Tác động của hiệp định CPTPP đến thương mại điện tử của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
lượt xem 5
download
Đối với những nước có trình độ phát triển như Việt Nam thì việc tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới là cơ hội để rà soát, điều chỉnh các quy định tiệm cận hơn với xu hướng thương mại quốc tế hiện đại, trong đó có lĩnh vực thương mại điện tử (TMĐT). Bài viết dưới đây phân tích tác động của hiệp định CPTPP đối với lĩnh vực thương mại điện tử của Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 cũng như đưa ra một số kiến nghị.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tác động của hiệp định CPTPP đến thương mại điện tử của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
- TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH CPTPP ĐẾN THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Ths. Trần Kim Anh Trƣờng Đại học Thƣơng mại Tóm lược: Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế nhờ vào việc đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, tích cực tham gia mạng ưới các hiệp định thương mại tự do đa tầng, đặc biệt là tham gia nhiều các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có thể kể đến Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Bên cạnh đó sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Bài viết dưới đây phân tích tác động của hiệp định CPTPP đối với ĩnh vực thương mại điện tử của Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 cũng như đưa ra một số kiến nghị. Từ khóa: CPTPP, CMCN 4.0, FTA thế hệ mới, Thương mại điện tử. 1. Đặt vấn đề Đối với những nước có trình độ phát triển như Việt Nam thì việc tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới là cơ hội để rà soát, điều chỉnh các quy định tiệm cận hơn với xu hướng thương mại quốc tế hiện đại, trong đó có lĩnh vực thương mại điện tử (TMĐT). Cùng với xu hướng cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0), kinh tế số là yếu tố quan trọng tác động ảnh hưởng lớn đến đời sống, xã hội và cơ cấu của nền kinh tế. Thương mại dần được toàn cầu hóa; công nghệ cao và các mô hình kinh doanh mới ngày càng phát triển. Thị trường TMĐT vì thế cũng được mở rộng, mô hình TMĐT ngày càng đổi mới, các chuỗi cung ứng truyền thống với sự hỗ trợ của sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin trở thành chuỗi cung ứng thông minh, đem lại hiệu quả cho nền kinh tế số nói chung cũng như TMĐT nói riêng. Xây dựng những chiến lược, kế hoạch hành động để tận dụng cơ hội và xử l thách thức từ CPTPP và CMCN 4.0 đến TMĐT sẽ giúp cho Việt Nam nắm bắt được các cơ hội từ các thách thức, từ đó đẩy mạnh phát triển TMĐT. Với góc nhìn ấy, bài viết tập trung phân tích tác động của hiệp định CPTPP đến TMĐT ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0. Ngoài phần đặt vấn đề, nội dung bài viết gồm có 3 phần chính. Phần 2 trình bày tóm tắt phương pháp nghiên cứu và một số cơ sở l luận về FTA thế hệ mới, nội dung về TMĐT trong hiệp định CPTPP, CMCN 4.0. Phần 3 đánh giá tác động của việc thực hiện CPTPP đối với TMĐT ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0. Trên cơ sở đó, phần 4 đề ra một số kiến nghị để thực hiện hiệu quả CPTPP đến TMĐT trong bối cảnh CMCN 4.0. 626
