị cấp cao APEC đã tạo ra sự kỳ vọng về tương lai tốt đẹp của nền
kinh tế. Đồng thời, tốc độ tăng trưởng cung tiền đạt mức 11,7% trong ba tháng đầu
năm 2007, cao nhất trong vòng 12 năm trước đó. Dòng vốn đầu tư vào TTCK liên tục
gia tăng với giá trị giao dịch bình quân 1 phiên những tháng nửa đầu năm 2007 trên
1.700 tỷ đồng – mức cao nhất từ khi thị trường thành lập.
86
Phân rã phương sai tại bảng 4.7 còn cho thấy sự biến động cung tiền trong giai đoạn
này chịu tác động lớn của biến động sản lượng. Cụ thể ngay từ tháng đầu tiên, sự thay
đổi của sản lượng giải thích được hơn 10% mức độ biến động của cung tiền và đạt
mức cao nhất là 14% sau 6 tháng. Kết quả này phản ánh tham vọng sử dụng CSTT
để kích thích tăng trưởng kinh tế của NHNN bằng cách liên tục mở rộng cung tiền
trong giai đoạn 2002 -2007 với mức trung bình trên 25% mỗi năm, riêng năm 2007
là 46,12%.
Mặc dù vậy, tăng trưởng GDP chỉ đạt mức bình quân trên 7%/năm. Từ đó đặt ra nghi
vấn về một lượng lớn cung tiền đã không được sử dụng cho đầu tư, phát triển sản
xuất mà chảy vào các kênh đầu tư khác, đặc biệt là đầu tư cổ phiếu. Từ diễn biến thực
tế trên TTCK Việt Nam từ năm 2006 đến đầu năm 2007, lượng cầu cổ phiếu tăng
mạnh đã làm cho VNI đạt mức cao nhất là 1.106,6 điểm vào ngày 10/03/2007.
Biến động của VNI trong giai đoạn này không giải thích được nhiều biến động của
cung tiền và lãi suất liên ngân hàng. VNI chỉ giải thích được gần 3% diễn biến của
cung tiền và 8,4% diễn biến của lãi suất liên ngân hàng sau 12 tháng. Kết quả này cho
thấy trong giai đoạn 2002 -2007 TTCK chưa phải là mối quan tâm hàng đầu của các
nhà điều hành CSTT.
- Giai đoạn từ tháng 12/2007 đến tháng 12/2016
Sự tăng lên liên tục của giá cổ phiếu và giá trị giao dịch trên TTCK vào đầu năm 2007
xuất hiện nguy cơ tạo thành “bong bóng”. Việc thu được tỷ suất sinh lời cao đã khuyến
khích dòng tiền đổ vào chứng khoán càng nhiều, bất chấp các cảnh báo được đưa ra.
Trước tình hình đó, để giảm bớt những bất ổn, giúp thị trường phát triển bền vững,
tránh nguy cơ sụp đổ, NHNN đã ban hành chỉ thị 03/2007 ngày 28/05/2007 và sau đó
là quyết định 03/NHNN ngày 01/02/2008.
Sang đầu năm 2008, NHNN tiếp tục thực hiện một loạt các biện pháp thắt chặt tiền
tệ như: yêu cầu các NHTM mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, tăng lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu để kiềm chế lạm phát. Cụ thể, lãi
87
suất cơ bản tăng từ 8,75% lên 14%, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7,5% lên 15% và lãi
suất tái chiết khấu tăng từ 6% lên 13% (phụ lục D).
Thêm vào đó, việc NHNN ban hành quyết định 03/2008/QĐ-NHNN không những
tác động tới tâm lý nhà đầu tư mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến dòng tiền vào TTCK,
cũng như chi phí vốn đầu tư. Vì vậy, với độ trễ sau 3 tháng VNI đã sụt giảm rất mạnh,
đạt mức đáy vào tháng 02/2009 là 261 điểm.
Bảng 4.9 Phân rã phương sai giai đoạn tháng 12/2007 đến tháng 12/2016
Phân rã phương sai của IPI
Kỳ
FFR
OIL
IPI
CPI
M2
IR
VNI
1
2,574
1,554
95,872
0,000
0,000
0,000
0,000
3
5,251
2,116
83,705
0,408
5,487
1,833
1,199
6
5,414
2,200
83,068
0,432
5,562
2,006
1,319
12
5,367
2,257
81,903
0,484
6,637
2,026
1,326
24
5,369
2,252
81,525
0,639
6,870
2,022
1,323
Phân rã phương sai của CPI
Kỳ
FFR
OIL
IPI
CPI
M2
IR
VNI
1
1,280
1,769
0,006
96,944
0,000
0,000
0,000
3
9,093
7,564
0,349
78,908
0,876
0,840
2,370
6
10,033
7,180
3,033
70,726
5,363
1,217
2,446
12
9,338
6,098
3,254
56,192
21,757
1,090
2,270
24
9,142
5,698
3,197
53,844
24,834
1,169
2,116
Phân rã phương sai của M2
OIL
IPI
CPI
M2
Kỳ
FFR
IR
VNI
1
1,553
4,778
0,458
0,090
93,121
0,000
0,000
3
0,472
4,002
1,813
2,604
90,729
0,190
0,189
6
1,035
4,598
0,952
7,158
84,812
1,274
0,171
9
1,509
4,011
0,806
11,698
80,459
1,364
0,152
12
1,513
3,829
0,960
14,508
77,595
1,431
0,163
24
2,135
3,603
1,056
14,726
76,855
1,416
0,209
Phân rã phương sai của IR
CPI
IPI
Kỳ
FFR
OIL
M2
IR
VNI
0,479
2,004
1
7,539
0,365
0,079
89,533
0,000
10,568
2,680
3
7,430
1,665
2,282
71,198
4,176
9,829
4,993
6
7,790
1,616
4,952
66,450
4,371
9,735
4,852
9
7,769
1,608
7,405
64,282
4,348
9,874
4,797
12
7,670
1,695
8,597
63,092
4,275
10,196
4,778
24
7,671
1,709
9,018
62,392
4,236
88
Phân rã phương sai của VNI
CPI
IPI
Kỳ
FFR
OIL
M2
IR
VNI
2,435
3,712
1
3,150
2,937
0,273
4,735
82,757
7,453
7,369
3
2,744
4,558
8,823
8,439
60,615
6,031
5,895
6
3,254
8,751
7,217
16,577
52,275
6,706
5,822
9
4,115
11,025
6,819
16,227
49,286
6,841
6,085
12
4,111
10,972
7,126
16,060
48,805
6,916
6,038
24
4,153
10,892
7,966
15,921
48,114
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Bảng 4.9 cho thấy các biến số CSTT, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng có ảnh hưởng
mạnh đến biến động của VNI ngay từ kỳ đầu tiên với mức hơn 4% và giải thích được
16,5% mức độ biến động của VNI chỉ sau 6 kỳ. Cung tiền cũng giải thích được 8,8% mức
độ biến động của VNI chỉ sau 3 kỳ. Kết quả cho thấy ở giai đoạn này giá cổ phiếu đã có
những phản ứng rõ rệt đối với thay đổi trong điều hành CSTT. Quan sát số liệu thống kê
theo ngày của VNI cho thấy mặc dù sau 3 tháng kể từ khi NHNN ban hành chỉ thị 03/2007
VNI vẫn duy trì ở mức trên 1.000 điểm nhưng khối lượng và giá trị giao dịch cổ phiếu sụt
giảm mạnh sau 2 tháng, chỉ còn bình quân 6 triệu cổ phiếu một phiên.
89
1200
60 % 50
1000
40
800
30
600
20
400
10
200
0
0
1 M 2 0 0 2
7 M 2 0 0 2
1 M 3 0 0 2
7 M 3 0 0 2
1 M 4 0 0 2
7 M 4 0 0 2
1 M 5 0 0 2
7 M 5 0 0 2
1 M 6 0 0 2
7 M 6 0 0 2
1 M 7 0 0 2
7 M 7 0 0 2
1 M 8 0 0 2
7 M 8 0 0 2
1 M 9 0 0 2
7 M 9 0 0 2
1 M 0 1 0 2
7 M 0 1 0 2
1 M 1 1 0 2
7 M 1 1 0 2
1 M 2 1 0 2
7 M 2 1 0 2
1 M 3 1 0 2
7 M 3 1 0 2
1 M 4 1 0 2
7 M 4 1 0 2
1 M 5 1 0 2
7 M 5 1 0 2
1 M 6 1 0 2
7 M 6 1 0 2
LS liên NH (%)
M2 (%)
VNI (điểm)
Hình 4.8. Lãi suất liên NH, M2 và VNI giai đoạn 2007- 2016
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ HSX, NHNN
Trước nguy cơ giá cổ phiếu tiếp tục sụt giảm trong năm 2009, chính phủ đã triển khai
gói kích cầu để đối phó với tác động từ khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các cơ quan
quản lý đã đưa ra nhiều giải pháp hỗ trợ thị trường như: Tổng công ty đầu tư kinh
doanh vốn nhà nước được yêu cầu tham gia mua cổ phiếu; UBCKNN điều chỉnh biên
độ giao động giá chứng khoán; NHTM và CTCK dừng bán giải chấp cổ phiếu; gói
kích cầu của chính phủ...
Đồng thời, NHNN thực hiện hàng loạt các biện pháp nới lỏng tiền tệ như: giảm mạnh
lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% còn 3%;
tăng cung tiền (tốc độ tăng M2 trong 6 tháng đầu năm 2009 là 17,59%). Các biện
pháp trên không những hỗ trợ sản xuất của các doanh nghiệp trong nước mà còn thúc
đẩy TTCK tăng trưởng trở lại. VNI tăng 117% chỉ trong vòng 3 tháng với mức đỉnh
gần 600 điểm vào cuối năm 2009. Khối lượng giao dịch bình quân mỗi phiên trong 3
tháng đầu năm 2009 xấp xỉ 12 triệu cổ phiếu, riêng tháng 06/2009 có tới 54 triệu chứng
khoán được mua bán mỗi phiên.
90
Sang năm 2010, khi hiệu lực của gói kích cầu kết thúc (không còn ưu đãi về thuế và
lãi suất), cùng với áp lực thu hồi vốn đã cho vay ưu đãi của các ngân hàng đã đẩy lãi
suất trên thị trường lên cao, bình quân khoảng 17%/năm. Đồng thời, việc kiểm soát
tăng trưởng tín dụng của NHNN đã tác động làm giá cổ phiếu sụt giảm.
Đến đầu tháng 04/2010 sau chỉ thị của chính phủ yêu cầu NHNN giảm lãi suất cho
vay trên thị trường đã tác động ngay lập tức đến TTCK, VNI tăng đạt mức 549,51
điểm (cao nhất năm 2010). Trước lo ngại về sự tăng cao bất thường của lạm phát,
NHNN đã đột ngột tăng lãi suất tái chiết khấu từ 7% lên 13% vào tháng 02/2011,
đồng thời giảm tăng trưởng tín dụng xuống dưới 20%, giảm tỷ trọng dư nợ cho vay
bất động sản, đầu tư chứng khoán của các NHTM từ 22% xuống còn 16%. Do đó, xu
thế chủ đạo của VNI trong năm 2011 là xu thế giảm.
Ngoài ra, sang đầu năm 2013, khi NHNN bắt đầu thực hiện cắt giảm lãi suất tái chiết
khấu từ mức 9% xuống còn 5% cùng với hàng loại các biện pháp tái cấu trúc TTCK
được triển khai, giá cổ phiếu đã tăng trở lại (hình 4.8). Xu hướng chủ đạo của VNI
giai đoạn 2013 - 2016 là tăng điểm. Tính đến tháng 12/2016, tổng giá trị giao dịch
toàn thị trường đạt 1.164 nghìn tỷ đồng, tăng 80% so với năm 2015; giá trị giao dịch
bình quân mỗi phiên đạt 5.448 tỷ đồng, trong đó giá trị giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ
quỹ bình quân mỗi phiên đạt 2.959 tỷ đồng (Bảng 4.10).
Việc NHNN tiếp tục chuyển hướng điều hành CSTT qua việc xác định mục tiêu hàng
đầu là kiểm soát lạm phát, nhất là trong giai đoạn từ 2012 đến 2016 đã giúp cho tốc
độ tăng giá hàng tiêu dùng được duy trì ở mức thấp, tốc độ tăng trưởng sản lượng
được duy trì ở mức trên 6%/năm đã góp phần hỗ trợ TTCK hồi phục, VNI đạt mức
cao nhất từ sau giai đoạn khủng hoảng năm 2008 với 663 điểm vào tháng 12/2016.
91
Năm
Tài khoản nhà đầu tư
Giá trị vốn hóa thị trường (tỷ đồng)
Giá trị giao dịch bình quân phiên (tỷ đồng)
Công ty chứng khoán
Công ty quản lý quỹ
Cổ phiếu niêm yết
Khối lượng cổ phiếu niêm yết (triệu cp)
Giá trị vốn hóa thị trường so với GDP
2008
531.428
8.085
342
43
102
1.616
169.359
19,6
2009
822.914
14.278
454
46
105
2.873
494.072
37,7
2010
1.056.000
23.685
646
46
105
2.489
569.255
40,1
2011
1.200.000
28.147
699
47
105
1.491
489.079
21,0
2012
1.260.000
33.403
678
47
105
2.158
647.565
26,0
2013
1.300.000
35.696
703
48
104
2.578
847.777
31,0
2014
1.370.000
42.346
670
45
85
2.978
990.511
31,5
2015
1.552.00
42.610
685
43
81
2.519
1.146.874
30,8
2016
1.693.036
49.388
696
2
74
2.959
1.643.591
38,7
Bảng 4.10 Một số chỉ tiêu cơ bản của thị trường chứng khoán Việt Nam Giai đoạn 2008 – 2016
Tổng hợp của tác giả từ báo cáo thường niên của HSX và HNX
Bên cạnh đó, phản ứng của giá cổ phiếu không những là do tác động từ các thông tin
trong nội bộ nền kinh tế mà còn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, gây ra nguy cơ
đổ vỡ đối với hệ thống tài chính. Phân rã phương sai VNI còn cho thấy tác động của lãi
suất vốn liên bang của Mỹ và giá dầu thế giới đối với giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam.
Cụ thể, FFR giải thích được 4% mức độ biến động của VNI, trong khi giá dầu thế giới
đóng góp 11% mức độ biến động của VNI. Sự sụt giảm mạnh của giá dầu thế giới từ
mức hơn 130 USD/thùng (12/2014) giá dầu giảm mạnh còn chưa tới 30 USD/thùng vào
tháng 12//2015 đã ảnh hưởng mạnh đến giá cổ phiếu của các công ty dầu khí niêm yết
trên hai SGDCK, từ đó tác động mạnh đến giá cổ phiếu toàn thị trường.
Trong bảng 4.9 thể hiện giai đoạn 2008 – 2016 biến động của lạm phát giải thích được
tới xấp xỉ 15% biến động của cung tiền và 10% biến động của lãi suất liên ngân hàng.
92
Từ đó cho thấy việc điều hành CSTT trong thời gian gần đây đã tập trung mạnh vào mục
tiêu kiểm soát lạm phát, đúng như các cam kết của NHNN.
4.3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
ĐẾN THANH KHOẢN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.3.1 Tổng quan về thanh khoản thị trường chứng khoán Việt Nam
Thanh khoản TTCK Việt Nam được nghiên cứu theo các đặc tính thanh khoản gồm:
tính tức thời, độ rộng, độ sâu và độ đàn hồi. Tương ứng với từng đặc tính có các tiêu
chí đo lường khác nhau. Tính tức thời của thị trường được đo lường qua chỉ tiêu
Zeros. Đây là chỉ tiêu mang ý nghĩa kém thanh khoản, Zeros càng lớn, tính thanh
khoản của thị trường càng thấp.
Độ rộng của thị trường được đo lường qua chỉ tiêu giá trị giao dịch theo tháng (TV)
và tỷ lệ thanh khoản (LR). Đây là hai chỉ tiêu mang ý nghĩa thanh khoản, giá trị của
TV và LR càng lớn, thanh khoản của thị trường càng tốt. Độ sâu của thị trường được
biểu hiện qua tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu (Turnover) và chỉ số thanh khoản Martin
(MLI). Trong đó Turnover là chỉ tiêu thể hiện tính thanh khoản còn MLI là chỉ tiêu
thể hiện tính thiếu thanh khoản, MLI càng lớn, thanh khoản càng giảm. Độ đàn hồi
của thị trường được đo lường qua chỉ tiêu Ailliq, đây cũng là một chỉ tiêu biểu hiện
tính kém thanh khoản.
Từ hình 4.9 cho thấy các chỉ tiêu thể hiện tính thanh khoản là giá trị giao dịch, tỷ lệ thanh
khoản và tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu ngày càng gia tăng mạnh, cao nhất là giai đoạn 2009
đến 2010. Tổng giá trị giao dịch tăng mạnh từ tháng 04/2009 với mức 17.631 tỷ đồng và
đạt mức cao nhất trong toàn thời kỳ là 86.300 tỷ đồng vào tháng 10/2009. Tỷ lệ thanh
khoản có xu hướng ngày càng tăng, nhất là từ năm 2012 đến 2016, cho thấy thanh khoản
TTCK Việt Nam ngày càng được cải thiện về độ rộng và độ sâu.