- 2. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu a. Cơ sở lý luận Thuật ngữ ―Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới‖ được sử dụng để chỉ các FTA với những cam kết sâu rộng và toàn diện, bao hàm những cam kết về tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ như các ―FTA truyền thống‖; mức độ cam kết sâu nhất (cắt giảm thuế gần như về 0%, có thể có lộ trình); có cơ chế thực thi chặt chẽ và hơn thế, nó bao hàm cả những lĩnh vực được coi là ―phi truyền thống‖ như: Lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư… Việt Nam hiện nay đã tham gia một số FTA thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) – EVFTA. Trong CPTPP, TMĐT là một trong những lĩnh vực có nhiều cam kết đáng chú theo hướng mở cửa thị trường của Việt Nam cao hơn cam kết WTO. VCCI (2016) tóm tắt nội dung Chương TMĐT của CPTPP tập trung vào 3 nhóm chính: (i) Nhóm các cam kết iên quan tới chính sách đối với TMĐT; (ii) Nhóm các cam kết iên quan tới bảo vệ người tiêu dùng; (iii) Nhóm các cam kết về tôn trọng tự do của các chủ thể tham gia TMĐT. Những cam kết này đặt ra giới hạn đối với quản l Nhà nước, bảo đảm cạnh tranh và minh bạch của thị trường. Vì vậy, CPTPP được dự báo sẽ có tác động đáng kể đến tương lai của TMĐT Việt Nam. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay còn gọi là công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) là khái niệm được sử dụng lần đầu tiên ở Đức vào năm 2011. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc cách mạng công nghiệp này đã xuất hiện từ giữa thế kỷ 20, được phát triển trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3. Hiện nay, cuộc cách mạng đang ở giai đoạn đầu trong quá trình phát triển với đặc trưng kết hợp công nghệ trong các lĩnh vực vật l , số hóa và sinh học (Cục Thông tin KH&CN Quốc gia, 2016). Công nghiệp 4.0 được dự báo là có sự phát triển nhanh chóng và vượt trội, do đó, các quốc gia trên thế giới đã có nhiều sự quan tâm và đánh giá tác động của nó trên mọi lĩnh vực, trong đó, Witkowski (2017) đã chỉ ra sự quan trọng của cuộc cách mạng này trong việc phát triển Logistic và quản trị chuỗi cung ứng. Như vậy, tác động của hiệp định CPTPP đến TMĐT trong bối cảnh CMCN4.0 đặt ra nhiều vấn đề cũng như tạo ra nhiều cơ hội và không ít các thách thức đối với Việt Nam. b. Phương pháp nghiên cứu Về phương pháp nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu, lý luận khác nhau về hiệp định CPTPP cũng như tác động của hiệp định này đến mọi lĩnh vực trong đó có TMĐT. Tác giả dựa vào Cẩm nang doanh nghiệp: Tóm lược Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2016), Văn kiện Hiệp định CPTPP và các tóm tắt của Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI nhằm đánh giá tác động của Hiệp định CPTPP đến TMĐT, đồng thời tác giả thu thập và phân tích các số liệu về TMĐT từ các công bố của Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam trên cơ sở đó đánh giá một số vấn đề mà TMĐT ở Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng một khi các cam kết 627
- trong hiệp định CMTPP được thực hiện. Ngoài ra, tác giả cũng đối chiếu với các văn bản tài liệu về cuộc CMCN 4.0 để phân tích và trình bày rõ những tác động kể trên. 3. Kết quả nghiên cứu a. ột số cam kết chính của CPTPP về T ĐT VCCI (2016) tóm tắt nội dung Chương TMĐT của TPP/CPTPP tập trung vào 3 nhóm chính: (i) Nhóm các cam kết liên quan tới chính sách đối với TMĐT Nhóm này gồm một số cam kết cụ thể về chính sách của Nhà nước đối với các hoạt động TMĐT, trong đó có cam kết không đánh thuế xuất nhập khẩu đối với việc truyền dẫn điện tử (giống WTO); cam kết không phân biệt đối xử giữa các sản phẩm kỹ thuật số tương tự nhau và cam kết thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký số và tôn trọng quyền tự do thỏa thuận phương thức ký số. (ii) Nhóm các cam kết liên quan tới bảo vệ người tiêu dùng Nhóm này bao gồm cam kết ban hành pháp luật về 02 mảng vấn đề: Pháp luật để bảo vệ người tiêu dùngtrên môi trường mạng trước các hành vi gian lận, lừa đảo trong TMĐT; Pháp luật để bảo vệ thông tin cá nhâncủa người dùng trong TMĐT. Đặc biệt, TPP yêu cầu các nước phải có quy định pháp luật để xử lý tin quảng cáo rác như buộc chủ thể phát tin nhắn phải cho ph p người nhận hủy việc