93
TV
Zeros
Tỷ đồng 100,000
% 25
20
80,000
15
60,000
10
40,000
5
20,000
0
0
1 M 2 0 0 2
9 M 5 0 0 2
8 M 6 0 0 2
7 M 7 0 0 2
6 M 8 0 0 2
5 M 9 0 0 2
4 M 0 1 0 2
3 M 1 1 0 2
2 M 2 1 0 2
1 M 3 1 0 2
9 M 6 1 0 2
2 1 M 2 0 0 2
1 1 M 3 0 0 2
0 1 M 4 0 0 2
2 1 M 3 1 0 2
1 1 M 4 1 0 2
0 1 M 5 1 0 2
1 M 2 0 0 2
1 M 3 0 0 2
1 M 4 0 0 2
1 M 5 0 0 2
1 M 6 0 0 2
1 M 7 0 0 2
1 M 8 0 0 2
1 M 9 0 0 2
1 M 0 1 0 2
1 M 1 1 0 2
1 M 2 1 0 2
1 M 3 1 0 2
1 M 4 1 0 2
1 M 5 1 0 2
1 M 6 1 0 2
MLI
LR
0.0040
1,000
800
0.0030
600
0.0020
400
200
0.0010
0
0.0000
1 M 2 0 0 2
1 M 3 0 0 2
1 M 4 0 0 2
1 M 5 0 0 2
1 M 6 0 0 2
1 M 7 0 0 2
1 M 8 0 0 2
1 M 9 0 0 2
1 M 0 1 0 2
1 M 1 1 0 2
1 M 2 1 0 2
1 M 3 1 0 2
1 M 4 1 0 2
1 M 5 1 0 2
1 M 6 1 0 2
… M 0 1 0 2
… M 1 1 0 2
… M 2 1 0 2
2 M 2 0 0 2
3 M 3 0 0 2
4 M 4 0 0 2
5 M 5 0 0 2
6 M 6 0 0 2
7 M 7 0 0 2
8 M 8 0 0 2
9 M 9 0 0 2
1 M 4 1 0 2
2 M 5 1 0 2
3 M 6 1 0 2
Turnover
Ailliq
15
20
15
10
10
5
5
0
0
1 M 2 0 0 2
9 M 5 0 0 2
8 M 6 0 0 2
7 M 7 0 0 2
6 M 8 0 0 2
5 M 9 0 0 2
4 M 0 1 0 2
3 M 1 1 0 2
2 M 2 1 0 2
1 M 3 1 0 2
9 M 6 1 0 2
2 M 2 0 0 2
1 M 3 0 0 2
9 M 6 0 0 2
8 M 7 0 0 2
7 M 8 0 0 2
6 M 9 0 0 2
5 M 0 1 0 2
4 M 1 1 0 2
3 M 2 1 0 2
2 M 3 1 0 2
1 M 4 1 0 2
2 1 M 2 0 0 2
1 1 M 3 0 0 2
0 1 M 4 0 0 2
2 1 M 3 1 0 2
1 1 M 4 1 0 2
0 1 M 5 1 0 2
2 1 M 3 0 0 2
1 1 M 4 0 0 2
0 1 M 5 0 0 2
2 1 M 4 1 0 2
1 1 M 5 1 0 2
0 1 M 6 1 0 2
Hình 4.9. Diễn biến thanh khoản TTCK Việt Nam
Nguồn: Tính toán của tác giả
Các chỉ tiêu thể hiện cho tính thiếu thanh khoản gồm: chỉ số thanh khoản (MLI), tỷ
lệ ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0 (Zeros) và Ailliq đều diễn biến theo chiều
ngược lại. Các chỉ số này đạt giá trị cao ở giai đoạn trước năm 2007 và giảm dần ở
các năm sau đó. Riêng chỉ số Ailliq cho thấy thị trường thiếu thanh khoản mạnh vào
giai đoạn xảy ra khủng hoảng tài chính năm 2008. Nguyên nhân là do vào giai đoạn
94
này lượng cổ phiếu giao dịch bị sụt giảm mạnh từ mức hơn 3 triệu cổ phiếu/ngày
xuống còn 1 triệu cổ phiếu/ngày. Trong khi đó, VNI lại biến động tăng giảm mạnh,
gần hết biên độ +/-5%. Từ năm 2009 đến 2016, khi lượng cổ phiếu được giao dịch
tăng lên liên tục với mức độ biến động của VNI cũng không cao như trước nên Ailliq
không còn biến động mạnh.
4.3.2 Thống kê mô tả các biến số trong mô hình VAR
Trung vị
Tối đa
Tối thiểu
Độ lệch chuẩn
Độ nghiêng
Độ nhọn
Trung bình
Số quan sát
180
1,47
5,31
12,23
IP_SA
10,79
39,74
0,11
7,55
180
1,57
5,27
8,03
CPI_SA
6,80
29,62
0,00
6,28
180
0,77
3,35
25,12
M2_SA
23,63
51,18
10,37
8,38
180
1,08
4,13
6,73
IR
6,51
18,65
0,54
3,51
180
0,81
5,40
0,94
SR
-0,11
41,55
-26,11
9,84
180
1,34
4,42
4,49
ZEROS
4,45
22,22
0,00
5,38
180
1,74
7,56
3,21
TURNOVER
2,74
13,37
0,11
2,03
180
0,85
2,85
TV
1.90E+13 1.48E+13 8.28E+13 2.18E+10 1.89E+13
180
MLI
3.93E+05 5.11E+04 9.40E+06 1.09E+03 8.80E+05
6,58 63,30
180
1,14
3,33
LR
1.96E+11 1.29E+11 9.09E+11 1.06E+09 2.23E+11
180
2,18
7,43
AILLIQ
2,42
0,98
16,40
0,11
3,35
Bảng 4.11 Thống kê mô tả các biến số trong mô hình VAR
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Từ bảng 4.11 cho thấy tỷ suất sinh lời (SR) trên TTCK đạt giát trị tối thiểu là -26,11%
và tối đa là 41,55% trong thời gian nghiên cứu. Các biến số phản ánh tính thanh khoản
TTCK gồm Turnover, TV và LR và các biến số phản ánh tính thiếu thanh khoản gồm
Zeros, MLI và Ailliq được tính toán theo các công thức ở chương 3. Toàn bộ dữ liệu
thu thập được đều có phân phối chuẩn với tổng số quan sát là 180, phù hợp sử dụng
cho mô hìnhVAR trong phân tích chuỗi dữ liệu thời gian.
4.3.3 Tính dừng, sai phân của dữ liệu và độ trễ của mô hình
Hai phương pháp kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu thời gian phổ biến là
Augmented Dickey-Fuller (ADF) và Phillips-Perron (PP). Nếu dữ liệu chưa dừng sẽ
95
sử dụng phương pháp lấy sai phân để biến đổi chuỗi thành dừng và biến số sai phân sẽ
được sử dụng trong mô hình hồi quy.
Chuỗi sai phân bậc I
Chuỗi gốc
Kết quả
Biến số
Kiểm định ADF
Kiểm định PP
Kiểm định ADF
Kiểm định PP
I(0)
Zeros
-4,9717***
-11,3724***
I(0)
LR
-14,0837***
-23,9088***
I(0)
TV
-10,2733***
-11,7968***
I(0)
MLI
-13,3127***
-25,5438***
I(0)
Turnover
-6,1684***
-4,9772***
I(0)
-13,7046***
-14,0208***
Ailliq
I(0)
SR
-9,8265***
-9,8256***
I(1)
IR
-2,0751
-2,5923*
-11,7516***
-11,9321***
I(1)
M2
-1,2655
-2,6524*
-7,6133*** -10,7506***
I(0)
IPI
-3,4358**
-10,9083***
I(0)
CPI
-2,6178*
-2,6421*
Bảng 4.12 Kết quả kiểm định ADF và PP các chuỗi dữ liệu mô hình VAR
(Ghi chú: ***, *** lần lượt cho biết mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%)
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Từ kết quả ở bảng 4.12 cho thấy phần lớn các chuỗi đều dừng ở bậc gốc, trừ các biến
cung tiền và lãi suất liên ngân hàng. Vì vậy, để đảm bảo các chuỗi dữ liệu đều dừng, việc
lấy sai phân bậc I cho các chuỗi này được thực hiện và kết quả cho thấy chuỗi các chuỗi
không dừng ở bậc gốc đều dừng ở sai phân bậc I với mức ý nghĩa 1%. Độ trễ tối ưu đối
của các mô hình VAR được lựa chọn theo tiêu chuẩn AIC và FPE, cụ thể như sau:
Mô hình
Biến số
Độ trễ tối ưu được lựa chọn
VAR01
IPI, CPI, M2, IR, SR, ZEROS
2
VAR02
IPI, CPI, M2, IR, SR, LR
2
VAR03
IPI, CPI, M2, IR, SR, TV
2
Bảng 4.13 Độ trễ tối ưu của các mô hình VAR
VAR04
IPI, CPI, M2, IR, SR, MLI
2
VAR05
IPI, CPI, M2, IR, SR, TURNOVER
2
VAR06
IPI, CPI, M2, IR, SR, AILLIQ
3
96
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm Eviews 8.0
Các kiểm định cho mô hình VAR gồm kiểm định tính ổn định tổng quát của mô hình
bằng nghiệm nghịch đảo của đa thức đặc tính AR, kiểm định tương quan chuỗi của
phần dư được thực hiện. Kết quả cho thấy tất cả các nghiệm của đa thức đều nằm
trong vòng tròn đơn vị, chứng tỏ các mô hình VAR được ước lượng có tính ổn định.
Đồng thời, kết quả cho thấy không có tồn tại tương quan chuỗi của phần dư trong mô
hình (phụ lục C1 đến C5).
4.3.4 Kết quả ước lượng tác động của chính sách tiền tệ đến từng đặc tính thanh
khoản của thị trường chứng khoán Việt Nam
4.3.4.1 Tác động của chính sách tiền tệ đến tính tức thời của thị trường
Tính thức thời biểu hiện khả năng thanh khoản của TTCK qua các chỉ tiêu như: thời
gian thực hiện giao dịch, số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường, số lượng công ty
niêm yết, số ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0.
Từ thời điểm mới chính thức đi vào hoạt động, trên TTGDCK TP.HCM mỗi tuần chỉ
tổ chức 3 phiên giao dịch với thời gian thanh toán là T+3. Cho đến cuối năm 2015,
tần suất giao dịch đã được tăng lên 5 ngày một tuần, một ngày 2 phiên giao dịch (sáng,
chiều), thời gian thanh toán được rút ngắn lại còn T+2. Như vậy, việc rút ngắn thời
gian thanh toán, tăng thời lượng giao dịch đã thúc đẩy quy mô giao dịch của TTCK
gia tăng đáng kể.
Thêm vào đó, số lượng công ty niêm yết và số tài khoản nhà đầu tư giao dịch chứng
khoán cũng tăng lên nhanh chóng. Hình 4.10 cho thấy, lượng cung và cầu cổ phiếu
trên thị trường tăng lên tương ứng với nhau. Ở giai đoạn 5 năm đầu của thị trường,
với số lượng công ty niêm yết ít ỏi nên khối lượng cổ phiếu niêm yết chỉ có 340
97
triệu cổ phiếu (cuối năm 2005), lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư cũng chỉ
xấp xỉ 30.000 tài khoản.
1,800,000
60,000
1,600,000
50,000
1,400,000
1,200,000
40,000
1,000,000
30,000
800,000
600,000
20,000
400,000
10,000
200,000
0
0
200220032004200520062007200820092010201120122013201420152016
Số lượng TK nhà đầu tư
Khối lượng cổ phiếu niêm yết (triệu cp)
Hình 4.10. Khối lượng cổ phiếu niêm yết và tài khoản nhà đầu tư từ 2002 - 2016
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ báo cáo thường niên của HSX và HNX
Thanh khoản thị trường bắt đầu được cải thiện đáng kể từ năm 2006 với số lượng tài
khoản giao dịch tăng mạnh lên đến 110.652 và lượng cổ phiếu niêm yết đạt mức 2.526
triệu cổ phiếu, giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt hơn 400 tỷ đồng năm 2006.
Cho đến cuối năm 2016, lượng cổ phiếu niêm yết đã tăng lên đến 49.611 triệu cổ
phiếu với gần 1,7 triệu tài khoản và giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt xấp xỉ
3.000 tỷ đồng. Số liệu đã cho thấy sự phát triển nhanh chóng của thị trường cũng như
đặc tính tức thời của thanh khoản được tăng lên đáng kể.
Để thấy được tác động của các yếu tố CSTT đến tính tức thời của thanh khoản, mô
hình VAR01 được ước lượng với ba nhóm biến gồm: biến Zeros (đại diện cho tính
tức thời của thanh khoản thị trường), biến lãi suất liên ngân hàng (IR), biến cung tiền
(M2) là nhóm biến đại diện cho CSTT, biến tỷ suất sinh lời cổ phiếu (SR), biến sản
lượng (IPI) và biến lạm phát (CPI) là nhóm biến kiểm soát.
98
Các kiểm định về lựa chọn độ trễ tối ưu, kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo và
kiểm định tương quan chuỗi của phần dư được trình bày ở phụ lục C1. Tất cả các kết
quả đều cho thấy mô hình VAR được ước lượng là ổn định và đáng tin cậy.
Hình 4.11. Phản ứng tích lũy của Zeros
15
10.0
7.5
10
5.0
2.5
5
0.0
0
-2.5
-5.0
-5
-7.5
-10
-10.0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(a) Do sốc IR (b) Do sốc M2
15
10.0
15
7.5
10
10
5.0
2.5
5
5
0.0
0
0
-2.5
-5.0
-5
-5
-7.5
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
(c) Do sốc IPI (d) Do sốc CPI (e) Do sốc SR
24 -10.0
24 -10
24
-10
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Hình 4.11 cho thấy phản ứng của biến Zeros trước cú sốc xảy ra của các biến số trong
mô hình VAR01. Tỷ lệ ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0 gần như không có
phản ứng với cú sốc xảy ra của lãi suất liên ngân hàng (hình 4.11a). Trong khi đó, khi
có cú sốc dương của cung tiền, Zeros tăng nhẹ ngay từ tháng thứ nhất nhưng sau đó
giảm dần và đạt mức cân bằng mới là giảm 2,2% sau 12 tháng (hình 4.11b). Điều đó
cho thấy khi có sự tăng lên của lượng tiền cung ứng đã có tác động làm giảm tính
thiếu thanh khoản của thị trường với độ trễ sau 6 tháng. Nghĩa là việc mở rộng CSTT
99
có tác động làm giảm số ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0, qua đó làm tăng
thanh khoản của TTCK.
Ngoài ra, zeros còn có phản ứng khá mạnh đối với cú sốc dương của sản lượng. Cụ
thể, khi sản lượng tăng một độ lệch chuẩn, Zeros tăng ngay từ tháng thứ hai sau cú
sốc và đạt mức cân bằng mới là tăng 3,5% sau 12 tháng (hình 4.11c).
Bên cạnh đó, một cú sốc dương của chỉ số giá hàng tiêu dùng cũng có tác động đến
tỷ lệ ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0 với mức giảm 0,7% sau 6 tháng và
đạt mức cân bằng mới là giảm 1,5% sau 12 tháng (hình 4.11d). Điều này có thể
được giải thích như sau: khi lạm phát tăng sẽ làm tăng kỳ vọng đối với lãi suất thị
trường và tỷ suất sinh lời kỳ vọng khi đầu tư cổ phiếu. Từ đó dẫn đến việc giao dịch
trên thị trường sôi động hơn, giá cổ phiếu biến động mạnh và làm giảm số ngày giao
dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0.
Từ hình 4.11 còn cho thấy, khi có cú sốc tăng của tỷ suất sinh lời cổ phiếu làm Zeros
có phản ứng giảm ngay lập tức và đạt mức cân bằng mới là giảm 2,2% sau 12 tháng.
Điều này đúng với lý thuyết và diễn biến thực tế trên TTCK, khi giá cổ phiếu biến
động tăng sẽ kích thích các nhà đầu tư tham gia giao dịch, từ đó tác động làm tăng
tính thanh khoản cho TTCK.
Hình 4.12. Phản ứng của các biến số CSTT do sốc Zeros
1.5
20
15
1.0
10
0.5
5
0.0
0
-5
-0.5
-10
-1.0
-15
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
18
14
10
22
20
12
16
4
8
6
2
(a) Phản ứng của M2 do sốc Zeros (b) Phản ứng của IR do sốc Zeros
24
24 -1.5 Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
-20
100
Hình 4.12a cho thấy phản ứng của cung tiền M2 khi có cú sốc xảy ra của Zeros, cụ
thể M2 bắt đầu tăng sau 3 tháng khi có cú sốc tăng của Zeros và đạt mức tăng 3% sau
12 tháng. Trong khi đó, IR cũng có phản ứng cùng chiều đối với cú sốc ngày giao
dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0. Lãi suất liên ngân hàng bắt đầu tăng từ tháng thứ 2 và
đạt mức tăng 0,1% sau 9 tháng (hình 4.12b). Như vậy, có thể thấy các biến số CSTT
mặc dù có phản ứng trước cú sốc của Zeros nhưng mức độ phản ứng là không lớn.
Phân rã phương sai ở bảng 4.14 cũng thể hiện điều này.
Phân rã phương sai của M2
Kỳ
IPI 2,203
CPI 0,064
M2 97,733
IR 0,000
SR 0,000
ZEROS 0,000
1
2,322
5,758
90,900
0,409
0,013
0,599
3
4,212
15,039
78,301
1,401
0,408
0,640
6
6,472
21,533
68,897
1,849
0,770
0,480
12
7,541
21,251
68,126
1,856
0,781
0,445
24
Phân rã phương sai của IR
1,828
0,011
0,126
98,034
0,000
0,000
1
2,052
3,898
0,206
87,911
5,120
0,813
3
2,038
4,260
1,580
86,151
5,098
0,873
6
2,162
8,678
3,935
79,534
4,813
0,877
12
2,274
4,243
77,907
4,760
0,869
24
Period 1 3 6 12 24
IPI 0,906 4,380 5,523 5,713 5,696
9,947 Phân rã phương sai của ZEROS CPI 1,019 0,925 0,926 0,958 1,066
D(IR) 0,000 0,527 0,521 0,527 0,525
M2 1,134 1,263 1,589 1,763 2,145
SR 0,461 2,059 2,437 2,512 2,500
ZEROS 96,479 90,846 89,005 88,528 88,069
Bảng 4.14 Phân rã phương sai các biến số mô hình VAR01
Nguồn: trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Kết quả phân rã phương sai từ bảng 4.12 cho thấy cung tiền và lãi suất liên ngân hàng
không giải thích được nhiều sự biến động của Zeros. Cụ thể, ngay từ kỳ đầu tiên cung
tiền chỉ giải thích được 1% thay đổi của tỷ suất sinh lời bằng 0 nhưng tỷ lệ này bắt
đầu tăng nhẹ và đạt mức cao nhất vào kỳ thứ 9 là 1,37%. Ngược lại, những biến động
101
của ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0 cũng không ảnh hưởng đáng kể đến thay
đổi cung tiền và lãi suất liên ngân hàng. Trong khi đó mục tiêu cuối cùng của CSTT
là lạm phát và tăng trưởng kinh tế lần lượt giải thích được 3,4% và 0,8% biến động
của tỷ lệ ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0.
Từ kết quả ước lượng của mô hình VAR01 cho thấy, tính tức thời của thanh khoản
TTCK Việt Nam (đại diện là chỉ tiêu tỷ lệ ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0)
có chịu tác động từ những thay đổi của các yếu tố CSTT như lãi suất liên ngân hàng
và cung tiền, tuy nhiên mức tác động không lớn. Khi NHNN nới lỏng tiền tệ đã làm
giảm tỷ lệ số ngày giao dịch có tỷ suất sinh lời bằng 0 hay nói cách khác là tác động
làm tăng thanh khoản của TTCK. Tuy nhiên, để đánh giá được các tác động của CSTT
đến thanh khoản TTCK là tích cực hay tiêu cực, cần tiếp tục ước lượng các mô hình
với thước đo thanh khoản khác nhau.