nhận, yêu cầu chỉ được phát tin nhắn nếu đã được người nhận đồng ý, v.v. (iii) Nhóm các cam kết về tôn trọng tự do của các chủ thể tham gia TMĐT Đây là nhóm cam kết không trực tiếp gắn với hoạt động thương mại điện tử nhưng tạo tiền đề cho hoạt động TMĐT. Nhóm này bao gồm nhiều cam kết đối với Việt Nam là rất mới. Các nghĩa vụ trong Chương TMĐT của CPTPP không áp dụng cho trường hợp mua sắm công, các biện pháp liên quan tới các thông tin do Chính phủ kiểm soát hoặc chiếm hữu, các ngoại lệ trong các Chương Dịch vụ xuyên biên giới và Đầu tư. Với riêng Việt Nam, Việt Nam có bảo lưu về cơ chế giải quyết tranh chấp, theo đó đối với một số cam kết nhất định (ví dụ cam kết về không phân biệt đối xử, cam kết không bắt buộc phải đặt máy chủ tại Việt Nam, cam kết cho phép truyền thông tin qua biên giới bằng phương tiện điện tử), Việt Nam sẽ không thể bị kiện theo Cơ chế giải quyết tranh chấp cấp Nhà nước trong CPTPP. Mặc dù có các cam kết trên, CPTPP vẫn thừa nhận các quyền liên quan của các nước trong vấn đề này, bao gồm: Quyền áp các loại thuế, phí, lệ phí nội địa đối với các ―nội dung được truyền bằng phương thức điện tử‖, miễn là các loại thuế, lệ phí hoặc khoản thu đó phù hợp với các quy định của Hiệp định; Không áp dụng nghĩa vụ ―không phân biệt đối xử‖ đối với các hoạt động sử dụng các khoản trợ cấp hay tài trợ bởi Chính phủ của một thành viên TPP, bao gồm những khoản vay, bảo lãnh, đảm bảo từ chính phủ đối với sản phẩm số; không áp dụng đối với phát thanh truyền hình; 628
- Có quyền bảo lưu các biện pháp: Bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự công cộng, quyền riêng tư: mỗi nước CPTPP có thể có những yêu cầu quản l riêng đối với việc lưu chuyển thông tin bằng các phương thức điện tử; đối với việc sử dụng và đặt máy chủ (bao gồm cả các yêu cầu để đảm bảo an ninh, bảo mật thông tin liên lạc); có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thực hiện các chính sách công cộng chính đáng. b. Tác động của CPTPP đến T ĐT trong bối cảnh C CN 4.0 Phần này tập trung vào một số tác động có thể có của việc thực hiện các cam kết liên quan nói trên của CPTPP đến TMĐT ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0. i. CPTPP tiếp đà cho TMĐT phát triển Theo Hiệp hội các nhà bán l Việt Nam (AVR), trong vài năm trở lại đây, Việt Nam luôn nằm trong top 30 thị trường bán l hấp dẫn nhất thế giới. Tổng doanh thu bán l hàng hóa năm 2018 cao gấp đôi so với tổng doanh thu năm 2011. Theo Báo cáo Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2019 của Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam, quy mô thị trường trong năm 2018 của TMĐT đạt 7,8 tỉ USD (tăng 30% so với 2017 và tăng gấp đôi so với năm 2015). Nếu tốc độ tăng trưởng của năm 2019 và 2020 tiếp tục ở mức 30% thì tới năm 2020 quy mô thị trường sẽ lên tới 13 tỷ USD. Quy mô này sẽ cao hơn mục tiêu nêu trong Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2016 – 2020, theo mục tiêu này thì quy mô thương mại điện tử bán l (B2C) đạt 10 tỷ USD vào năm 2020. Theo Báo cáo e-Conomy SEA 2018 của Google và Temasek, tốc độ tăng trưởng trung bình năm (Compound Average Growth Rate – CAGR) của quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam giai đoạn 2015 – 2018 được dự báo là 25% và thị trường đạt 33 tỷ USD vào năm 2025. Nếu kịch bản này xảy ra, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam năm 2025 đứng thứ ba ở Đông Nam Á, sau Indonesia (100 tỷ USD) và Thái Lan (43 tỷ USD). Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam năm 2018 cũng cho thấy, tốc độ tăng trưởng trong một số lĩnh vực cụ thể rất ngoạn mục. Đối với lĩnh vực bán l trực tuyến, thông tin từ hàng nghìn website thương mại điện tử cho thấy, tỷ lệ tăng trưởng doanh thu năm 2017 tăng 35%. Khảo sát gián tiếp qua một số doanh nghiệp chuyển phát hàng đầu cho thấy, tốc độ tăng trưởng doanh thu từ dịch vụ chuyển phát từ 62% đến 200%. Năm 2016 đến 2019 là giai đoạn có tốc độ bán l trực tuyến tăng trưởng mạnh. Cụ thể, trong năm 2016 du lịch trực tuyến có tỉ trọng cao hơn bán l trực tuyến, nhưng đã ngang bằng trong năm nay và ước tính đến năm 2025 thì bán l trực tuyến sẽ gấp 1,5 – 2 lần du lịch trực tuyến. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho lĩnh vực TMĐT nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Đối với lĩnh vực thanh toán, theo thông tin từ Công ty cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS), năm 2017, số lượng giao dịch trực tuyến th nội địa tăng khoảng 50% so với 2016, trong khi giá trị giao dịch tăng trưởng tới 75%. Trong lĩnh vực tiếp thị trực tuyến, một số công ty tiếp thị liên kết có tốc độ tăng trưởng năm 2017 đạt từ 100% đến 200%. Đặc biệt, việc ký kết thành công hiệp định CPTPP còn tạo thuận lợi hơn nữa cho vận chuyển trong TMĐT. Cam kết về chuyển phát trong WTO đã rất rộng mở cho Việt Nam với 629
- 100% vốn đầu tư nước ngoài, thực chất các doanh nghiệp chuyển phát của nước ngoài ở Việt Nam hầu như không gặp trở ngại nào. Bên cạnh đó, các cam kết CPTPP còn tạo cơ hội cho thị trường Việt Nam mở rộng quy mô, xuất phát từ tăng trưởng GDP và cải thiện thu nhập của người dân. Theo Ngân hàng Thế giới, dự kiến đến 2030, CPTPP sẽ nâng GDP Việt Nam thêm 1,1 – 3,5%, giúp tăng kim ngạch xuất khẩu thêm 4,2 – 6,9% và tăng nhập khẩu thêm 5,3 – 7,6%. Các cam kết của CPTPP về TMĐT còn tạo ra khung pháp lý an toàn, ổn định, có thể dự đoán trước và làm tiền đề vững chắc cho cho các hoạt động mua sắm trực tuyến xuyên biên giới. Ngoài ra, các cam kết này cũng tạo cơ hội cải thiện các dịch vụ hạ tầng cho TMĐT, từ đó thúc đẩy mạnh mẽ phương thức thương mại này. Có thể nói, CPTPP hầu như không tạo ra thách thức hay khó khăn nào cho TMĐT ở Việt Nam, các cam kết chỉ tạo ra khung pháp l rõ ràng để môi trường TMĐT được ổn định và thuận lợi hơn. Tuy nhiên, cuộc CMCN 4.0 đang đặt ra không ít yêu cầu điều chỉnh mới đối với phạm vi, độ sâu và cách thức cải cách trong nước, thúc đẩy cạnh tranh trên nền tảng công nghệ, chính sách đổi mới và sáng tạo, v.v..., do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần phải năng động đổi mới phương thức kinh doanh toàn diện, ứng dụng công nghệ tối ưu, nhất là trong thời điểm hiện tại đa số chủ thể tham gia kinh doanh đều là các cá nhân, hộ gia đình chưa hiểu rõ về luật thương mại. ii. Tham gia và nâng cấp vị trí trong chuỗi giá trị CPTPP có thể định hướng lại việc Việt Nam tham gia và nâng cấp vị trí trong các chuỗi giá trị, việc thực hiện các cam kết trong CPTPP về TMĐT cũng có nghĩa quan trọng đối với sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam vào thương mại toàn cầu. Thương mại thế giới quanh các sản phẩm hữu hình hiện không còn quan trọng như ngày trước. Do vậy, ưu tiên trong đàm phán tự do hóa thương mại thế giới đã dịch chuyển: từ mua bán hàng hóa vật chất chuyển sang mua bán dịch vụ xuyên biên giới. Các doanh nghiệp lớn nhất nước Mỹ đang chào bán các hàng hóa công nghệ, như với Facebook là công nghệ kết nối con người, Google là hàng loạt công nghệ nền tảng cho hoạt động của Internet, Microsoft là công nghệ phần mềm, Amazon là công nghệ lưu trữ đám mây... Trong phim ảnh thì có Netflix, trong âm nhạc trực tuyến có Apple Music... Loại hàng hóa này được cung cấp vô hình xuyên qua biên giới, nơi các rào cản về thuế còn chưa chín muồi, thậm chí nhiều nước chưa biết ứng xử như thế nào cho phù hợp. Chính ở đây, CMCN 4.0 với nền tảng số hóa đã và đang thay đổi diện mạo thương mại toàn cầu với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Theo đó, ưu tiên cho chính sách thương mại tự do nay đã khác trước. Sẽ không còn quan trọng chuyện cắt giảm thuế, thay vào đó là các hàng rào kỹ thuật mới, liên quan đến công nghệ số, đến chủ quyền số và thông tin người dùng. Bên cạnh đó, bản thân một số công nghệ mới trong CMCN 4.0 cũng đang thay đổi đáng kể hoạt động thương mại ở khu vực. Chẳng hạn, công nghệ blockchain đang được sử dụng trong không ít công đoạn của hoạt động thương mại ở khu vực. Công nghệ này giúp truy xuất các sản phẩm trong chuỗi giá trị toàn cầu (như trường hợp ứng dụng ở Singapore). Blockchain 630
- giúp giảm chi phí logistics (như trường hợp của PSA International, Pacific International Lines Ltd, và IBM Singapore). Blockchain giúp tạo thuận lợi và bảo đảm an toàn thương mại ở các cơ quan hải quan. Blockchain giúp giảm khoảng cách về tài trợ vốn cho thương mại. iii. Cạnh tranh trên nền tảng công nghệ CMCN 4.0 cũng đang đặt ra không ít vấn đề mới đối với tạo lập và bảo vệ cạnh tranh trên thị trường. Đầu tiên phải kể đến việc các nền tảng công nghệ số đang làm gia tăng lợi ích của TMĐT so với thương mại truyền thống. Nghiên cứu của Nielsen Việt Nam cho thấy, hiện nay trung bình một người Việt Nam sở hữu 1,3 chiếc điện thoại, trong đó 70% là smartphone. Hạ tầng công nghệ vững vàng là nền tảng để thương mại điện tử Việt Nam tạo ra doanh số 4 tỷ USD trong năm qua. Đinh Thu Hằng và cộng sự (2018) đã tóm lược một số lợi ích của TMĐT từ thực tiễn nhiều nước trên thế giới: Thứ nhất, TMĐT giúp doanh nghiệp có nhiều thông tin về thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, qua đó nhận thức và khai thác được nhiều cơ hội từ thị trường. Khảo sát của Trung tâm thương mại thế giới (ITC) năm 2017 cho thấy TMĐT xuyên biên giới rất phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ và vừa: hơn 80% doanh nghiệp chỉ có hoạt động TMĐT xuyên biên giới là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy, với các doanh nghiệp ít kinh nghiệm đối với xuất nhập khẩu, TMĐT chính là cánh cửa mở ra những cơ hội kinh tế mới. Thứ hai, TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, bán hàng, tiếp thị và giao dịch. Trong những yếu tố cắt giảm, yếu tố thời gian là đáng kể nhất, vì việc nhanh chóng làm cho thông tin hàng hoá tiếp cận người tiêu thụ (mà không phải qua trung gian) có nghĩa sống còn đối với buôn bán và cạnh tranh buôn bán. Ngoài ra, việc giao dịch nhanh chóng sớm nắm bắt được nhu cầu của thị trường, điều này đặc biệt có nghĩa đối với việc kinh doanh hàng rau quả, hàng tươi sống. Đến năm 2020, dự kiến tại Việt Nam có khoảng 30% dân số tham gia mua sắm online, đạt 350 USD/người. Theo đó, thương mại điện tử trên nền tảng di động và thương mại điện tử định vị sẽ tiếp tục là xu thế chủ đạo trên thế giới, chiếm khoảng 25% tổng mức bán l toàn cầu. Thứ ba, TMĐT giúp tăng chất lượng dịch vụ khách hàng. Chất lượng ấy được thể hiện ở mức độ sẵn có, mức độ kịp thời của thông tin, tư vấn cho khách hàng, các dịch vụ chăm sóc khách hàng sau bán hàng. Các hỗ trợ cho khách hàng về sử dụng sản phẩm, dịch vụ có thể được tiến hành trực tuyến trên mạng giúp giảm thiểu thời gian và chi phí của cả doanh nghiệp và khách hàng. Thứ tư, TMĐT giúp tăng doanh thu. Do có khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn hơn và hầu như không có biên giới, các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh và tận dụng được cơ hội sẽ có nhiều điều kiện để tăng doanh thu. Chẳng hạn, doanh thu bán l hàng hóa của Trung Quốc tăng trung bình khoảng 10%/năm, nhưng doanh thu bán l trực tuyến có mức tăng trưởng hàng năm cao hơn tới 3 lần (Chris 2017). Thứ năm, TMĐT giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Môi trường TMĐT giúp các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa thu hẹp đáng kể chênh lệch về năng lực cạnh tranh (vốn, thị trường, nhân lực, quan hệ, mạng lưới phân phối, v.v.) với các doanh nghiệp 631