4.3.4.2 Tác động của chính sách tiền tệ đến độ rộng của thị trường
Để đo lường độ rộng của TTCK Việt Nam, theo Lybek và Sarr (2002) hai chỉ tiêu
được sử dụng là giá trị cổ phiếu được giao dịch bình quân theo tháng (TV) và tỷ lệ
thanh khoản (LR).
Hình 4.13 cho thấy tương quan giữa giá trị giao dịch cổ phiếu theo tháng và tốc độ tăng
cung tiền theo tháng trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2016. Trong 5 năm đầu mới đi
vào hoạt động, với tổng giá trị giao dịch hàng tháng chỉ đạt vài trăm tỷ đồng, quá nhỏ
so với tổng mức cung tiền hàng tháng tới hàng trăm nghìn tỷ. Vì vậy, trong giai đoạn
này thanh khoản của TTCK không chịu tác động nhiều từ những biến động của M2.
102
60.00
90,000.000
80,000.000
50.00
70,000.000
60,000.000
40.00
50,000.000
30.00
40,000.000
30,000.000
20.00
20,000.000
10.00
10,000.000
‐
0.00
1 M 2 0 0 2
7 M 2 0 0 2
1 M 3 0 0 2
7 M 3 0 0 2
1 M 4 0 0 2
7 M 4 0 0 2
1 M 5 0 0 2
7 M 5 0 0 2
1 M 6 0 0 2
7 M 6 0 0 2
1 M 7 0 0 2
7 M 7 0 0 2
1 M 8 0 0 2
7 M 8 0 0 2
1 M 9 0 0 2
7 M 9 0 0 2
1 M 0 1 0 2
7 M 0 1 0 2
1 M 1 1 0 2
7 M 1 1 0 2
1 M 2 1 0 2
7 M 2 1 0 2
1 M 3 1 0 2
7 M 3 1 0 2
1 M 4 1 0 2
7 M 4 1 0 2
1 M 5 1 0 2
7 M 5 1 0 2
1 M 6 1 0 2
7 M 6 1 0 2
Tổng giá trị giao dịch trong tháng (tỷ đồng)
Tốc độ tăng M2 (%)
Hình 4.13. Giá trị giao dịch cổ phiếu và cung tiền M2 giai đoạn 2002 - 2016
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Báo cáo thường niên của HSX và dữ liệu của IFS
Tuy nhiên, từ năm 2006 với số lượng công ty niêm yết tăng đột biến dẫn đến số lượng
cổ phiếu được niêm yết gia tăng nhanh chóng. Lượng cổ phiếu và giá trị giao dịch tăng
9 lần từ mức 2.963 tỷ đồng vào tháng 11/2006 lên đến 27.090 tỷ đồng vào tháng
11/2007. Trên hình 4.9 cho thấy đây cũng chính là giai đoạn cung tiền được mở rộng
mạnh mẽ với mức tăng cao nhất là 49,8% vào tháng 07/2007.
Sang năm 2008 do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu và thắt chặt tiền tệ
trong nước làm giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam giảm mạnh, giá trị vốn hóa thị trường
cuối năm 2008 chỉ còn 169.345 tỷ đồng, lượng giao dịch sụt giảm mạnh bằng với năm
2006 (đạt hơn 3.000 tỷ đồng/tháng). Sự hồi phục của thị trường năm 2009 cùng với số
lượng cổ phiếu niêm yết tăng liên tục đã thúc đẩy giá trị giao dịch cổ phiếu tăng mạnh,
lên đến 82.796 tỷ đồng vào tháng 11/2009. Sở dĩ lượng giá trị giao dịch tăng mạnh là
do gói kích thích kinh tế của chính phủ và chính sách nới lỏng tiền tệ của NHNN
nhằm hồi phục từng bước của nền kinh tế trong nước do tác động của khủng hoảng
tài chính 2008 (Báo cáo thường niên HOSE, 2009).
Tăng trưởng tổng mức cung tiền M2 năm 2009 đạt mức xấp xỉ 29%, đặc biệt tăng
trưởng tín dụng của hệ thống NHTM cũng đạt hơn 37,5% (Báo cáo thường niên
103
NHNN, 2009). Tuy nhiên, sang năm 2011 việc giảm mạnh tổng mức cung tiền M2
chỉ còn 9,27% và siết chặt tăng trưởng tín dụng (10,9%) nên đã tác động không nhỏ
đến thanh khoản TTCK. Lượng giá trị giao dịch sụt giảm mạnh chỉ đạt 162.338 tỷ
đồng và chỉ tăng nhẹ các năm sau đó. Điều này cho thấy việc thắt chặt hay mở rộng
tiền tệ có những ảnh hưởng rõ rệt đến giá trị giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Để lượng hóa tác động của các biến CSTT đến độ rộng của TTCK, mô hình VAR02
và VAR03 được ước lượng. với ba nhóm biến gồm: biến giá trị giao dịch cổ phiếu
(TV) và biến tỷ lệ thanh khoản (LR) là các biến đại diện cho độ rộng của thị trường;
biến lãi suất liên ngân hàng (IR), biến cung tiền (M2) là nhóm biến đại diện cho
CSTT, biến tỷ suất sinh lời cổ phiếu (SR), biến sản lượng (IPI) và biến lạm phát (CPI)
là nhóm biến kiểm soát. Các kiểm định về lựa chọn độ trễ tối ưu, kiểm định nghiệm
đa thức nghịch đảo và kiểm định tương quan chuỗi của phần dư được trình bày ở phụ
lục C2 và C3. Tất cả các kết quả đều cho thấy mô hình VAR được ước lượng là ổn
định và đáng tin cậy.
Hình 4.14. Phản ứng tích lũy của giá trị giao dịch đối với cú sốc biến số chính sách
tiền tệ, sản lượng và lạm phát
8
8
6
6
4
4
2
2
0
0
-2
-2
-4
-4
-6
-6
-8
-8
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(a) Sốc M2 (b) Sốc IR
104
8
8
6
6
4
4
2
2
0
0
-2
-2
-4
-4
-6
-6
-8
-8
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(c) Sốc IPI (d) Sốc CPI
12
8
4
0
-4
-8
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
(e) Sốc SR
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Hình 4.14a cho thấy giá trị giao dịch của TTCK Việt Nam phản ứng cùng chiều khi
có cú sốc xảy ra đối với cung tiền sau 3 tháng. TV tiếp tục tăng mạnh sau đó và đạt
mức tăng 2% sau 12 tháng. Tuy nhiên, lãi suất liên ngân hàng lại không tác động đến
giá trị giao dịch trên TTCK (hình 4.14b). Từ kết quả này cho thấy CSTT nới lỏng qua
việc gia tăng cung tiền có tác động làm tăng giá trị giao dịch, qua đó làm gia tăng
thanh khoản cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Kết quả ước lượng mô hình VAR02 còn cho thấy giá trị giao dịch của thị trường phản
ứng cùng chiều với sốc sản lượng công nghiệp ngay từ tháng thứ hai và đạt mức cân
bằng mới tăng 1% sau 12 tháng (hình 4.14c). Ngoài ra, sốc lạm phát lại gây ra phản
ứng ngược chiều của giá trị giao dịch sau một quý và đạt mức cân bằng mới giảm
2,4% sau 12 tháng (hình 4.14d). Từ đó cho thấy, sự tăng lên của chỉ số giá hàng tiêu
105
dùng làm gia tăng lo ngại về tăng lạm phát trong nền kinh tế, từ đó tác động làm giảm
giá trị giao dịch trên TTCK, qua đó làm giảm thanh khoản của thị trường.
Hình 4.14e cho thấy phản ứng mạnh mẽ của giá trị giao dịch đối với cú sốc tỷ suất
sinh lời của TTCK. TV tăng ngay từ tháng đầu tiên khi có cú sốc xảy ra đối với tỷ
suất sinh lời và tiếp tục tăng mạnh sau đó, đạt mức 5% sau 24 tháng. Điều đó cho
thấy khi tỷ suất sinh lời trên TTCK gia tăng sẽ kích thích các nhà đầu tư tiếp tục gia
tăng giao dịch, quy mô đầu tư.
Phân rã phương sai của M2
Kỳ 1 3 6 12 24
IPI 5,729 1,453 0,922 1,295 1,392
CPI 0,075 3,752 9,159 12,072 13,122
SR 0,000 0,042 0,019 0,024 1,135
LOGTV 0,000 0,832 1,127 2,001 3,785
1 3 6 12 24
1,024 0,960 1,175 1,133 1,160
D(IR) M2 0,000 94,196 0,500 93,421 1,739 87,034 4,001 80,607 4,235 76,330 Phân rã phương sai của IR 0,484 0,612 1,862 5,128 6,013
98,491 87,098 85,013 78,689 76,931
0,001 4,275 4,321 7,808 8,772
0,000 6,584 6,534 6,206 6,102
0,000 0,471 1,095 1,035 1,022
Phân rã phương sai của TV
1
1,710
0,432
2,012
0,019
30,959
64,869
3
2,180
5,054
4,625
0,117
46,138
41,887
6
2,075
11,195
8,542
0,869
38,380
38,938
12
2,335
15,264
12,209
0,493
34,295
35,404
24
2,710
14,160
13,517
0,428
33,614
35,572
Bảng 4.15 Phân rã phương sai các biến số mô hình VAR02
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Phân rã phương sai của giá trị giao dịch trong bảng 4.15 cho thấy, các biến trong mô
hình VAR02 giải thích được ngay lập tức sự biến động của giá trị giao dịch. Trong
đó, cung tiền giải thích được sự biến động của TV ngay từ kỳ đầu tiên và tăng mạnh
sau 12 tháng, đạt tới 11,5% vào tháng 13 và tiếp tục duy trì ổn định sau đó. Chỉ số
106
sản xuất công nghiệp chỉ giải thích được xấp xỉ 2% độ biến động của giá trị giao dịch
và duy trì ổn định từ kỳ thứ 3. Trong khi đó, lạm phát có tác động mạnh đến giá trị
giao dịch từ sau 3 kỳ và đạt mức cao nhất sau 12 kỳ với mức giải thích lên tới 15,5%.
Từ bảng 4.12 còn cho thấy giá trị giao dịch chịu tác động mạnh nhất từ TSSL trên
TTCK. Ngay từ kỳ đầu tiên, TSSL giải thích được tới 31,5% mức độ biến động của
TV và tiếp tục tăng mạnh sau đó, đạt mức cao nhất chiếm gần 40% sau 6 kỳ.
Mô hình VAR03 được ước lượng với biến đại diện cho độ rộng của thị trường là tỷ lệ
thanh khoản (LR). Đây là chỉ tiêu cho biết mức độ biến động của khối lượng giao dịch
ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường, LR càng cao cho thấy thanh khoản của thị
trường càng tốt.
Hình 4.15. Phản ứng của tỷ lệ thanh khoản đối với cú sốc biến số chính sách tiền tệ
8
8
6
6
4
4
2
2
0
0
-2
-2
-4
-4
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(a) Sốc M2 (b) Sốc IR
Nguồn: trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Hình 4.15 cho thấy tỷ lệ thanh khoản phản ứng tăng ngay với cú sốc xảy ra của cung
tiền từ tháng đầu tiên và tiếp tục tăng mạnh sau đó, đạt mức tăng 2% sau 20 tháng
(hình 4.15a). Bên cạnh đó, LR cũng có phản ứng đối với cú sốc của với lãi suất liên
ngân hàng nhưng chậm hơn và theo chiều ngược lại. LR bắt đầu giảm sau 3 tháng và
tiếp tục giảm sau đó, đạt mức giảm 1% sau 20 tháng (hình 4.15b). Từ đó, cho thấy
việc nới lỏng CSTT bằng cách gia tăng cung tiền và giảm lãi suất liên ngân hàng có
tác động làm tăng tỷ lệ thanh khoản cho TTCK.
107
Phân rã phương sai của M2
Kỳ
IPI
CPI
M2
IR
SR
LR
1
6,260
0,070
93,669
0,000
0,000
0,000
3
1,653
3,356
94,208
0,534
0,166
0,083
6
0,810
9,028
88,475
1,381
0,092
0,214
12
1,102
12,641
82,226
2,802
0,071
1,158
24
1,824
13,247
77,477
2,929
0,493
4,031
Phân rã phương sai của IR
1
0,589
0,000
0,914
98,497
0,000
0,000
3
0,597
4,035
1,227
87,163
5,877
1,101
6
0,737
4,134
2,494
85,505
5,864
1,267
12
0,715
7,605
5,845
79,119
5,536
1,180
24
0,748
8,582
6,868
77,176
5,418
1,209
Phân rã phương sai của LR
1
1,720
0,010
3,332
0,002
8,501
86,435
3
3,565
2,327
4,589
2,563
17,121
69,835
6
4,914
4,368
6,557
2,514
12,727
68,920
12
6,260
5,376
7,586
3,068
11,734
65,975
24
7,465
3,864
7,661
2,782
11,052
67,177
Bảng 4.16 Phân rã phương sai các biến số mô hình VAR03
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Phân rã phương sai của tỷ lệ thanh khoản trong bảng 4.16 cho thấy tỷ lệ thanh khoản
chịu tác động của các biến số trong mô hình ngay từ tháng thứ nhất và nhanh chóng tăng
lên sau đó. Tác động mạnh nhất đến biến động của LR là TSSL của TTCK, giải thích
được ngay lập tức 8,2% mức độ biến động của LR và tiếp tục tăng lên sau đó và đạt mức
cao nhất là 15,7% sau 3 tháng. Sốc IPI giải thích được 2,0% biến động của tỷ lệ thanh
khoản ngay từ tháng thứ nhất và tiếp tục tăng lên đạt mức xấp xỉ 10% sau 24 kỳ.
Chỉ số giá hàng tiêu dùng đóng góp 0,5% biến động của LR ngay từ tháng đầu tiên
và tiếp tục tăng lên đạt mức cao nhất là 12,5% sau 12 tháng. Cung tiền và lãi suất liên
ngân hàng giải thích được hơn 10% mức độ biến động của LR sau 12 tháng. Ngoài
108
ra, những thay đổi của tỷ lệ thanh khoảng cũng giải thích được hơn 1% biến động của
các biến số CSTT gồm cung tiền và lãi suất liên ngân hàng sau 12 tháng.
4.3.4.3 Tác động của chính sách tiền tệ đến độ sâu của thị trường
Chỉ tiêu phổ biến được dùng để đo lường độ sâu của thị trường là tỷ lệ luân chuyển
cổ phiếu. Tỷ lệ này càng cao cho thấy độ sâu của thị trường càng lớn, lượng cổ phiếu
niêm yết được trao đổi càng nhiều. Hình 4.16 cho thấy tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu của
TTCK Việt Nam.
16.0
14.0
12.0
10.0
8.0
6.0
4.0
2.0
0.0
2 0 0 2 / 1 / 2
2 0 0 2 / 7 / 1
3 0 0 2 / 1 / 4
3 0 0 2 / 7 / 1
4 0 0 2 / 1 / 5
4 0 0 2 / 7 / 1
5 0 0 2 / 1 / 4
5 0 0 2 / 7 / 1
6 0 0 2 / 1 / 3
6 0 0 2 / 7 / 3
7 0 0 2 / 1 / 2
7 0 0 2 / 7 / 2
8 0 0 2 / 1 / 2
8 0 0 2 / 7 / 1
9 0 0 2 / 1 / 2
9 0 0 2 / 7 / 1
0 1 0 2 / 1 / 4
0 1 0 2 / 7 / 1
1 1 0 2 / 1 / 4
1 1 0 2 / 7 / 1
2 1 0 2 / 1 / 3
2 1 0 2 / 7 / 2
3 1 0 2 / 1 / 2
3 1 0 2 / 7 / 1
4 1 0 2 / 1 / 2
4 1 0 2 / 7 / 1
5 1 0 2 / 1 / 5
5 1 0 2 / 7 / 1
6 1 0 2 / 2 / 1
6 1 0 2 / 9 / 1
6 1 0 2 / 2 1 / 0 3
Hình 4.16. Tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu TTCK Việt Nam giai đoạn 2002 - 2016
Nguồn: Tính toán của tác giả
Tuy nhiên, việc đo lường độ sâu thị trường qua tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu chỉ cho
biết mức độ thường xuyên của các giao dịch nhưng lại không phản ánh được chi phí
giao dịch. Vì vậy, chỉ số thanh khoản thị trường (MLI) của Martin (1975) được sử
dụng nhằm phản ánh mức tác động của giá đến lượng cổ phiếu được giao dịch. Đây là
một trong các chỉ tiêu đo lường độ sâu của thị trường cổ phiếu, mức độ ảnh hưởng của
giá đến lượng cổ phiếu giao dịch càng nhỏ thì thanh khoản của thị trường càng cao.
Từ hình 4.17 cho thấy MLI biến động mạnh vào giai đoạn từ 2002 -2006, cho thấy
tính thiếu thanh khoản của thị trường rất lớn trong giai đoạn đầu. Đặc biệt, MLI năm
2008 tăng cao là do vào giai đoạn này lượng cổ phiếu giao dịch bị sụt giảm mạnh từ
109
mức hơn 3 triệu cổ phiếu/ngày xuống còn 1 triệu cổ phiếu/ngày, trong khi đó VNI
trong tháng biến động tăng giảm mạnh, gần hết biên độ +/-5%.
Từ năm 2009 đến 2016, khi lượng cổ phiếu được giao dịch tăng lên liên tục với mức
độ biến động của VNI cũng không cao như trước nên MLI không còn biến động
mạnh. Như vậy, qua chỉ số MLI cho thấy một khía cạnh khác của thanh khoản trên
TTCK Việt Nam. Độ sâu của thị trường ngày càng được cải thiện và biến động giá
ngày càng có ảnh hưởng ít đến lượng cổ phiếu được giao dịch.
0.0040
0.0035
0.0030
0.0025
0.0020
0.0015
0.0010
0.0005
0.0000
2 0 0 2 / 3 / 4
2 0 0 2 / 9 / 1
3 0 0 2 / 3 / 1
3 0 0 2 / 9 / 1
4 0 0 2 / 3 / 1
4 0 0 2 / 9 / 1
5 0 0 2 / 3 / 1
5 0 0 2 / 9 / 1
6 0 0 2 / 3 / 1
6 0 0 2 / 9 / 1
7 0 0 2 / 3 / 1
7 0 0 2 / 9 / 4
8 0 0 2 / 3 / 3
8 0 0 2 / 9 / 3
9 0 0 2 / 3 / 2
9 0 0 2 / 9 / 1
0 1 0 2 / 3 / 1
0 1 0 2 / 9 / 1
1 1 0 2 / 3 / 1
1 1 0 2 / 9 / 1
2 1 0 2 / 3 / 1
2 1 0 2 / 9 / 4
3 1 0 2 / 3 / 1
3 1 0 2 / 9 / 3
4 1 0 2 / 3 / 3
4 1 0 2 / 9 / 3
5 1 0 2 / 3 / 4
5 1 0 2 / 9 / 1
6 1 0 2 / 3 / 1
6 1 0 2 / 9 / 1
Hình 4.17. Chỉ số MLI của TTCK Việt Nam giai đoạn 2002 -2016
Nguồn: Tính toán của tác giả
Để đánh giá tác động của CSTT đến độ sâu của TTCK Việt Nam, mô hình VAR04
và VAR05 được ước lượng với ba nhóm biến gồm: biến tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu
(turnover) và biến chỉ số thanh khoản thị trường (MLI) là các biến đại diện cho độ
sâu của thị trường; biến lãi suất liên ngân hàng (IR), biến cung tiền (M2) là nhóm
biến đại diện cho CSTT, biến tỷ suất sinh lời của TTCK (SR), biến sản lượng (IPI)
và biến lạm phát (CPI) là nhóm biến kiểm soát.
Các kiểm định về lựa chọn độ trễ tối ưu, kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo và kiểm
định tương quan chuỗi của phần dư được trình bày ở phụ lục C4 và C5 Tất cả các kết
quả đều cho thấy các mô hình VAR được ước lượng là ổn định và đáng tin cậy.
110
Hình 4.18 cho thấy tỷ lệ luân chuyển cổ phiếu phản ứng mạnh với cú sốc cung tiền
từ tháng thứ 3 với mức tăng 0,5% và đạt mức cao nhất tăng 2,5% sau 12 tháng (hình
4.18a). Ngược lại, turnover lại gần như không có phản ứng đối với sự thay đổi lãi suất
liên ngân hàng (hình 4.18b). Hình 4.18c cho thấy MLI gần như không có phản ứng
đối với cú sốc cung tiền nhưng lại phản ứng cùng chiều với sốc lãi suất liên ngân
hàng. MLI tăng 0,5% từ tháng thứ 6 khi có cú sốc cung tiền và đạt mức cân bằng mới
là tăng 1,0% sau 18 tháng (Hình 4.18d). Điều đó cho thấy sự tăng lên của lãi suất liên
ngân hàng có tác động làm MLI tăng lên hay chính là tác động làm giảm thanh khoản
của thị trường.
Hình 4.18. Phản ứng của Turnover và MLI đối với cú sốc chính sách tiền tệ
6
6
4
4
2
2
0
0
-2
-2
-4
-4
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(a) Phản ứng của Turnover do sốc M2 (b) Phản ứng của Turnover do sốc IR
12
12
8
8
4
4
0
0
-4
-4
-8
-8
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(c) Phản ứng của MLI do sốc M2 (d) Phản ứng của MLI do sốc IR
Nguồn: trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Phân rã phương sai từ bảng 4.17 cho thấy mức độ biến động của tỷ lệ luân chuyển cổ
phiếu được giải thích nhiều nhất bởi biến tỷ suất sinh lời. Ngay từ kỳ đầu tiên SR đã
111
giải thích được 9,6% mức độ biến động của Turnover và tiếp tục tăng mạnh sau đó,
đạt mức cao nhất là 22,3% sau 3 kỳ.
Các biến đại diện CSTT giải thích được hơn 11% mức độ biến động của Turnover và
5% mức độ biến động của MLI sau 12 kỳ. biến chỉ số sản xuất công nghiệp giải thích
được nhiều nhất sự biến động của MLI ở mức 6,3%.
Phân rã phương sai của Turnover
SR
TURNOVER
IPI
CPI
M2
IR
Kỳ
0,638
0,079
0,754
0,016
9,655
1
88,857
1,778
1,037
1,250
0,481
22,393
3
73,060
4,311
1,835
2,940
4,853
21,778
6
64,282
5,162
2,524
5,511
4,750
20,739
9
61,314
5,276
3,196
7,003
4,852
20,159
12
59,514
5,381
3,613
7,355
4,988
19,938
24
58,725
Phân rã phương sai của MLI
IPI
CPI
M2
IR
SR
Kỳ
MLI
2,658
0,000
3,074
0,083
0,148
1
94,037
2,532
1,508
3,493
0,485
1,383
3
90,599
3,130
3,996
4,590
0,599
2,236
6
85,449
3,230
4,127
4,565
0,805
2,288
9
84,984
3,265
4,138
4,656
0,824
2,283
12
84,834
3,285
4,142
4,759
0,878
2,302
24
84,634
Bảng 4.17 Phân rã phương sai của mô hình VAR04 và VAR05
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
4.3.4.4 Tác động của chính sách tiền tệ đến độ đàn hồi của thị trường
Chỉ tiêu phổ biến dùng để đo độ đàn hồi của thị trường là chỉ số thiếu thanh khoản
Ailliq của Amihud (2002). Đây là thước đo đánh giá mức độ tác động của các giao
dịch lên giá. Nếu giá cả nhạy cảm mạnh với giá trị giao dịch nghĩa là thị trường càng
kém thanh khoản và ngược lại. Đây là chỉ tiêu phản ánh tính thiếu thanh khoản của
112
thị trường, Ailliq càng cao thanh khoản của thị trường càng kém.
Để đánh giá tác động của các yếu tố CSTT đến độ đàn hồi của thị trường, mô hình
VAR05 được ước lượng với biến Ailliq là biến đại diện cho độ đàn hồi của thị trường.
Các kiểm định về lựa chọn độ trễ tối ưu, kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo và
kiểm định tương quan chuỗi của phần dư được trình bày ở phụ lục C6. Tất cả các kết
quả đều cho thấy mô hình VAR06 được ước lượng là ổn định và đáng tin cậy.
Hình 4.19. Phản ứng của Ailliq đối với cú sốc các biến chính sách tiền tệ
10.0
10.0
7.5
7.5
5.0
5.0
2.5
2.5
0.0
0.0
-2.5
-2.5
-5.0
-5.0
-7.5
-7.5
-10.0
-10.0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
24
(a) Sốc M2 (b) Sốc IR
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Hình 4.19a cho thấy chỉ số thiếu thanh khoản của Amihud phản ứng ngược chiều với
cú sốc cung tiền từ tháng thứ 4 và đạt mức giảm 3,5% sau 20 tháng. Tuy nhiên, Ailliq
lại không phản ứng với lãi suất liên ngân hàng (hình 4.19b). Kết quả này cho thấy
việc thắt chặt tiền tệ của NHNN bằng cách giảm cung tiền đã tác động làm giảm thanh
khoản của TTCK.
Phân rã phương sai của M2
Kỳ
IPI
CPI
M2
IR
SR
AILLIQ
1
6,162
0,056
93,782
0,000
0,000
0,000
3
1,587
3,616
93,407
0,572
0,159
0,660
6
1,533
9,382
86,373
1,442
0,079
1,191
12
5,080
12,655
76,519
2,952
0,155
2,637
24
8,548
11,947
70,770
2,978
1,204
4,553
Bảng 4.18 Phân rã phương sai các biến số mô hình VAR06
Phân rã phương sai của IR
0,672
0,000
0,820
98,508
0,000
0,000
1
0,701
3,751
1,108
88,613
5,517
0,311
3
0,875
3,878
2,283
87,027
5,556
0,380
6
0,923
7,447
5,473
80,479
5,309
0,369
12
1,233
8,446
6,219
78,503
5,190
0,410
24
Phân rã phương sai của AILLIQ
IPI
CPI
M2
IR
SR
AILLIQ
Kỳ
0,830
0,018
0,141
0,406
6,453
92,151
1
0,815
1,655
0,202
0,484
22,229
74,616
3
6,918
1,730
0,498
0,636
26,939
63,279
6
10,417
2,691
2,622
0,522
29,900
53,848
12
12,009
2,839
3,695
0,455
31,149
49,852
24
113
Nguồn: trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Phân rã phương sai của độ nhạy cảm của giá cổ phiếu từ bảng 4.18 cho thấy cung tiền
giải thích được và lãi suất liên ngân hàng chỉ giải thích được xấp xỉ 4% biến động của
Ailliq sau 12 tháng. Trong khi đó, biến động của độ nhạy cảm giá chịu ảnh hưởng
mạnh nhất của tỷ suất sinh lời trên TTCK, với mức giải thích đến 30%. Bảng 4.18
còn cho thấy, Ailliq giải thích được 2,2% mức độ biến động của cung tiền và 0,4%
mức độ biến động của lãi suất liên ngân hàng sau 12 tháng.
Tóm lại, từ những phân tích lần lượt cho các thước đo thanh khoản (hoặc kém thanh
khoản) đại diện cho các đặc tính thanh khoản của TTCK gồm: tính tức thời, độ rộng,
độ sâu và độ đàn hồi của thị trường, cho thấy:
- Các thước đo thanh khoản (thiếu thanh khoản) đều có phản ứng cùng chiều trước
các cú sốc cung tiền và phản ứng ngược chiều trước các cú sốc của lãi suất liên
ngân hàng. Từ đó cho thấy việc CSTT mở rộng (thắt chặt) của NHNN có tác
động làm gia tăng (sụt giảm) thanh khoản TTCK Việt Nam. Kết quả ước lượng
còn cho thấy phản ứng của các biến số thanh khoản với sốc cung tiền mạnh hơn
nhiều so với sốc lãi suất liên ngân hàng. Đồng thời, phân rã phương sai cho thấy
114
các biến điều hành CSTT giải thích được khoảng 10% biến động của các biến
số thanh khoản (hoặc kém thanh khoản), trong đó M2 giải thích được nhiều hơn
mức độ biến động của các biến thanh khoản so với lãi suất liên ngân hàng.
Nguyên nhân là do từ thực tế điều hành CSTT của NHNN Việt Nam, kế hoạch
tăng trưởng cung tiền thường được công bố vào đầu mỗi năm cho thấy định
hướng nới lỏng (thắt chặt) tiền tệ, trong khi đó NHNN lại không có những cam
kết rõ ràng đối với các lãi suất điều hành, nhất là lãi suất liên ngân hàng.
- Sốc sản lượng công nghiệp có tác động đến các biến số thanh khoản của thị
trường, nhưng lại không có ảnh hưởng rõ ràng đến các biến số thiếu thanh
khoản. Cụ thể là tỷ lệ thanh khoản và giá trị giao dịch tăng lên đáng kể sau cú
sốc dương của sản lượng công nghiệp. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên
của của Trần Thị Hải Lý (2015) trên TTCK Việt Nam, Choi và Cook (2006)
trên TTCK Nhật Bản, Lu-Andrews và Glascock (2010) trên TTCK Mỹ.
- Biến động của lạm phát cũng có những tác động đáng kể đến cả các biến số
thanh khoản và thiếu thanh khoản của thị trường. Trong đó, các biến thanh phản
ứng khá mạnh và ngược chiều với lạm phát. Điều đó cho thấy thanh khoản của
thị trường phản ứng mạnh tỷ lệ nghịch với chỉ số giá hàng tiêu dùng.
Như vậy, kết quả nghiên cứu về tác động của CSTT đến thanh khoản TTCK Việt
Nam phù hợp với các lập luận của lý thuyết ở chương 2 cũng như với nghiên cứu
thực nghiệm ở tại một số quốc gia khác trên thế giới. Theo lý thuyết được trình bày
ở chương 2, việc mở rộng CSTT tác động tăng thanh khoản thị trường cổ phiếu thông
qua làm giảm chi phí giao dịch và chi phí huy động vốn trong ngắn hạn. Còn trong
dài hạn CSTT tác động đến hành vi nhà đầu tư và cấu trúc thị trường, từ đó ảnh hưởng
đến thanh khoản. Bằng chứng thực nghiệm từ các nghiên cứu tại nhiều thị trường trên
thế giới cũng cho thấy điều này.
Kết luận chương 4
Trong chương này đã sử dụng mô hình SVAR nghiên cứu tác động của thay đổi chính
sách tiền tệ đến giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam. Qua phân tích phản ứng đẩy cho
115
thấy giá cổ phiếu có phản ứng ngược chiều với cú sốc xảy ra đối với lãi suất liên ngân
hàng và phản ứng cùng chiều với cú sốc cung tiền. Phân tích phân rã phương sai cho
thấy tác động của điều hành CSTT đến giá cổ phiếu ở giai đoạn 2002 – 2007 không
mạnh bằng ở giai đoạn sau đó là 2008 – 2016.
Trong điều hành CSTT có hiện tượng “price puzzle” thể hiện qua tác động của lãi
suất chính sách đến lạm phát. Việc tăng lãi suất không làm lạm phát giảm mà lại có
tác động ngược lại. Diễn biến của lãi suất thị trường cùng chiều với những thay đổi
trong lãi suất điều hành của NHNN. Việc thay đổi mục tiêu điều hành CSTT trong
từng thời kỳ của NHNN không những tác động lên giá cả, sản lượng mà còn ảnh
hưởng ngày càng rõ rệt hơn đối với giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam. Nhất là trong
giai đoạn từ năm 2008 đến nay, phản ứng của giá cổ phiếu đối với sự thay đổi của chỉ
tiêu lạm phát khá mạnh mẽ.
Ngoài ra, chương 4 đã đánh giá về thanh khoản của TTCK Việt Nam qua các đặc tính
gồm: tính tức thời, độ rộng, độ sâu và độ đàn hồi của thị trường. Đồng thời, mô hình
nghiên cứu của Chordia và ctg (2005) được sử dụng để đánh giá tác động của CSTT
đến thanh khoản TTCK.
Bằng cách ước lượng sáu mô hình VAR với ba nhóm biến đại diện cho thanh khoản
TTCK, biến đại diện cho CSTT và biến kiểm soát. Kết quả phân tích phản ứng đẩy
và phân rã phương sai cho thấy các biến CSTT có tác động đến thanh khoản TTCK
theo như lý thuyết được trình bày ở chương 2 và nghiên cứu thực nghiệm tại một số
quốc gia trên thế giới. Trong đó, tác động của cung tiền (M2) đến các biến số thanh
khoản mạnh hơn và giải thích được sự biến động của thanh khoản nhiều hơn so với
lãi suất liên ngân hàng. Kết quả còn cho thấy sốc chỉ số giá hàng tiêu dùng cũng tác
động ngược chiều đến các thước đo thanh khoản (cùng chiều với thước đo thiếu thanh
khoản) cũng phù hợp với lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm trước đó. Từ các
kết quả trên là cơ sở để đưa ra các gợi ý chính sách được trình bày ở chương tiếp theo.
116
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
5.1 KẾT LUẬN TỪ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
5.1.1 Tác động của chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam
Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: “CSTT có tác động đến giá cổ phiếu trên TTCK
Việt Nam không? Nếu có thì chiều hướng và mức độ tác động của các yếu tố trong
CSTT đến giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam như thế nào?” luận án đã sử dụng mô
hình SVAR với 7 biến bao gồm: IPI, CPI, M2, IR, VNI, OIL và FFR.
Với độ trễ của mô hình nghiên cứu là 2 cho thấy trong giai đoạn nghiên cứu việc mở
rộng (thắt chặt) CSTT có tác động làm tăng (giảm) giá cổ phiếu trên TTCK ngay sau
2 tháng và kéo dài đến 6 tháng sau đó. Trong đó VNI phản ứng cùng chiều với sự
tăng lên của cung tiền và phản ứng ngược chiều với sự tăng lên của lãi suất liên ngân
hàng. Tuy nhiên, phản ứng của VNI đối với sự thay đổi của cung tiền mạnh hơn đối
với sự thay đổi của lãi suất liên ngân hàng. Phân rã phương sai cho thấy giai đoạn từ
tháng 01/2002 đến tháng 12/2007, tác động của CSTT đến giá cổ phiếu trên TTCK
không mạnh mẽ bằng ở giai đoạn sau đó là từ tháng 01/2008 – 12/2016.
Bên cạnh chịu ảnh hưởng từ các biến số chính sách tiền tệ, giá cổ phiếu còn chịu tác
động từ các biến số kinh tế vĩ mô như sản lượng, lạm phát và các biến ngoại sinh.
VNI có phản ứng khá mạnh đối với cú sốc xảy ra của chỉ số giá hàng tiêu dùng, cụ
thể là VNI bắt đầu giảm từ ngay từ tháng đầu tiên khi có cú sốc CPI và đạt mức cân
bằng mới giảm 6% sau 3 quý. Minh chứng cho kết luận này là diễn biến thực tế trên
TTCK Việt Nam ở hai năm xảy ra lạm phát cao là 2008 và 2011.VNI đã sụt giảm hơn
60% năm 2008 và hơn 30% năm 2011. Cú sốc thay đổi sản lượng tác động cùng chiều
đến VNI, với mức tăng 4,5% sau 12 tháng.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy CSTT có những tác động ngày càng mạnh đến
giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam. Những thay đổi trong điều hành CSTT của NHNN
117
thông qua thay đổi lãi suất liên ngân hàng và cung tiền đã có ảnh hưởng đến giá chứng
khoán sau độ trễ từ 2-6 tháng. Kết quả này phù hợp với lý thuyết được trình bày ở
chương 2 và các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tuy
nhiên, đối với các quốc gia có thị trường tài chính phát triển, giá cổ phiếu có phản
ứng mạnh với thay đổi lãi suất điều hành của NHTW và lãi suất liên ngân hàng.
Nhưng ở TTCK Việt Nam, giá cổ phiếu lại phản ứng mạnh với thay đổi cung tiền
trước đó. Các nghiên cứu của Phạm Thế Anh (2010), Nguyễn Hữu Tuấn (2011),
Nguyễn Minh Kiều (2013), Bùi Kim Yến (2014), Dương Ngọc Mai Phương (2015)…
cũng thể hiện điều này.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu từ mô hình cho thấy VNI khá nhạy cảm đối với sự
thay đổi của giá hàng hóa. Khi có sự gia tăng đột ngột từ CPI, VNI cũng phản ứng giảm
sau 2 tháng và tiếp tục giảm mạnh sau đó. Đây là bằng chứng thực nghiệm làm cơ sở
tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách, đó là việc duy trì một tỷ lệ lạm phát ổn
định trong nền kinh tế không những giúp ổn định kinh tế vĩ mô, kích thích doanh nghiệp
sản xuất, gia tăng việc làm mà còn thúc đấy sự phát triển ổn định của TTCK.