- lớn. Khảo sát của ITC năm 2017 cũng cho thấy đánh giá khá tích cực về cơ hội của doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp của nữ doanh nhân từ môi trường TMĐT. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra - bên cạnh các ưu điểm so với loại hình thương mại truyền thống - TMĐT cũng bộc lộ những hạn chế nhất định: Một là, sự phát triển của TMĐT có thể tạo nên xung đột kênh phân phối hoặc tác động tới các kênh phân phối truyền thống (ví dụ loại bỏ các nhà phân phối trung gian và bán l ). Cụ thể, sử dụng hệ thống phân phối nhiều kênh thường rất phức tạp và khó kiểm soát đồng thời có thể gây ra xung đột giữa các kênh trong cùng một hệ thống vì đều cạnh tranh để bán hàng. Chẳng hạn, khi các siêu thị điện máy tổ chức nhân viên bán hàng trực tiếp qua mạng và qua điện thoại và có chiết khấu, các nhân viên kinh doanh ở chi nhánh siêu thị truyền thống (trong cùng hệ thống) có thể nhìn nhận là cạnh tranh không bình đẳng. Ở một chừng mực khác, các cửa hàng, siêu thị truyền thống luôn có hàng trưng bày để khách hàng dùng thử hoặc trải nghiệm thực tế, nhưng sau đó thì khách hàng có thể lại chọn mua cùng sản phẩm qua TMĐT để có giá r hơn. Như vậy, kênh truyền thống thực ra đang tài trợ một phần chi phí bán hàng cho TMĐT, nhưng điều này thường không được tính đến khi xem xét cạnh tranh giữa các kênh bán hàng. Hai là, TMĐT có thể gây nên những bất lợi bắt nguồn từ tính chất mới lạ và tốc độ phát triển nhanh của công nghệ. Một mặt, các công ty TMĐT phải làm quen, điều chỉnh từ phần mềm và cơ sở dữ liệu hiện hành chuyên cho thương mại truyền thống sang hệ thống mới phù hợp hơn với TMĐT. Mặt khác, quá trình làm quen thích ứng với TMĐT đòi hỏi phải đào tạo các nhân viên, nhưng sau đó việc giữ chân các nhân viên này có thể không đơn giản. Chi phí đổi mới công nghệ TMĐT – vốn có sự biến động - cũng có thể vượt quá khả năng chi trả của không ít doanh nghiệp. Ứng xử với các sự cố, rủi ro trong TMĐT cũng là vấn đề không dễ đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là liên quan đến tình trạng đánh cắp thông tin khách hàng, chất lượng hàng thấp hơn so với quảng cáo do nguyên nhân từ bên thứ ba, v.v. Ba là, nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với những trở ngại về văn hoá và luật pháp trong TMĐT. Một bộ phận người tiêu dùng còn e ngại việc gửi số th tín dụng trên Internet, có một số người tiêu dùng khác thường sử dụng thanh toán qua ví điện tử và làm chi phí thanh toán có thể cao hơn cho doanh nghiệp. Quan trọng hơn, nếu chính sách, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến TMĐT có sự thận trọng quá mức, không theo kịp những tiến bộ mới trong CNTT hoặc các cam kết mới về TMĐT trong các FTA thì doanh nghiệp khó yên tâm đầu tư vào TMĐT. 4. Một số iến nghị CMCN 4.0 vẫn diễn ra nhanh, không phụ thuộc vào chí chủ quan của Việt Nam về tiến độ, phạm vi nỗ lực bắt kịp cuộc cách mạng này. Trong chừng mực ấy, các doanh nghiệp của Việt Nam vẫn có nhiều cơ hội để tận dụng những công nghệ mới. Mức độ tận dụng công nghệ mới và cơ hội kinh tế kèm theo không chỉ phụ thuộc vào khung pháp l , hạ tầng và chính sách đã có, mà chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ cách nhìn nhận, cách tiếp cận và sự tích cực thực chất của Việt Nam đối với CMCN 4.0. Chờ đợi đến khi thấy rõ và đầy đủ cơ hội và thách thức 632