5.1.2 Tác động của chính sách tiền tệ đến thanh khoản TTCK Việt Nam
Để làm rõ liệu CSTT có tác động đến thanh khoản TTCK Việt Nam không, nếu có
thì chiều hướng và mức độ tác động của các yếu tố trong CSTT đến thanh khoản thị
trường như thế nào, luận án đã sử dụng mô hình VAR dạng rút gọn với ba nhóm biến
là biến đại diện cho 5 biến thanh khoản thị trường
nghiên cứu gồm: biến số thanh khoản TTCK, biến số CSTT và biến kiểm soát. Trong
đó, thanh khoản TTCK biến LIQt
cổ phiếu gồm: Zeros, LR, MLI, Turnover và Ailliq. Nhóm biến đại diện cho CSTT
gồm: cung tiền (M2) và lãi suất liên ngân hàng (IR). Nhóm biến kiểm soát gồm tỷ
suất sinh lời bình quân tháng của cổ phiếu (SR), lạm phát (CPI) và sản lượng công
nghiệp (IPI).
Chiều hướng tác động của các yếu tố CSTT đến các đặc tính thanh khoản gồm: tính
tức thời, độ rộng, độ sâu và độ đàn hồi của thị trường được tóm tắt trong Bảng 5.1.
118
Bảng 5.1. Chiều hướng tác động của các yếu tố CSTT đến thanh khoản
Đặc tính
Biến đại
Sản
Lạm
TSSL cổ
Lãi suất liên
Cung
diện
thanh
lượng
phát
phiếu
ngân hàng
tiền
khoản
Tính tức
ZEROS
+
-
-
0
-
thời
TV
+
-
+
0
+
Độ rộng
LR
+
-
+
-
+
Turnover
+
0
+
0
+
Độ sâu
MLI
+
0
-
+
0
+
Độ đàn hồi
AILLIQ
0
-
0
-
Ghi chú: dấu (-): tác động ngược chiều, dấu (+): tác động cùng chiều, (0): không tác động
TTCK Việt Nam
Từ bảng 5.1 cho thấy các biến đo lường tính thanh khoản của thị trường (TV, LR và
Turnover) tỷ lệ thuận với cung tiền M2 và gần như không phản ứng trước thay đổi
của lãi suất liên ngân hàng. Trong khi đó, các biến đo lường tính thiếu thanh khoản
(Zeros, MLI và AILLIQ) biến động tỷ lệ nghịch với sự tăng lên của cung tiền M2 và
ít biến động khi có sự tăng lên của lãi suất liên ngân hàng. Từ đó cho thấy, khi NHNN
nới lỏng (thắt chặt) CSTT bằng cách tăng (giảm) cung tiền sẽ tác động làm tăng
(giảm) thanh khoản TTCK. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013). Trần Thị Hải Lý (2015) cũng cho rằng lãi suất liên
ngân hàng không tác động đến thanh khoản của TTCK Việt Nam.
Ngoài ra, lạm phát có tác động ngược chiều với tất cả các biến thanh khoản, cho thấy
thanh khoản của TTCK sẽ bị sụt giảm khi có sự gia tăng của chỉ số giá hàng tiêu dùng
(biến đại điện cho lạm phát). Trong khi đó, tăng trưởng sản lượng công nghiệp lại tỷ lệ
thuận với các biến đại diện cho độ rộng và độ sâu của TTCK. Nghiên cứu của Nguyễn
Hữu Huy Nhựt (2013) và Trần Thị Hải Lý (2015) cũng cho kết quả tương tự.
119
Các kết quả phân rã phương sai cho thấy cung tiền và lãi suất liên ngân hàng giải
thích được từ 8% – 10% mức độ biến động của các biến thanh khoản (hoặc kém thanh
khoản) sau khoảng thời gian là 9 -12 tháng. Các biến còn lại giải thích được từ 6% -
9% mức độ biến động của các biến thanh khoản trong thời gian ngắn hơn (chỉ 3
tháng). Kết quả này cho thấy CSTT có tác động đến thanh khoản của TTCK Việt
Nam nhưng mức độ tác động không lớn.
Tuy nhiên, khi có những thay đổi mạnh trong điều hành CSTT của NHNN (chẳng
hạn như giai đoạn 2008 – 2011) thanh khoản của thị trường lại có những phản ứng
đáng kể. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy các biến CSTT có tác động đến thanh khoản
của TTCK Việt Nam nhưng các biến mục tiêu của CSTT gồm sản lượng công nghiệp
và lạm phát lại có tác động nhất định. Từ đó cho thấy, thay đổi mục tiêu điều hành
CSTT của NHNN không những ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, người gửi tiền,
người vay tiền mà còn tác động đến TTCK.
Từ kết quả trên cho thấy, việc NHNN liên tục thay đổi trong điều hành CSTT từ nới
lỏng sang thắt chặt và ngược lại, nhất là trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2011 không
những gây ra những tác động mạnh đối với giá cổ phiếu và thanh khoản TTCK. Theo
Douglas (2015) các quyết định của chính sách như vậy sẽ gây ra các thiệt hại cho xã
hội (do thanh khoản giảm) nhiều hơn so với lợi ích tăng thêm từ việc ổn định thị
trường tài chính.
Khi thanh khoản của thị trường cổ phiếu giảm, việc huy động vốn của các công ty
niêm yết sẽ trở nên khó khăn hơn. Do đó TTCK khó có thể thực hiện tốt vai trò là
kênh huy động vốn trung dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế. Hơn nữa, việc siết chặt tín
dụng đối với đầu tư chứng khoán chỉ giúp ngân hàng giảm được ít rủi ro trong lĩnh
vực này nhưng việc mở rộng tín dụng đối với các lĩnh vực khác như bất động sản,
sản xuất kinh doanh có thể dẫn đến rủi ro mất vốn lớn hơn.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy khi có cú sốc xảy ra đối với lạm phát làm các
thước đo thanh khoản giảm và thước đo kém thanh khoản tăng. Do đó, việc tiếp tục
điều hành nhằm duy trì một tỷ lệ lạm phát ổn định trong dài hạn của NHNN là rất cần
120
thiết, không những hỗ trợ cho kinh tế tăng trưởng mà còn thúc đẩy thanh khoản trên
thị trường cổ phiếu. Một khi lạm phát được duy trì ổn định ở mức thấp sẽ thúc đẩy
các nhà đầu tư tìm kiếm các kênh đầu tư mới có tỷ suất sinh lời cao hơn so với gửi
tiết kiệm ở ngân hàng, một trong các kênh đầu tư đó chính là thị trường chứng khoán.
Vì vậy, NHNN cần xem xét giảm bớt can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính vào thị
trường tín dụng nói chung và thị trường tín dụng đối với kinh doanh chứng khoán nói
riêng, từ đó kích thích gia tăng khối lượng cũng như giá trị cổ phiếu giao dịch.
5.1.3 Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ đối với thay đổi giá cổ phiếu và
thanh khoản thị trường chứng khoán Việt Nam
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy cơ chế tác động của CSTT đến giá cổ phiếu trên
TTCK Việt Nam được thể hiện như sau:
Thứ nhất, khi NHNN tăng tổng phương tiện thanh toán (hay cung tiền) có tác
động làm giảm lãi suất trên thị trường. Theo lý thuyết số lượng tiền tệ việc mở rộng
cung tiền sẽ làm gia tăng cầu chứng khoán dẫn đến tăng giá cổ phiếu trên TTCK. Tại
Việt Nam, các kênh đầu tư thường được lựa chọn là gửi tiết kiệm ngân hàng, bất động
sản, vàng, ngoại tệ và chứng khoán. Khi lãi suất thị trường giảm (trong đó có lãi suất
tiền gửi ngân hàng) làm kênh tiết kiệm không còn hấp dẫn, khi giá vàng bị kiểm soát
chặt chẽ từ nhà nước thì hai kênh đầu tư còn lại là bất động sản và chứng khoán trở
nên hấp dẫn hơn. Kênh bất động sản đòi hỏi cần có số vốn lớn, thời gian đầu tư lâu
dài và tính thanh khoản thấp hơn so với kênh đầu tư cổ phiếu. Vì vậy, mỗi khi NHNN
mở rộng tiền tệ đều có tác động làm tăng cầu cổ phiếu dẫn đến tăng giá cổ phiếu trên
TTCK Việt Nam. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đó
của Phạm Thế Anh (2010), Nguyễn Hữu Tuấn (2011), Nguyễn Minh Kiều (2013),
Bùi Kim Yến (2014), Dương Ngọc Mai Phương (2015).
Thứ hai, theo mô hình chiết khấu cổ tức việc mở rộng cung tiền làm giảm lãi
suất thị trường, trong đó có lãi suất vay vốn của các doanh nghiệp, từ đó kích thích
các doanh nghiệp tăng đầu tư, mở rộng sản xuất và lợi nhuận được kỳ vọng tăng lên.
Cơ chế tác động này cũng được thể hiện rõ ở Việt Nam qua kết quả kinh doanh của
121
các công ty niêm yết trong các giai đoạn nới lỏng tiền tệ. Theo Báo cáo thường niên
của UBCKNN năm 2008 và 2011 (đây là hai năm cung tiền được thắt chặt) kết quả
kinh doanh của các công ty niêm yết hầu hết đều bị sụt giảm so với năm trước đó,
thậm chí nhiều công ty còn bị thua lỗ. Nhưng qua các năm 2009, 2010 và giai đoạn
2013 -2016, theo báo cáo của UBCKNN cho thấy kết quả kinh doanh của các công
ty được cải thiện rõ rệt, nhiều công ty đạt được mức tăng trưởng cao.
Bảng 5.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết 2015-2016
Đơn vị: triệu đồng
Nguồn: Báo cáo thường niên UBCKNN (2016)
Từ bảng 5.2 cho thấy tất cả các công ty niêm yết thuộc các nhóm ngành khác
nhau đều có doanh thu và lợi nhuận tăng trưởng năm 2016. Hơn 90% các công ty
niêm yết có lãi, doanh thu thuần đạt gần 980 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt
112,5 nghìn tỷ đồng. Các chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản, tỷ suất sinh lời trên
vốn chủ sở hữu đều gia tăng so với năm 2015.
Thứ ba, cơ chế tác động của CSTT đến thanh khoản TTCK Việt Nam được thể
hiện qua tác động đến tình trạng vay ký quỹ của các nhà đầu tư. Khi NHNN nới lỏng
122
tiền tệ bằng cách gia tăng cung tiền, giảm lãi suất cho vay trên thị trường đã tác động
đến các nhà đầu tư gia tăng vay ký quỹ để mua cổ phiếu. Kết quả là thanh khoản của
thị trường tăng mạnh. Ngược lại, trong những giai đoạn NHNN thắt chặt tiền tệ làm
gia tăng lãi suất, đồng thời ban hành thêm các quy định hạn chế cho vay đầu tư chứng
khoán đối với các TCTD đã tác động làm thanh khoản của TTCK sụt giảm mạnh.
Từ thực tế điều hành CSTT của NHNN cho thấy, trong giai đoạn nghiên cứu
NHNN đã ban hành hai quyết định có ảnh hưởng rõ rệt đến TTCK là Quyết định
03/2008 và Thông tư 36/2014. Theo quyết định 03/2008/QĐ-NHNN được ban hành
ngày 01/02/2008, NHNN đã quy định việc cho vay đầu tư chứng khoán của các tổ
chức tín dụng không được vượt quá 20% vốn điều lệ. Do đó đã hạn chế dòng vốn tín
dụng chảy qua kênh đầu tư này. Nghiên cứu thực nghiệm của Nguyễn Hữu Huy Nhựt
(2013) và Trần Thị Hải Lý (2015) cũng cho thấy CSTT không hỗ trợ tốt cho gia tăng
thanh khoản của TTCK Việt Nam.
Việc ban hành thông tư Thông tư 36/TTCK-NHNN đã cho thấy những phản ứng tích
cực từ phía NHNN nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của TTCK. Thông tư này quy định
các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng có hiệu lực
từ ngày 01/02/2015, trong đó hệ số rủi ro đối với các khoản phải đòi cho vay kinh
doanh bất động sản và chứng khoán được điều chỉnh từ 250% theo quy định tại Thông
tư 13/2010 (ngày 20/5/2010) xuống còn 150%.
25.0
20.0
15.0
10.0
5.0
800 700 600 500 400 300 200 100 0
0.0
1 M 5 1 0 2
2 M 5 1 0 2
3 M 5 1 0 2
4 M 5 1 0 2
5 M 5 1 0 2
6 M 5 1 0 2
7 M 5 1 0 2
8 M 5 1 0 2
9 M 5 1 0 2
1 M 6 1 0 2
2 M 6 1 0 2
3 M 6 1 0 2
4 M 6 1 0 2
5 M 6 1 0 2
6 M 6 1 0 2
7 M 6 1 0 2
8 M 6 1 0 2
9 M 6 1 0 2
0 1 M 5 1 0 2
1 1 M 5 1 0 2
2 1 M 5 1 0 2
0 1 M 6 1 0 2
1 1 M 6 1 0 2
2 1 M 6 1 0 2
Tốc độ tăng M2 (%)
VNI
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ dữ liệu của IFS và HSX
Hình 5.1. Diễn biến cung tiền và VNI giai đoạn 2015 – 2016
123
Từ hình 5.1 cho thấy diễn biến của VNI gần như cùng chiều với tốc độ thay đổi cung
tiền, cho thấy tác động cùng chiều của M2 và giá cổ phiếu. Ngoài ra, thanh khoản của
TTCK cũng được cải thiện đáng kể và có xu hướng diễn biến theo tốc độ tăng cung
tiền (hình 5.2).
25.00
70,000
60,000
20.00
50,000
15.00
40,000
30,000
10.00
20,000
5.00
10,000
0
0.00
1 M 5 1 0 2
2 M 5 1 0 2
3 M 5 1 0 2
4 M 5 1 0 2
5 M 5 1 0 2
6 M 5 1 0 2
7 M 5 1 0 2
8 M 5 1 0 2
9 M 5 1 0 2
1 M 6 1 0 2
2 M 6 1 0 2
3 M 6 1 0 2
4 M 6 1 0 2
5 M 6 1 0 2
6 M 6 1 0 2
7 M 6 1 0 2
8 M 6 1 0 2
9 M 6 1 0 2
0 1 M 5 1 0 2
2 1 M 5 1 0 2
0 1 M 6 1 0 2
1 1 M 6 1 0 2
2 1 M 6 1 0 2
1 1 M 5 1 0 2 Tốc độ tăng M2 (%)
TV (tỷ đồng)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ dữ liệu của IFS và HSX
Hình 5.2. Diễn biến cung tiền và giá trị giao dịch (TV) giai đoạn 2015 - 2016
Hình 5.2 cho thấy cùng với việc gia tăng cung tiền với mức ổn định trong biên độ từ
15% - 20%, giá trị giao dịch trên TTCK Việt Nam cũng đạt mức bình quân trên 45.000
tỷ trong tháng và có xu hướng tăng dần. Vì Thông tư 36/NHNN mới bắt đầu có hiệu
lực vào tháng 02/2015 nên kết quả nghiên cứu từ mô hình không phản ứng rõ những
tác động này.
5.2 KHUYẾN NGHỊ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Từ thực tế điều hành CSTT, diễn biến của TTCK Việt Nam và kết quả của mô hình
nghiên cứu cho thấy giá cổ phiếu và thanh khoản TTCK thực sự chịu tác động từ điều
hành CSTT của NHNN, trong đó biến số cung tiền có ảnh hưởng rõ rệt lên VNI và
các biến số đo lường thanh khoản. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách có thể xem
xét một số khuyến nghị sau:
124
5.2.1 Chuyển từ kiểm soát cung tiền sang kiểm soát lãi suất
Từ thực tế điều hành CSTT của NHNN Việt Nam cho thấy NHNN đang sử dụng cung
tiền M2 là mục tiêu trung gian. Việc lựa chọn kiểm soát cung tiền sẽ làm lãi suất trên
thị trường biến động theo mức cầu tiền và NHTW không thể kiểm soát được lãi suất.
Trong khi đó, để đạt được mục tiêu đặt ra NHTW cần sử dụng các công cụ nhằm giữ
cho lãi suất không biến động mạnh. Lãi suất chính là mối liên kết giữa hệ thống tài
chính và nền kinh tế thực, do đó tăng trưởng ổn định đồng nghĩa duy trì với một tỷ lệ
lạm phát không biến động quá mức (Mishkin, 2013).
Ngoài ra, NHNN không đề cập đến mục tiêu hoạt động của CSTT mà dựa trên diễn
biến của nhiều yếu tố như: lãi suất thị trường, tỷ giá VND/USD và dự trữ của hệ thống
ngân hàng để điều hành. Vì vậy, NHNN cần xem xét lựa chọn lãi suất liên ngân hàng
làm mục tiêu hoạt động của CSTT, đồng thời chuyển đổi từ kiểm soát cung tiền sang
kiểm soát lãi suất. Đưa ra định hướng điều hành lãi suất để công chúng, các nhà đầu tư
có thể theo dõi và dự đoán được.
5.2.2 Điều hành CSTT theo hướng ổn định giá cả, ổn định tài chính
Sau khủng hoảng tài chính năm 2008 ở Mỹ, các nhà nghiên cứu cho rằng NHTW cần
có các biện pháp can thiệp vào giá cổ phiếu nhằm giảm bớt nguy cơ hình thành bong
bóng giá tài sản trên TTCK. Đại diện cho trường phái này là Ceccetti và cộng sự (2000),
Borio và White (2004), Roubini (2006). Theo De Grauwe (2008), NHTW có thể sử
dụng lãi suất chính sách tác động vào giá cổ phiếu thông qua giảm mức độ biến động
của lạm phát và sản lượng, ổn định môi trường vĩ mô, từ đó làm giảm nguy cơ hình
thành bong bóng giá chứng khoán, ngăn ngừa khủng hoảng xảy ra.
Để thực hiện được điều này cần có sự phối hợp giữa các chính sách kinh tế vĩ mô.
Theo IMF (2013) khi có sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa sẽ
giúp hỗ trợ cho mục tiêu ổn định giá cả, ổn định tài chính. Tuy nhiên, khi NHTW
theo đuổi mục tiêu chính sách lãi suất thấp nhằm kích thích sự phát triển của nền kinh
tế, tạo công ăn việc làm có thể gây ra tăng trưởng tín dụng quá mức, hình thành nên
các bong bóng giá tài tài sản không mong muốn và tạo ra bất ổn tài chính. Thách thức
125
sẽ càng lớn hơn khi quốc gia theo đuổi mục tiêu tỷ giá cố định. Vì vậy, theo IMF
(2013) trong trường hợp này, cần thiết lập một khuôn khổ giám sát an toàn tài chính
hữu hiệu có thể làm giảm bớt các xung đột chính sách và tạo điều kiện để CSTT có
thể theo đuổi mục tiêu của mình.
Từ thực tế điều hành CSTT từ năm 2002 đến năm 2011 cho thấy NHNN Việt Nam
đã theo đuổi CSTT đa mục tiêu, trong đó mục tiêu tăng trưởng kinh tế là rõ ràng hơn
cả. Tuy nhiên, với lạm phát mạnh vào năm 2008 và 2011 là hậu quả của việc mở rộng
cung tiền trước đó cho thấy hạn chế của NHNN phản ứng lại những biến động của
thị trường, đặc biệt là biến động giá cả. Việc phải đắn đo khi đưa ra các quyết định
đối với sự biến động của lạm phát mà không làm ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng ít lên
các mục tiêu khác đặt NHNN trước nhiều lựa chọn phức tạp hơn. Vì vậy, ổn định giá
cả phải là mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ trong dài hạn, là cơ sở để đạt được
mục tiêu tăng trưởng kinh tế cũng như hạn chế thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ mục tiêu lạm phát đã được áp dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới
hơn 20 năm qua và đem lại nhiều kết quả đáng kể. Theo nghiên cứu của Carvalho
Filho (2010) cho thấy tại 21 quốc gia áp dụng chính sách tiền tệ mục tiêu lạm phát đã
duy trì được ổn định giá cả trong dài hạn, không gây tác động ngược chiều đối với
tăng trưởng, đặc biệt là góp phần giảm bớt tác động từ cú sốc khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2008. NHNN cần xem xét và đưa ra lộ trình cụ thể, tạo các điều kiện
tiền đề tiến tới áp dụng chính sách tiền tệ mục tiêu lạm phát kết hợp với ổn định tài
chính ở Việt Nam. Việc duy trì một tỷ lệ lạm phát vừa phải trong dài hạn không những
hỗ trợ lâu dài cho sự phát triển của nền kinh tế mà còn góp phần thúc đẩy sự phát
triển ổn định của TTCK.
Để thực hiện áp dụng CSTT mục tiêu lạm phát, đầu tiên cần từng bước xây dựng tính
độc lập cho NHNN Việt Nam, đặc biệt là tính độc lập về mặt chức năng. Đây là điều
kiện tiên quyết cho áp dụng CSTT mục tiêu lạm phát. Chính phủ cần để NHNN chủ
động hơn trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng sao cho phù hợp với những yêu cầu
của nền kinh tế chứ không phải để đáp ứng nhu cầu của NSNN. Tăng quyền tự quyết
126
trong việc sử dụng các công cụ của CSTT nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cũng như
tác động của các công cụ đó.
Tiếp theo có thể xem xét xây dựng một khung giá trị cho mục tiêu lạm phát thay vì
một giá trị như hiện nay nhằm tăng tính linh hoạt cho NHNN. Việc đạt được mục tiêu
trong cả một khung giá trị biến động sẽ dễ dàng hơn cho NHNN. Từ đó tạo sự tin
tưởng của công chúng vào khả năng của NHNN trong việc thực hiện các cam kết.
Thêm vào đó NHNN cần công khai và minh bạch hơn trong quá trình hoạch định,
thực thi CSTT và đưa ra nhận định của mình đối với nền kinh tế.
NHNN cần tích cực tuyên truyền, mở rộng hiểu biết cho công chúng và thậm chí là
cả các nhân viên trong NHNN và hệ thống NHTM về CSTT mục tiêu lạm phát cũng
như những ích lợi của nó đối với kinh tế Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam giai đoạn
II (2015 – 2020) với các vấn đề như sau: tập trung xử lý nợ xấu, cơ cấu lại những
ngân hàng thương mại được mua 0 đồng, duy trì ổn định thanh khoản trong hệ thống
ngân hàng thông qua điều tiết lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Ngoài ra, khi xem xét áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu, NHNN cần tính đến yếu tố
ổn định tài chính trong hàm mục tiêu của CSTT. Theo Aydin và Volkan (2011) các
yếu tố ổn định tài chính bao gồm: tỷ lệ đòn cân nợ của khu vực phi tài chính, tỷ lệ
vốn ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, dư nợ tín dụng và giá tài sản. Việc lựa chọn
chỉ tiêu phản ánh mức độ ổn định tài chính phụ thuộc vào điều kiện thị trường tài
chính của từng quốc gia trong từng giai đoạn.
Từ kết quả nghiên cứu ở chương 4 cho thấy giá cổ phiếu và thanh khoản TTCK không
những chịu tác động từ điều hành CSTT của NHNN mà còn chịu ảnh hưởng từ các
biến số vĩ mô, đặc biệt là lạm phát. Vì vậy, trong tương lai nếu NHNN điều hành
CSTT hướng đến mục tiêu lạm phát, duy trì mức tăng giá ổn định trong nền kinh tế
sẽ hỗ trợ tốt cho sự tăng giá bền vững của cổ phiếu cũng như gia tăng thanh khoản
cho TTCK
127
5.2.3 Kết hợp với các cơ quan khác hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng
khoán
Kết quả phân tích phản ứng đẩy và phân rã phương sai của mô hình SVAR, các mô
hình VAR cho thấy giá cổ phiếu và thanh khoản TTCK chịu tác động từ thay đổi cung
tiền mạnh hơn là từ thay đổi lãi suất liên ngân hàng. Do đó, từ kế hoạch tăng trưởng
cung tiền được xây dựng hàng năm, NHNN có thể kết hợp để dự báo diễn biến giá cổ
phiếu cũng như tổng giá trị giao dịch trên TTCK.
Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế phối hợp trong việc điều hành các chính sách có liên
quan đến TTCK. Từ thực tế và kết quả nghiên cứu cho thấy, việc điều hành CSTT
của NHNN theo hướng nới lỏng hoặc thắt chặt đều tác động mạnh đến tính thanh
khoản của TTCK. TTCK cũng rất nhạy cảm theo sự mở rộng hay thu hẹp tín dụng
của NHTM. Những biểu hiện này chỉ có thể khắc phục bằng cách nâng cao chất lượng
tái cơ cấu thị trường và các chủ thể tham gia thị trường. Để TTCK phát huy tốt vai
trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp, phục vụ cho sản xuất,
kinh doanh, thu hút vốn nhàn rỗi của các cá nhân và các tổ chức trong và ngoài nước,
cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa NHNN và UBCKNN trong việc ban hành các quy tắc
để vận hành thị trường. Các quy tắc gồm khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách và
các thông lệ quốc tế được thừa nhận.
Để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cần xây dựng và ban hành Luật Chứng khoán sửa
đổi, trên cơ sở đồng bộ và thống nhất với các Luật liên quan nhằm phát triển bền vững
TTCK. Đồng thời ban hành đồng bộ các quy định mới về giao dịch, công bố thông
tin, hoàn thiện các cơ chế, chính sách (bao gồm cả chính sách tài chính, chính sách
thuế) theo hướng hỗ trợ các thị trường phát triển hiệu quả mà không vi phạm các cam
kết hội nhập.
Cần nâng cao vị thế của UBCKNN trong việc quản lý nhà nước về hoạt động chứng
khoán và TTCK. UBCKNN phải có đủ thẩm quyền để thực hiện có hiệu quả chức
năng quản lý nhà nước về TTCK và xử lý những vấn đề có liên quan đến chứng khoán
và giao dịch chứng khoán.
128
Để gia tăng thanh khoản cho TTCK, cần tạo hàng hóa có chất lượng tốt cho thị trường.
Việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cần gắn với niêm yết để tạo hàng
hóa có chất lượng cho TTCK. Đồng thời, cần tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến
lược (trong và ngoài nước) mua cổ phiếu do các doanh nghiệp Việt Nam phát hành
theo phương thức thỏa thuận, hoặc đấu giá giữa các nhà đầu tư chiến lược, để một số
doanh nghiệp cải thiện nhanh hơn về năng lực tài chính, chất lượng quản trị, năng lực
cạnh tranh.
Giảm sự can thiệp trực tiếp của các Bộ, ngành vào hoạt động doanh nghiệp, ngân
hàng, sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động theo quy luật thị trường và
phải chịu tránh nhiệm về hoạt động của mình trước các cổ đông, trong đó có cổ đông
nhà nước. Tuy nhiên, khi giảm tỷ lệ vốn của Nhà nước, tăng tỷ lệ sở hữu của các nhà
đầu tư chiến lược nước ngoài, người ta thường lo ngại đến vấn đề thâu tóm.
Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia thị
trường, xử lý nghiêm các vi phạm đối với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng
phương tiện truyền thông (báo chí, trang tin…) đưa thông tin sai lệch, thông tin thiếu
đầy đủ, làm méo mó thông tin, hoặc đưa thông tin bất lợi cho thị trường mà không rõ
nguồn gốc.
Do hoạt động của TTCK trong môi trường kinh tế vĩ mô và phụ thuộc vào niềm tin
của nhà đầu tư trên thị trường. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách cần tạo ra một
môi trường vĩ mô ổn định để có được sự tin tưởng của nhà đầu tư, từ đó mới có thể
phát triển TTCK. Vì vậy, trong thời gian tới NHNN cần xác định rõ mục tiêu hoạt
động, mục tiêu trung gian trong điều hành CSTT và có những thông tin rõ ràng, minh
bạch đối với các mục tiêu này nhằm định hướng và dẫn dắt thị trường; tránh những
thay đổi đột ngột, tác động tiêu cực đến sự phát triển của TTCK.
5.3 KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ ĐẦU TƯ
Theo báo cáo thường niên của UBCKNN qua các năm, lượng tài khoản của nhà đầu
tư cá nhân chiếm tỷ lệ lớn trên thị trường. Vì vậy, việc hiểu rõ về diễn biến kinh tế vĩ
129
mô, mục tiêu điều hành CSTT và tác động của các yếu tố CSTT đến sự biến động giá
cổ phiếu trên TTCK là rất cần thiết.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, nhà đầu tư cần theo dõi chặt chẽ diễn biến chỉ số giá
hàng tiêu dùng, định hướng điều hành CSTT được NHNN thông báo vào đầu mỗi
năm từ đó đưa ra dự báo diễn biến về lãi suất trong tương lai. Theo mô hình chiết
khấu cổ tức, việc xác định một mức lãi suất chiết khấu phù hợp giúp các nhà đầu tư
định giá cổ phiếu đúng với giá trị thực. Đây là cơ sở giúp đưa ra các quyết định đầu
tư phù hợp. Ngoài ra, việc dự báo được lãi suất còn giúp nhà đầu tư quyết định sử
dụng giao dịch ký quỹ với tỷ lệ hợp lý khi lãi suất thấp nhằm gia tăng lợi nhuận.
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp các nhà đầu tư nhận biết rõ ràng hơn về các vấn
đề trên, từ đó khẳng định được bản lĩnh và có các chiến lược giao dịch phù hợp, giảm
bớt tình trạng giao dịch theo tâm lý đám đông, hạn chế những bất ổn trên TTCK.
5.4 HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO CỦA LUẬN ÁN
Trong phạm vi nghiên cứu, luận án nghiên cứu thực hiện đánh giá tác động của các
yếu tố CSTT như lãi suất lãi suất liên ngân hàng, cung tiền đến giá cổ phiếu trên
TTCK (đại diện là chỉ số VN-Index) mà chưa đo lường tác động của CSTT đến biến
động giá của từng cổ phiếu riêng lẻ trên thị trường theo mô hình của Tobin’q. Ngoài
ra, việc đánh giá tác động của các yếu tố CSTT đến thanh khoản TTCK cũng được
thực hiện dựa trên thanh khoản của toàn bộ thị trường mà chưa đánh giá tác động
riêng từng nhóm ngành, từng công ty. Vì vậy, các nghiên cứu tiếp theo có thể thu
thập dữ liệu của từng công ty theo từng nhóm ngành cụ thể, thực hiện hồi qui dữ
liệu bảng nhằm đánh giá mức độ tác động của các yếu tố CSTT, đặc biệt là lãi suất
đến chi phí sử dụng vốn cũng như lợi nhuận của các công ty niêm yết.
Kết luận chương 5
Trong chương này đã đánh giá việc điều hành CSTT của NHNN trong giai đoạn
nghiên cứu, và tóm tắt kết quả nghiên cứu ở hai góc độ là đánh giá tác động của CSTT
đến giá cổ phiếu và thanh khoản thị trường cổ phiếu Việt Nam. Kết quả nghiên cứu
còn cho thấy mặc dù phản ứng của các nhà điều hành CSTT đối với các cú sốc giá và
130
thanh khoản trên TTCK chưa được mạnh mẽ và liên tục nhưng việc ban hành Quyết
định 03/2008/NHNN và Thông tư 36/2014/NHNN đã chứng tỏ NHNN có quan tâm
đến những biến động trên TTCK.
Từ kết quả nghiên cứu kết hợp với diễn biến thực tế điều hành CSTT và TTCK, một
số khuyến nghị cho nhà hoạch định chính sách được đưa ra gồm: điều hành CSTT
nên được tiếp cận theo hướng an toàn vĩ mô, xây dựng lộ trình áp dụng CSTT mục
tiêu lạm phát ở Việt Nam và gia tăng sự phối hợp giữa NHNN và UBCKNN trong
việc hoàn thiện thể chế hỗ trợ cho sự phát triển của TTCK trong tương lai.
131
KẾT LUẬN
Chính sách tiền tệ là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô, đóng vai trò quan trọng
trong điều tiết cung tiền nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn
việc làm, kiểm soát lạm phát, ổn định hệ thống tài chính, ổn định lãi suất và ổn định
tỷ giá. Với mục tiêu nghiên cứu là đánh giá mức độ, chiều hướng tác động của CSTT
đến giá cổ phiếu và thanh khoản TTCK Việt Nam. Luận án đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu định lượng, hồi quy các biến số với mô hình SVAR và VAR.
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc mở rộng hoặc thắt chặt CSTT bằng cách tăng hoặc
giảm cung tiền có tác động cùng chiều với giá cổ phiếu cũng như thanh khoản TTCK
Việt Nam. Ngược lại, các nhà hoạch định CSTT cũng có những phản ứng nhất định
khi có sự thay đổi về giá cổ phiếu cũng như thanh khoản của TTCK. Từ kết quả
nghiên cứu kết hợp với phân tích thực tế điều hành CSTT và quá trình phát triển của
TTCK Việt Nam, luận án đã đưa ra một số khuyến nghị chính sách giúp sử dụng
CSTT hỗ trợ sự phát triển của thị trường.
Tuy nhiên, hạn chế của luận án là chưa xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến cơ
chế truyền dẫn tác động từ CSTT đến TTCK. Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra
nhanh chóng, mức độ hội nhập kinh tế và tài chính quốc tế sâu rộng, tác động của
CSTT đến TTCK trong nước chịu ảnh hưởng từ các nhân tố bên ngoài quốc gia.
Ehrmann và ctg (2011) đã chỉ ra chính mức độ hội nhập kinh tế và tài chính quốc tế
là yếu tố quyết định sự phản ứng của TTCK nước đó khi có sự biến động từ CSTT
trong nước và quốc tế. Nền kinh tế nào có mức độ hội nhập sâu rộng hơn vào nền
kinh tế toàn cầu, thị trường chứng khoán nước đó sẽ phản ứng mạnh hơn đối với các
động thái chính sách tiền tệ của Mỹ. Ngoài ra, nghiên cứu trên còn cho thấy thị trường
tài chính các nước áp dụng cơ chế tỷ giá linh hoạt sẽ phản ứng ít hơn trước các cú sốc
lãi suất của NHTW Mỹ, trong khi các nước áp dụng cơ chế tỷ giá cố định có mức
phản ứng của thị trường tài chính mạnh hơn. Đây là gợi ý để tiếp tục thực hiện các
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
132
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Tú Anh 2006, Hệ thống ngân hàng cho vay để đầu tư chứng khoán đang ở mức
nào?, truy cập tại
[truy cập ngày 06/10/2015].
2. Vũ Thành Tự Anh 2016, Xây dựng Ngân hàng trung ương hiện đại, Chương
trình giảng dạy kinh tế Fulbright.
3. Trần Thị Xuân Anh và Ngô Thị Hằng 2012, Lượng hóa tác động của chính sách
tiền tệ đến tính thanh khoản của thị trường chứng khoán Việt Nam, Khoa học
và đào tạo ngân hàng, số 127, tháng 12/2012, trang 24 – 38
4. Phạm Thế Anh 2010, Tác động của các biến số vĩ mô đến thị trường chứng
khoán, Tài chính, tháng 02/2010, trang 35 – 38.
5. Nguyễn Phúc Cảnh 2014, Truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh giá tài sản tài
chính: nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam, Phát triển và Hội nhập Số 19 (29),
tháng 11/2014, trang 11-18.
6. Lê Đạt Chí và Hoàng Thị Phương Thảo 2016, Tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu lên thanh khoản của thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí
Phát triển và Hội nhập, số 26(36), tháng 01-02/2016, trang 53-59.
7. Đặng Văn Hải 2007, Một số giải pháp tài chính, tín dụng để thị trường chứng
khoán phát triển ổn định, an toàn, hiệu quả, Thị trường tài chính tiền tệ, số
11(223), tháng 06/2007, trang 33-35.
8. Quách Mạnh Hào 2011, Vòng lẩn quẩn trong kinh tế Việt Nam và bài toán lãi
suất, Khi rồng muốn thức dậy – Loay hoay với mô hình kinh tế sau đổi mới, Nhà
xuất bản Lao động xã hội.
9. Mai Thu Hiền 2016, Thực thi chiến lược chính sách tiền tệ ở Việt Nam: một vài đánh
giá, đề xuất, Tạp chí Tài chính, Kỳ I, tháng 05/2016.
133
10. Lê Thị Tuyết Hoa, Đặng Văn Dân và tập thể tác giả 2016, Lý thuyết tài chính
tiền tệ, NXB Kinh tế, TP Hồ Chí Minh.
11. Đoàn Ngọc Hoàn 2013, Giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam,
Thị trường Tài chính – Tiền tệ, số 7 (376), tháng 04/2013, trang 26 – 28.
12. Nguyễn Minh Kiều và Nguyễn Văn Điệp 2013, Quan hệ giữa các yếu tố kinh tế
vĩ mô và biến động thị trường chứng khoán: bằng chứng nghiên cứu từ thị
trường Việt Nam, Phát triển Khoa học & Công nghệ, Tập 16, số Q3-2013, trang
88 – 100.
13. Trần Thị Hải Lý 2015, Chính sách tiền tệ và thanh khoản của thị trường chứng
khoán Việt Nam, Phát triển kinh tế, số 26(6), 02-22.
14. Madura 2015, Thị trường tài chính, Cengage Learning, tái bản lần thứ 10.
15. Nguyễn Thị Mùi 2000, Giải pháp phát triển bền vững thị trường chứng khoán
Việt Nam, Tài chính, tháng 12/2009, trang 48-50.
16. Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dương Phương Thảo 2013, Phân tích tác động
của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến thị trường chứng khoán Việt Nam, Phát triển
và hội nhập, số 8 (18), tháng 01-02/2013, trang 34 – 41
17. Phan Đình Nguyên 2012, Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của cổ phiếu
niêm yết trên sàn chứng khoán TP.HCM, Công nghệ ngân hàng, số 78, tháng
09/2012, trang 51 – 56.
18. Nguyễn Hữu Huy Nhựt 2013, Nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ đến
tinh thanh khoản trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Phát triển kinh tế, số
276 (10/2013), 58-74.
19. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên từ năm 2000 đến 2016,
truy cập tại
20. Trần Hoàng Ngân 2009, Thực trạng và các giải pháp phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam, Công nghệ ngân hàng, số 41, tháng 03/2009, trang 3-8
134
21. Dương Ngọc Mai Phương và Vũ Thị Phương Anh 2015, Tác động của chính
sách tiền tệ đến thị trường chứng khoán: bằng chứng tại Việt Nam, Phát triển
và Hội nhập, Số 25(35), tháng 11-12/2015, trang 3 – 13.
22. Hoàng Xuân Quế 2007, Một số giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán
Việt Nam, Thị trường tài chính tiền tệ, số 14 (236), tháng 07/2007, trang 24-26.
23. Nguyễn Sơn 2003, Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, Ngân
hàng, số 13, 2003, trang 55-57.
24. Trần Trọng Triết 2008, Giải pháp để thị trường chứng khoán phát triển ổn định,
Công nghệ ngân hàng, Số 33, 2008, trang 44 – 46
25. Nguyễn Hữu Tuấn 2011, Phân tích thực nghiệm ảnh hưởng của biến số vĩ mô
đến chỉ số giá thị trường chứng khoán Việt Nam, Công nghệ Ngân hàng, số 68,
tháng 11/2011, trang 4-10.
26. Trần Ngọc Thơ và Nguyễn Hữu Tuấn 2015, Cơ chế truyền dẫn chính sách tiền
tệ ở Việt Nam tiếp cận theo mô hình SVAR, Phát triển và Hội nhập, số 10(20),
tháng 05-06/2013.
27. Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo thường niên từ
năm 2002 đến 2016, truy cập tại
28. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, Báo cáo thường niên từ năm 2006 đến 2016,
truy cập tại
29. Thân Thị Thu Thủy và Võ Thị Thùy Dương 2014, Sự tác động của các nhân tố
kinh tế vĩ mô đến các chỉ số giá cổ phiếu tại HOSE, Phát triển và Hội nhập, số
24 (34), tháng 09-10 /2015, trang 59-67.
30. Thu Thủy 2014, Phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam theo hướng ổn
định, bền vững, Thị trường tài chính tiền tệ, số 3+4(396+397), tháng 02/2014,
trang 61-63.
135
31. Lê Hải Trà 2009, Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán - Tăng cường tính
thanh khoản cho thị trường, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 2009, Trang 31 - 32.
32. Phạm Thị Tuyết Trinh 2013, Vai trò của tỷ giá hối đoái trong cơ chế dẫn truyền
chính sách tiền tệ Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Ngân hàng
TP.HCM
33. Trung tâm lưu ký chứng khoán, Báo cáo thường niên từ năm 2008 đến 2016,
truy cập tại
34. Bùi Kim Yến và Nguyễn Thái Sơn 2014, Sự phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam dưới ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô, Phát triển và
hội nhập, Số 16 (26) - Tháng 05+06/2014, trang 3 – 10.
35. Ủy ban chứng khoán nhà nước, Báo cáo thường niên từ năm 2002 đến 2016,
truy cập tại
36. Vafi 2012, Mười sáu giải pháp để ổn định và phát triển thị trường chứng khoán’,
Thị trường Tài chính Tiền tệ, số 6 (351), tháng 3/2012, trang 34 – 37.
37. Website Cafef, available at: http://s.cafef.vn/du-lieu.chn
38. Website Stoxplus Corporation, available at: http://stoxplus.com/
Tiếng Anh
39. Abaenewe, Z. C. và Ndugbu, M. O. 2012. Analysis of the Effect of Monetary
Policy Development on Equity Prices in Nigeria. West African Journal of
Industrial and Academic Research, 5, 140-155.
40. Abaenewe, Z. C. và Ndugbu, M. O. 2013. Analysis of the Effect of Monetary
Policy Development on Equity Prices in Nigeria. West African Journal of
Industrial and Academic Research, 5, 140-155.
41. Abbassi, P. và Linzert, T. 2012. The effectiveness of monetary policy in steering
money market rates during the financial crisis. Journal of Macroeconomics, 34,
945-954.
136
42. Amihud, Y. 2002. Illiquidity and stock returns: cross-section and time-series
effects. Journal of financial markets, 5, 31-56.
43. Auerbach, R. D. 1976. Money and stock prices. Economic Review, 3-11.
44. Aydin, B. và Volkan, M. E. 2011. Incorporating financial stability in inflation
targeting frameworks, International Monetary Fund.
45. Aziza, F. O. 2010. The effects of monetary policy on stock market performance:
A cross-country analysis. Available at SSRN 1743834.
46. Bagliano, F. và Favero, C. 1997. Measuring monetary policy with VAR models:
an evaluation." mirneo. May.
47. Baker, H. K. 1996. Trading location and liquidity: an analysis of US dealer and
agency markets for common stocks.
48. Bayraktar, N. 2014. Measuring relative development level of stock markets:
Capacity and effort of countries. Borsa Istanbul Review, 14, 74-95.
49. Ben Naceur, S.;Boughrara, A. và Ghazouani, S. 2007. On the linkage between
monetary policy and MENA stock markets? Available at SSRN 1018727.
50. Berkman, N. G. 1978. On the significance of weekly changes in M1. New
England economic review, 78, 5-22.
51. Bernanke, B. và Gertler, M. 2000. Monetary policy and asset price volatility.
National bureau of economic research.
52. Bernanke, B. S. và Blinder, A. S. 1992. The federal funds rate and the channels
of monetary transmission. The American Economic Review, 901-921.
53. Bernanke, B. S. và Kuttner, K. N. 2005. What explains the stock market's
reaction to Federal Reserve policy? The Journal of Finance, 60, 1221-1257.
54. Berument, H. và Kutan, A. M. 2007. The stock market channel of monetary
policy in emerging markets: evidence from the Istanbul Stock Exchange.
Scientific Journal of Administrative Development, 5, 117-144.
137
55. Black, F. 1971. Toward a fully automated stock exchange, Part II. Financial
Analysts Journal, 27, 24-28.
56. Bodie, Z. 2013. Investments, McGraw-Hill.
57. Brooks, C. 2008. Introductory Econometrics for Finance.
58. Brunner, K. 1961. Some major problems in monetary theory. The American
Economic Review, 47-56.
59. Brunnermeier, M. K. và Pedersen, L. H. 2009. Market liquidity and funding
liquidity. Review of Financial studies, 22, 2201-2238.
60. Carvalho Filho, I. E. 2010. Inflation targeting and the crisis: An empirical
assessment.
61. Cassola, N. và Morana, C. 2004. Monetary policy and the stock market in the
euro area. Journal of Policy Modeling, 26, 387-399.
62. Cecchetti, S. G.;Schoenholtz, K. L. và Fackler, J. 2015. Money, banking, and
financial markets, McGraw-Hill/Irwin.
63. Cecchetti, S. G.;Schoenholtz, K. L. và Fackler, J. 2006. Money, banking, and
financial markets, McGraw-Hill/Irwin.
64. Choi, W. G. và Cook, D. 2006. Stock market liquidity and the macroeconomy:
Evidence from Japan. Monetary Policy with Very Low Inflation in the Pacific
Rim, NBER-EASE, Volume 15. University of Chicago Press.
65. Chordia, T.;Sarkar, A. và Subrahmanyam, A. 2005. An empirical analysis of
stock and bond market liquidity. Review of Financial Studies, 18, 85-129.
66. Chordia, T.;Sarkar, A. và Subrahmanyam, A. 2002. Common determinants of
bond and stock market liquidity: The impact of financial crises, monetary
policy, and mutual fund flows. University of California Los Angeles, CA
Working Paper.
67. Corallo, E. 2006. The effect of monetary policy on asset prices: evidence from
Germany and UK, Libero istituto universitario Carlo Cattaneo.
138
68. Cosimano, M. T. F.;Fullenkamp, C. và Chami, M. R. 1999. The stock market
channel of monetary policy, International Monetary Fund.
69. Dabla-Norris, E. và Floerkemeier, H. 2006. Transmission mechanisms of
monetary policy in Armenia: evidence from VAR analysis.
70. Dalimunthe, D. A. 2013. IDENTIFYING THE IMPACT OF MONETARY
POLICY IN A SMALL OPEN ECONOMY: CASE OF INDONESIA.
71. Darrat, A. F. 1990. Stock returns, money, and fiscal deficits. Journal of
Financial and Quantitative Analysis, 25, 387-398.
72. Ehrmann, M. và Fratzscher, M. 2004. Taking stock: Monetary policy
transmission to equity markets. 354.
73. Ehrmann, M.;Fratzscher, M. và Rigobon, R. 2011. Stocks, bonds, money
markets and exchange rates: measuring international financial transmission.
Journal of Applied Econometrics, 26, 948-974.
74. Ekanayake, E. và Sengupta, S. 2009. HOW DO MARKETS REACT TO
CHANGES IN FEDERAL FUNDS RATES? AN EMPIRICAL STUDY.
American Journal of Business Research, 2.
75. Elliott, D. J. 2015. Market Liquidity: A Primer. Washington, DC: Brookings
Institution.
http://www. brookings.edu/~/media/research/files/papers/2015/06/market-
liquidity/elliott--marketliquidity--a-primer_06222015. pdf.
76. Engle, R. F. 1982. Autoregressive conditional heteroscedasticity with estimates
of the variance of United Kingdom inflation. Econometrica: Journal of the
Econometric Society, 987-1007.
77. Fama, E. F. 1970. Efficient capital markets: A review of theory and empirical
work*. The journal of Finance, 25, 383-417.
78. Fernández-Amador, O.;Gächter, M.;Larch, M. và Peter, G. 2013. Does
monetary policy determine stock market liquidity? New evidence from the euro
zone. Journal of Empirical Finance, 21, 54-68.
139
79. Fleming, M. J. và Remolona, E. M. 2001. The term structure of announcement
effects.
80. Freixas, X.;Martin, A. và Skeie, D. 2011. Bank liquidity, interbank markets, and
monetary policy. Review of Financial Studies, 24, 2656-2692.
81. Friedman, M. và Schwartz, A. J. 1975. Money and business cycles. The State of
Monetary Economics. NBER.
82. Gordon, M. J. 1962. The investment, financing, and valuation of the
corporation, RD Irwin.
83. Goyenko, R. Y. và Ukhov, A. D. 2009. Stock and bond market liquidity: A long-
run empirical analysis. Journal of Financial and Quantitative Analysis, 44, 189-
212.
84. Harris, L. 1990. Liquidity, trading rules and electronic trading systems.
85. Hasbrouck, J. và Schwartz, R. A. 1988. Liquidity and execution costs in equity
markets. The Journal of Portfolio Management, 14, 10-16.
86. Hayford, M. D. và Malliaris, A. G. 2004. Monetary policy and the US stock
market. Economic Inquiry, 42, 387-401.
87. Hofmann, B. và Mizen, P. 2004. Interest Rate Pass‐Through and Monetary
Transmission: Evidence from Individual Financial Institutions' Retail Rates.
economica, 71, 99-123.
88. Homa, K. E. và Jaffee, D. M. 1971. The supply of money and common stock
prices. The Journal of Finance, 26, 1045-1066.
89. Ioannidis, C. và Kontonikas, A. 2008. The impact of monetary policy on stock
prices. Journal of Policy Modeling, 30, 33-53.
90. Jamali, I. 2009. Stock market volatility and monetary policy. Concordia
University.
91. Jensen, G. R. và Johnson, R. R. 1995. Discount rate changes and security returns
in the US, 1962–1991. Journal of Banking & Finance, 19, 79-95.
140
92. Jensen, G. R. và Moorman, T. 2010. Inter-temporal variation in the illiquidity
premium. Journal of Financial Economics, 98, 338-358.
93. Kim, S. 1999. Do monetary policy shocks matter in the G-7 countries? Using
common identifying assumptions about monetary policy across countries.
Journal of international economics, 48, 387-412.
94. Kim, S. và Roubini, N. 2000. Exchange rate anomalies in the industrial
countries: A solution with a structural VAR approach. Journal of Monetary
Economics, 45, 561-586.
95. Labonte, M. và Makinen, G. E. Monetary policy and the Federal Reserve:
current policy and conditions. 2008. HeinOnline.
96. Laopodis, N. T. 2010. Dynamic linkages between monetary policy and the stock
market. Review of Quantitative Finance and Accounting, 35, 271-293.
97. Lastrapes, W. D. 1998. International evidence on equity prices, interest rates
and money. Journal of International Money and Finance, 17, 377-406.
98. LeSage, J. P. và Solocha, A. 1993. The impact of weekly money supply
announcements on stock market returns: A multiprocess mixture model
approach. Journal of Applied Business Research, 9, 100.
99. Lesmond, D. A.;Ogden, J. P. và Trzcinka, C. A. 1999. A new estimate of
transaction costs. Review of Financial Studies, 12, 1113-1141.
100. Levine, R. 2003. More on finance and growth: more finance, more growth?
Review-Federal Reserve Bank Of Saint Louis, 85, 31-46.
101. Li, Y. D.;İşcan, T. B. và Xu, K. 2010. The impact of monetary policy shocks on
stock prices: Evidence from Canada and the United States. Journal of
International Money and Finance, 29, 876-896.
102. Lindqvist, P. và Du Rietz, R. 2010. Illiquidity pricing and the drivers of market
Liquidity-Evidence from the Swedish stock market. Bachelor Thesis in Finance,
Stockholm, Sweden: Stockholm School of Economics Söderberg,
141
J.(2009)‘Essays on the Scandinavian Stock Markets' Thesis for the degree of
Doctor of Philosophy, Växsjö, Sweden: Växjö University.
103. Lu-Andrews, R. và Glascock, J. L. 2010. Macroeconomic effects on stock
liquidity. Available at SSRN 1662751.
104. Lütkepohl, H. 2005. New introduction to multiple time series analysis, Springer
Science & Business Media.
105. Lybek, M. T. và Sarr, M. A. 2002. Measuring liquidity in financial markets,
International Monetary Fund.
106. Lynge Jr, M. J. 1981. Money supply announcement and stock prices. The
journal of portfolio management, 8, 40-43.
107. Madura, J. 2014. Financial markets and institutions, Nelson Education.
108. Martin, P. 1975. Analysis of the Impact of Competitive Rates on the Liquidity
of NYSE Stocks. Economic Staff Paper, 75.
109. Miller, R. L. và VanHoose, D. D. 2001. Money, banking and financial markets,
South-Western Pub.
110. Mishkin, F. S. 2013. The economics of money, banking, and financial markets,
Pearson education.
111. Mishkin, F. S. 2001. The transmission mechanism and the role of asset prices
in monetary policy. National bureau of economic research.
112. Mousa, R. A. A. 2016. The Impact of Macroeconomic Variables on Amman
Stock Exchange (ASE) Liquidity Measurements.
113. O'hara, M. 1995. Market microstructure theory, Blackwell Cambridge, MA.
114. Patelis, A. D. 1997. Stock return predictability and the role of monetary policy.
Journal of finance, 1951-1972.
115. Pearce, D. K. và Roley, V. V. 1983. The reaction of stock prices to unanticipated
changes in money: A note. The Journal of Finance, 38, 1323-1333.
142
116. Pesando, J. E. 1974. The supply of money and common stock prices: Further
observations on the econometric evidence. The Journal of Finance, 29, 909-
921.
117. Raghavan, M. và Dungey, M. 2015. Should ASEAN-5 monetary policy-makers
act pre-emptively against stock market bubbles? Applied Economics, 47, 1086-
1105.
118. Rigobon, R. và Sack, B. 2001. Measuring the reaction of monetary policy to the
stock market. National Bureau of Economic Research.
119. Rigobon, R. 2002. THE IMPACT OF MONETARY POLICY ON ASSET
PRICES
120. Rigobon, R. và Sack, B. 2004. The impact of monetary policy on asset prices.
Journal of Monetary Economics, 51, 1553-1575.
121. Rogalski, R. J. và Vinso, J. D. 1977. Stock returns, money supply and the
direction of causality. The Journal of finance, 32, 1017-1030.
122. Rozeff, M. S. 1974. Money and stock prices: Market efficiency and the lag in
effect of monetary policy. Journal of financial Economics, 1, 245-302.
123. Schabert, A. 2001. Interest rate policy and the price puzzle in a quantitative
business cycle model. Reihe Ökonomie/Economics Series, Institut für Höhere
Studien (IHS).
124. Schwert, G. W. 1989. Why does stock market volatility change over time? The
journal of finance, 44, 1115-1153.
125. Sensoy, A. 2016. Commonality in liquidity: Effects of monetary policy and
macroeconomic announcements. Finance Research Letters, 16, 125-131.
126. Seong, L. M. 2013. Transmission of monetary policy to the stock exchange:
Further evidence from Singapore. Interdisciplinary Journal of Contemporary
Research in Business, 5.
143
127. Sims, C. A. 1991. Empirical analysis of macroeconomic time series: VAR and
structural models: by Michael P. Clements and Grayham E. Mizon. European
Economic Review, 35, 922-932.
128. Smirlock, M. và Yawitz, J. 1985. Asset returns, discount rate changes, and
market efficiency. The Journal of Finance, 40, 1141-1158.
129. Söderberg, J. 2008. Do macroeconomic variables forecast changes in liquidity?
An out-of-sample study on the order-driven stock markets in Scandinavia.
Centre for Labour Market Policy Research (CAFO), School of Business and
Economics, Linnaeus University.
130. Stoica, O. và Diaconașu, D.-E. 2012. Monetary Policy and Stock Markets
Evidence from EU Countries. Communications of the IBIMA, 2012, 1-11.
131. Tang, Y.;Luo, Y.;Xiong, J.;Zhao, F. và Zhang, Y.-C. 2013. Impact of monetary
policy changes on the Chinese monetary and stock markets. Physica A:
Statistical Mechanics and its Applications, 392, 4435-4449.
132. Thanh, N. H. 2014. Monetary transmission mechanism analysis in a small, open
economy: the case of Vietnam.
133. Thorbecke, W. 1997. On stock market returns and monetary policy. The Journal
of Finance, 52, 635-654.
134. Yoshino, N.;Taghizadeh Hesary, F.;Hassanzadeh, A. và Prasetyo, A. D. 2014.
Response of stock markets to monetary policy: An Asian stock market
perspective.
135. Yusof, R. M. và AbdulMajid, S. 2007. Stock market volatility transmission in
Malaysia: Islamic versus conventional stock market. Islamic Economics, 20.
144
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC A: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH SỰ PHÙ HỢP CỦA MÔ HÌNH SVAR
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
1.5
1.0
0.5
0.0
-0.5
-1.0
-1.5
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
Hình A.1 Kết quả kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo mô hình SVAR
Bảng A.1 Kết quả kiểm định tương quan chuỗi của phần dư mô hình SVAR
VAR Residual Serial Correlation LM Tests
Null Hypothesis: no serial correlation at lag order h
Lags LM-Stat Prob
1 34.56258 0.0964
2 24.10029 0.5136
3 29.12778 0.2586
4 29.84784 0.2300
5 31.98897 0.1583
145
18.66107 6 0.8131
20.29513 7 0.7312
25.89887 8 0.4130
33.84692 9 0.1112
16.11888 10 0.9112
Probs from chi-square with 25 df.
146
PHỤ LỤC B
VAR Granger Causality/Block Exogeneity Wald Tests
Date: 05/22/17 Time: 14:01
Sample: 2002M01 2016M12
Included observations: 178
Dependent variable: IP
Excluded
Chi-sq
Prob.
df
CPI
1.972457
0.3730
2
M2
16.18039
0.0003
2
IR
1.324776
0.5156
2
LNVNI
18.70077
0.0001
2
All
31.49056
0.0001
8
Dependent variable: CPI
Excluded
Chi-sq
Prob.
df
IP
0.353304
0.8381
2
M2
14.86870
0.0006
2
IR
17.75987
0.0001
2
LNVNI
2.576917
0.2757
2
All
48.28648
0.0000
8
Dependent variable: M2
Excluded
Chi-sq
Prob.
df
IP
16.28487
0.0003
2
CPI
16.28563
0.0003
2
IR
2.710113
0.2579
2
LNVNI
4.642226
0.0982
2
All
47.76317
0.0000
8
Dependent variable: IR
KIỂM ĐỊNH NHÂN QUẢ GRANGER VÀ KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH SVAR
Prob.
Excluded
Chi-sq
df
0.7913
IP
0.468034
2
0.0019
CPI
12.53857
2
0.0227
M2
7.571937
2
0.1481
LNVNI
3.820162
2
0.0000
All
34.16549
8
Dependent variable: LNVNI
Prob.
Excluded
Chi-sq
df
0.6646
IP
0.817160
2
0.1700
CPI
3.543846
2
0.4833
M2
1.454330
2
0.8966
IR
0.218378
2
0.4773
All
7.563099
8
Structural VAR Estimates
Date: 05/26/17 Time: 08:44
Sample (adjusted): 2002M04 2016M12
Model: Ae = Bu where E[uu']=I
Restriction Type: short-run pattern matrix
A =
0
0
1
0
0
0
0
1
0
0
0
0
0
0
C(5)
1
C(1)
0
0
0
0
C(6)
C(8)
0
1
0
0
0
0
C(9)
C(2)
C(11)
1
C(16)
0
0
0
C(3)
C(12)
1
C(14)
0
C(7)
C(10)
C(4)
C(13)
C(15)
C(17)
1
B =
0
0
C(18)
0
0
0
0
0
C(19)
0
0
0
0
0
0
C(20)
0
0
0
0
0
0
0
0
C(21)
0
0
0
0
0
0
0
0
C(22)
0
0
0
0
0
0
C(23)
0
0
0
0
0
0
0
C(24)
147
Coefficient
Std. Error
z-Statistic
Prob.
C(1)
-5.258834
5.511905
-0.954086
0.3400
C(2)
-2.099572
1.778810
-1.180324
0.2379
C(3)
1.889856
1.099235
1.719247
0.0856
C(4)
-5.080382
5.864415
-0.866307
0.3863
C(5)
-0.026361
0.073782
-0.357280
0.7209
C(6)
-0.009437
0.006860
-1.375535
0.1690
C(7)
-0.104286
0.077123
-1.352209
0.1763
C(8)
0.007748
0.006969
1.111821
0.2662
C(9)
0.053863
0.022026
2.445408
0.0145
C(10)
-0.105876
0.079953
-1.324236
0.1854
C(11)
0.019726
0.223683
0.088188
0.9297
C(12)
-0.089877
0.117474
-0.765081
0.4442
C(13)
1.433462
0.841906
1.702638
0.0886
C(14)
-0.232225
0.250554
-0.926847
0.3540
C(15)
-0.067326
0.317111
-0.212311
0.8319
C(16)
0.987278
0.864534
1.141977
0.2535
C(17)
-0.751966
0.608777
-1.235207
0.2168
C(18)
0.108323
0.005757
18.81489
0.0000
C(19)
8.092346
0.430103
18.81489
0.0000
C(20)
7.943456
0.422190
18.81489
0.0000
C(21)
0.738330
0.039242
18.81489
0.0000
C(22)
2.127994
0.365487
5.822347
0.0000
C(23)
1.156934
0.240793
4.804677
0.0000
C(24)
8.256151
0.438809
18.81489
0.0000
Log likelihood
-2544.433
LR test for over-identification:
Chi-square(4)
19.09077
Probability
0.0008
Estimated A matrix:
1.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
1.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
-5.258834
-0.026361
1.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
-0.009437
0.007748
1.000000
0.000000
0.000000
0.000000
-2.099572
0.000000
0.053863
0.019726
1.000000
0.987278
0.000000
1.889856
0.000000
0.000000
-0.089877
-0.232225
1.000000
0.000000
-5.080382
-0.104286
-0.105876
1.433462
-0.067326
-0.751966
1.000000
Estimated B matrix:
148
0.108323
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
8.092346
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
7.943456
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.738330
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
2.127994
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
1.156934
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
0.000000
8.256151
149
150
PHỤ LỤC C: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH SỰ PHÙ HỢP CỦA CÁC MÔ HÌNH VAR
Mô hình VAR01: Yt = f(IPt, CPIt, M2t, IRt, SRt, Zerost)
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
1.5
1.0
0.5
0.0
-0.5
-1.0
-1.5
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
Hình C.1 Kết quả kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo mô hình VAR01
VAR Residual Serial Correlation LM Tests
Null Hypothesis: no serial correlation at lag order
Date: 06/04/17 Time: 22:24
Sample: 2002M01 2016M12
Lags
LM-Stat
Prob
1
50.84430
0.0515
2
57.99486
0.0115
3
56.05714
0.0177
4
26.59971
0.8732
5
36.88104
0.4280
6
36.15767
0.4613
7
42.51083
0.2110
8
34.33022
0.5481
9
55.05473
0.0219
10
34.20901
0.5540
Bảng C.1 Kết quả kiểm định tương quan chuỗi của phần dư mô hình VAR01
151
Mô hình VAR02: Yt = f(IPt, CPIt, M2t, IRt, SRt, TVt)
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
1.5
1.0
0.5
0.0
-0.5
-1.0
-1.5
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
Hình C.2 Kết quả kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo mô hình VAR02
VAR Residual Serial Correlation LM Tests
Null Hypothesis: no serial correlation at lag order h
Date: 06/08/17 Time: 15:58
Sample: 2002M01 2016M12
Lags
LM-Stat
Prob
1
33.46393
0.5898
2
37.10378
0.4179
3
33.22543
0.6013
4
30.22571
0.7392
5
39.52934
0.3152
6
23.58331
0.9447
7
36.75914
0.4335
8
26.96627
0.8619
9
34.89142
0.5212
10
30.30177
0.7359
Bảng C.2 Kết quả kiểm định tương quan chuỗi của phần dư mô hình VAR02
152
Mô hình VAR03: Yt = f(IPt, CPIt, M2t, IRt, SRt, LRt)
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
1.5
1.0
0.5
0.0
-0.5
-1.0
-1.5
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
Hình C.3 Kết quả kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo mô hình VAR03
VAR Residual Serial Correlation LM Tests
Null Hypothesis: no serial correlation at lag order h
Date: 06/09/17 Time: 13:47
Sample: 2002M01 2016M12
Lags
LM-Stat
Prob
1
55.36516
0.0205
2
36.27416
0.4559
3
40.64152
0.2733
4
29.57146
0.7667
5
45.10875
0.1420
6
23.58822
0.9446
7
48.71271
0.0767
8
35.69434
0.4830
9
31.56093
0.6797
10
38.73783
0.3472
Probs from chi-square with 36 df.
Bảng C.3 Kết quả kiểm định tương quan chuỗi của phần dư mô hình VAR03
153
Mô hình VAR04: Yt = f(IPt, CPIt, M2t, IRt, SRt, Turnovert)
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
1.5
1.0
0.5
0.0
-0.5
-1.0
-1.5
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
Hình C.4 Kết quả kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo mô hình VAR04
VAR Residual Serial Correlation LM Tests
Null Hypothesis: no serial correlation at lag order h
Date: 06/09/17 Time: 13:51
Sample: 2002M01 2016M12
Lags
LM-Stat
Prob
1
52.44945
0.0376
2
44.11840
0.1659
3
29.88461
0.7537
4
34.08776
0.5598
5
54.94263
0.0225
6
36.20201
0.4592
7
39.84119
0.3031
8
31.48950
0.6830
9
35.55941
0.4894
10
29.23210
0.7805
Probs from chi-square with 36 df.
Bảng C.4 Kết quả kiểm định tương quan chuỗi của phần dư mô hình VAR04
154
Mô hình VAR05: Yt = f(IPt, CPIt, M2t, IRt, SRt, MLIt)
Hình C.5 Kết quả kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo mô hình VAR05
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
1.5
1.0
0.5
0.0
-0.5
-1.0
-1.5
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
Yt = f(IPt, CPIt, M2t, IRt, SRt, VNIt)
VAR Residual Serial Correlation LM Tests
Null Hypothesis: no serial correlation at lag order h
Date: 06/09/17 Time: 13:54
Sample: 2002M01 2016M12
Lags
LM-Stat
Prob
1
50.87456
0.0512
2
48.62354
0.0779
3
31.02783
0.7039
4
33.49677
0.5882
5
38.79110
0.3450
6
20.16100
0.9847
7
44.69940
0.1515
8
43.14017
0.1924
9
39.35659
0.3220
10
37.23006
0.4122
Bảng C.4 Kết quả kiểm định tương quan chuỗi của phần dư mô hình VAR04
155
Mô hình VAR06: Yt = f(IPt, CPIt, M2t, IRt, SRt, AILLIQt)
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
1.5
1.0
0.5
0.0
-0.5
-1.0
-1.5
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
Hình C.6 Kết quả kiểm định nghiệm đa thức nghịch đảo mô hình VAR06
VAR Residual Serial Correlation LM Tests
Null Hypothesis: no serial correlation at lag order h
Date: 06/09/17 Time: 13:59
Sample: 2002M01 2016M12
Lags
LM-Stat
Prob
1
55.05542
0.0219
2
36.05298
0.4662
3
38.37061
0.3625
4
29.67738
0.7624
5
55.85212
0.0185
6
28.18201
0.8207
7
46.50083
0.1129
8
26.09462
0.8878
9
32.13945
0.6528
10
36.71375
0.4356
Probs from chi-square with 36 df.
Bảng C.6 Kết quả kiểm định tương quan chuỗi của phần dư mô hình VAR06
156
PHỤ LỤC D: CÁC VĂN BẢN QUYẾT ĐỊNH LÃI SUẤT TÁI CHIẾT KHẤU
VÀ TÁI CẤP VỐN CỦA NHNN GIAI ĐOẠN 2002 - 2016
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
Lãi suất tái chiết khấu (%)
4,5%
496/QĐ-NHNN
18-03-2014
5%
1073/QĐ-NHNN
13-05-2013
6%
643/QĐ-NHNN 25/3/2013
26-03-2013
7%
2646/QD-NHNN
24-12-2012
8%
1289/QĐ-NHNN 29/6/2012
01-07-2012
9%
1196/QĐ-NHNN 8/6/2012
11-06-2012
10%
1081/QĐ-NHNN 25/5/2012
28-05-2012
11%
693/QĐ-NHNN 10/4/2012
11-04-2012
12%
407/QĐ-NHNN 12/3/2012
13-03-2012
13%
929/QĐ-NHNN 29/4/2011
01-05-2011
12%
379/QĐ-NHNN 8/3/2011
08-03-2011
7%
447/TB-NHNN 29/11/2010
01-12-2010
7%
2620/QĐNHNN 05/11/2010
05-11-2010
6%
402/TB-NHNN 27/10/2010
01-11-2010
6%
352/TB-NHNN 27/9/2010
01-10-2010
6%
316/TB-NHNN 25/8/2010
01-09-2010
6%
316/TB-NHNN 25/08/2010
01-09-2010
6%
220/TB-NHNN 24/06/2010
10-08-2010
6%
259/TB-NHNN 27/7/2010
01-08-2010
6%
189/TB-NHNN 31/5/2010
01-06-2010
6%
26/TB-NHNN 26/01/2010
01-02-2010
6%
2664/QĐ-NHNN 25/11/2009
01-12-2009
5,0%
2232/QĐ-NHNN
01-10-2009
5%
837/QĐ-NHNN 10/4/2009
10-04-2009
6,0%
173/QĐ-NHNN 23/1/2009
01-02-2009
7.5%
3159/QĐ-NHNN 19/12/2008
22-12-2008
9,0%
2949/QĐ-NHNN 3/12/2008
05-12-2008
10%
2810/QĐ-NHNN
21-11-2008
2561/QĐ-NHNN 3/11/2008
11%
05-11-2008
2318/QĐ-NHNN 20/10/2008
12.0%
21-10-2008
1316/QĐ-NHNN 10/6/2008
13,0%
11-06-2008
1099/QĐ-NHNN 16/05/2008
11,0%
19-05-2008
1098/QĐ-NHNN 16/5/2008
11,0%
19-05-2008
306/QĐ-NHNN 30/1/2008
6.0%
01-02-2008
1746/QĐ-NHNN 1/12/2005
4,5%
01-12-2005
316/QĐ-NHNN 25/3/2005
4,0%
01-04-2005
20/QĐ-NHNN 07/01/2005
3,5%
15-01-2005
832/QĐ-NHNN 30/7/2003
3,0%
01-08-2003
242/2001/QĐ-NHNN 29/03/2001
4,8%
01-04-2001
157
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
Lãi suất tái cấp vốn (%)
6,5%
496/QĐ-NHNN
18-03-2014
1073/QĐ-NHNN
7%
13-05-2013
643/QĐ-NHNN 25/3/2013
8%
26-03-2013
2646/QD-NHNN
9%
24-12-2012
1289/QĐ-NHNN 29/6/2012
10%
01-07-2012
1196/QĐ-NHNN 8/6/2012
11%
11-06-2012
1081/QĐ-NHNN 25/5/2012
12%
28-05-2012
693/QĐ-NHNN 10/4/2012
13%
11-04-2012
407/QĐ-NHNN 12/3/2012
14%
13-03-2012
2210/QĐNHNN 06/10/2011
15%
10-10-2011
929/QĐ-NHNN 29/4/2011
14%
01-05-2011
692/QĐ-NHNN 31/3/2011
13%
01-04-2011
379/QĐ-NHNN 8/3/2011
12%
08-03-2011
271/QĐNHNN 17/02/2011
11%
17-02-2011
447/TB-NHNN 29/11/2010
9%
01-12-2010
2620/QĐNHNN 05/11/2010
9%
05-11-2010
402/TB-NHNN 27/10/2010
8%
01-11-2010
352/TB-NHNN 27/9/2010
8%
01-10-2010
316/TB-NHNN 25/8/2010
8%
01-09-2010
259/TB-NHNN 27/7/2010
8%
01-08-2010
220/TB-NHNN 24/06/2010
8%
01-07-2010
189/TB-NHNN 31/5/2010
8%
01-06-2010
26/TB-NHNN 26/01/2010
8%
01-02-2010
2664/QĐ-NHNN 25/11/2009
8%
01-12-2009
2232/QĐ-NHNN
7,0%
01-10-2009
837/QĐ-NHNN ngày 10/4/2009
7%
10-04-2009
173/QĐ-NHNN 23/1/2009
8,0%
01-02-2009
3159/QĐ-NHNN 19/12/2008
9.5%
22-12-2008
2949/QĐ-NHNN 03/12/2008
11,0%
05-12-2008
2810/QĐ-NHNN 20/11/2008
12,0%
21-11-2008
2561/QĐ-NHNN 03/11/2008
13,0%
05-11-2008
2318/QĐ-NHNN 20/10/2008
14,0%
21-10-2008
1316/QĐ-NHNN 10/06/2008
15,0%
11-06-2008
1099/QĐ-NHNN 16/05/2008
13,0%
19-05-2008
306/QĐ-NHNN 30/01/2008
7,5%
01-02-2008
1746/QĐ-NHNN 01/12/2005
6,5%
01-12-2005
316/QĐ-NHNN 25/03/2005
6,0%
01-04-2005
20/QĐ-NHNN 07/01/2005
5,5%
15-01-2005
833/QĐ-NHNN 30/7/2003
5,0%
01-08-2003
552/2003/QĐ-NHNN 30/05/2003
6,0%
01-06-2003
131/2003/QĐ-NHNN 17/02/2003
6,6%
01-03-2003
839/2001/QĐ-NHNN 29/06/2001
4,8%
01-07-2001
243/2001/QĐ-NHNN 29/03/2001
5,4%
01-04-2001
158