- từ CMCN 4.0 không phải là cách tiếp cận hiệu quả nếu Việt Nam muốn nhanh chóng bắt kịp và vượt lên các nước khác. Tương tự, đặt yêu cầu tận dụng CMCN 4.0 chỉ sau khi hoàn thiện khung pháp l và hạ tầng thanh toán cũng không phải là tối ưu, bởi kinh nghiệm của một số nền kinh tế cho thấy sự k m phát triển của th tín dụng có thể lại là cơ hội cho các phương thức thanh toán mới, thân thiện hơn với TMĐT. Cuối cùng, lo ngại về các vấn đề thuộc lợi ích quốc gia, lợi ích chiến lược là cần thiết, song cần tránh đứng xa những thông lệ, cách tiếp cận quốc tế tốt nhất đối với CMCN 4.0. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam cũng cần tư duy thấu đáo, kịp thời hơn về cách thức thực hiện hiệu quả CPTPP. Một mặt, Việt Nam cần tâm thế chủ động hơn để thực hiện CPTPP, thay vì chỉ thực hiện các cam kết một cách thụ động. Mặt khác, Việt Nam cần tận dụng ―áp lực tích cực‖ từ CPTPP để nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế nói chung và các quy định về TMĐT nói riêng. a. iến nghị chung Thứ nhất, Chính phủ cần tiếp tục tăng cường phổ biến thông tin về CPTPP - đặc biệt trên các lĩnh vực mới như cạnh tranh, TMĐT, sở hữ trí tuệ và doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tạo điều kiện để các bên có lợi ích liên quan tham gia sâu hơn vào quá trình này. Bên cạnh đó, Việt Nam khuyến khích sự tham gia rộng rãi, tích cực và chủ động hơn của khu vực tư nhân, các hiệp hội ngành, các tổ chức chính trị xã hội và người dân trong việc thực thi các cam kết. Thứ hai, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình cải cách môi trường kinh doanh để tạo ra môi trường thuận lợi. Chuỗi Nghị quyết 19 được ban hành từ năm 2014 (và sau đó được làm mới trong các năm 2015-2016) cần tiếp tục được thực hiện hiệu quả để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là ở những ngành, lĩnh vực gắn nhiều với thành tựu của CMCN 4.0. Thứ ba, Việt Nam cần tăng cường năng lực cạnh tranh hơn nữa để tận dụng được các cơ hội từ CPTPP. Nâng cao năng lực cạnh tranh phải tiến hành đồng thời ở các cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Thứ tư, củng cố năng lực sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng là hướng đi phù hợp về chính sách nhằm đảm bảo Việt Nam sẽ thu được lợi ích từ tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu được củng cố từ quan hệ hợp tác với các đối tác trong khuôn khổ CPTPP. Thứ năm, đẩy mạnh cải cách hành chính trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh, chủ động tận dụng các cơ hội mà CPTPP mang lại. b. iến nghị cụ thể Về chính sách ngành: tập trung hoàn thiện khung chính sách ngành, đặc biệt là chính sách công nghiệp, với các ngành trọng điểm, có lợi thế so sánh tĩnh hoặc lợi thế so sánh động gắn với việc thực hiện CPTPP, có đánh giá về triển vọng và tác động của CMCN 4.0 đối với các ngành, lĩnh vực chủ chốt. Tận dụng không gian chính sách cho ph p để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước và định hướng đầu tư vào các lĩnh vực then chốt được lựa chọn. Khuyến 633
- khích tận dụng các cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng và chất lượng hàng hóa.Thúc đẩy liên kết hiệu quả với các doanh nghiệp FDI, qua đó tạo đà tham gia sâu vào liên kết khu vực. Về chính sách thương mại: Đổi mới cơ chế, chính sách quản l và điều hành xuất nhập khẩu, dựa nhiều hơn vào các công nghệ tiên tiến (blockchain, chính phủ điện tử, v.v...). Tập trung xây dựng các thương hiệu hàng hoá mạnh của quốc gia. Tổ chức lại hệ thống phân phối hàng hoá trong nước và tiếp cận hệ thống phân phối bán l ở thị trường nước ngoài, tăng cường phát triển TMĐT. Đẩy mạnh hoạt động truyền thông và xúc tiến thương mại ở ngoài nước. Phối hợp chính sách thương mại với các chính sách liên quan (dịch vụ, lao động, môi trường, giáo dục – đào tạo, v.v...) nhằm bảo đảm thương mại mang lại nhiều lợi ích hơn cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong nước. Về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh: Hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp cận các nguồn lực: (i) tín dụng chính thức; (ii) lao động có kỹ năng; (iii) khoa học – công nghệ; và (iv) kỹ năng quản trị, đặc biệt là quản trị rủi ro trong điều kiện hội nhập sâu rộng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cục Thông Tin KH&CN Quốc Gia (2016), Cuộc cách mạng công nghiệp ần thứ 4, Hà Nội. 2. Đinh Thu Hằng và cộng sự (2018), Phát triển Thương mại điện tử trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Báo cáo nghiên cứu cho GIZ. 3. Google và Temasek (2018), Báo cáo e-Conomy SEA 2018. 4. Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2019. 5. Phạm Thanh Bình (2018), Thương mại điện tử cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn đầu Cách mạng công nghiệp 4.0. Tạp chí tài chính tháng 8/2018. 6. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI, 2016), Cẩm nang doanh nghiệp: Tóm ược Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). 7. Khảo sát của trung tâm thương mại thế giới ITC (2017). 8. Krzysztof Witkowski (2017). Internet of Things, Big Data, Industry 4.0 – Innovative Solutions in Logistics and Supply Chains Management. Procedia Engineering, 182, 763-769. 9. Trần Anh Thư, Lương Thị Minh Phương (2018), Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số. Tạp chí tài chính tháng 4/2018. 10. Trung tâm WTO và hội nhập – VCCI (2019), Văn kiện Hiệp định CPTPP và các Tóm tắt. 11. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2018), Hội nhập CPTPP trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, Chuyên đề 21. 634
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Các biện pháp phòng vệ thương mại trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với Việt Nam
13 p | 75 | 12
-
Dự báo những tác động của Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
16 p | 49 | 11
-
Hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam trong bối cảnh thực thi Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
16 p | 66 | 9
-
Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết của người lao động với hiệp định CPTPP
10 p | 47 | 8
-
Một số vấn đề về bảo vệ quyền của người lao động trong pháp luật Việt Nam theo cam kết của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
12 p | 43 | 6
-
Các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
14 p | 33 | 6
-
Tác động của hiệp định CPTPP và RCEP tới nhập khẩu nguyên liệu đầu vào của Việt Nam trong bối cảnh tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
19 p | 44 | 6
-
Tác động của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đối với Việt Nam
11 p | 72 | 5
-
Nghiên cứu tác động của Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đến chuyển dịch dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
17 p | 35 | 5
-
Tác động các cam kết của hiệp định CPTPP đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (CPI) tại Việt Nam
11 p | 29 | 4
-
Tác động của cam kết cắt giảm thuế quan nhập khẩu trong CPTPP đối với Việt Nam
10 p | 35 | 4
-
Vai trò đại diện của tổ chức công đoàn cho người lao động trong quan hệ lao động theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương – pháp luật một số quốc gia thành viên và kinh nghiệm cho Việt Nam
9 p | 13 | 4
-
Tác động của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
10 p | 7 | 4
-
Tác động của CPTPP đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ
10 p | 29 | 3
-
Tác động của CPTPP đến lao động ngành Dệt may Việt Nam
4 p | 16 | 3
-
Tác động của hiệp định toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đến công nghiệp chế biến chế tạo Hải Phòng
13 p | 26 | 2
-
Phân tích và dự báo các tác động của Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đến các doanh nghiệp Bình Định
10 p | 40 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn