24 Xã hội học, số 2 - 2009<br />
<br />
<br />
TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG BIẾN ĐỘNG KINH TẾ - XÃ HỘI<br />
TRONG NĂM 2008 TỚI KHU VỰC ĐÔ THỊ<br />
<br />
NGUYỄN XUÂN MAI1 F<br />
0<br />
P<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
2008 là một năm có nhiều biến động về kinh tế và xã hội trong và ngoài nước. Sự<br />
bất ổn định của kinh tế vĩ mô như lạm phát tăng cao, nhập siêu lớn, việc thực thi chính<br />
sách thắt chặt tiền tệ, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu kéo theo sự suy thoái kinh tế<br />
quốc tế đã có tác động sâu sắc về mặt xã hội đối với khu vực đô thị - khu vực hội nhập<br />
kinh tế sâu rộng nhất.<br />
Tác động của những biến động kinh tế xã hội năm 2008 ở các đô thị Việt Nam là<br />
mạnh mẽ và sâu rộng, nhưng trong khuôn khổ bài viết này xin được đề cập các vấn đề<br />
sau:<br />
1. Tình trạng thất nghiệp gia tăng, trong khi nền kinh tế bị giảm phát vào cuối<br />
năm 2008.<br />
2. Lạm phát, suy thoái kinh tế kéo theo sự suy giảm thu nhập và đời sống, các<br />
quan hệ lao động trở nên phức tạp.<br />
3. Khu vực phi chính thức ở đô thị - một lối thoát trước mắt và lâu dài.<br />
4. Mở rộng Hà Nội và công bằng xã hội.<br />
1. Tình trạng thất nghiệp gia tăng trong khi nền kinh tế bị giảm phát vào<br />
cuối năm 2008<br />
Trong năm 2008, nếu lạm phát tăng nhanh và cao vào những tháng đầu, và vào<br />
giữa năm, thâm hụt ngân sách, thâm hụt thương mại lớn, thì vào cuối năm 2008, cuộc<br />
khủng hoảng tài chính ở Mỹ, biến thành cuộc suy thoái kinh tế trên phạm vi toàn cầu,<br />
lại dẫn đến tình trạng giảm phát ở Việt Nam.<br />
Nền kinh tế mở, hướng về xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ trong<br />
nhiều năm qua: năm 2007 xuất khẩu bằng 77% GDP và nhập khẩu bằng 90% GDP. Tuy<br />
nhiên, đến cuối năm 2008, cũng chính nền kinh tế hướng về xuất khẩu ấy lại là nguyên<br />
nhân gây nên giảm phát, trong bầu không khí u ám của suy thoái kinh tế toàn cầu. Bị tác<br />
động mạnh nhất là các lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài, du<br />
lịch, kiều hối. Những tác động này đã làm giảm mạnh đà tăng trưởng kinh tế, bởi các<br />
nhân tố chính cho tăng trưởng ở Việt Nam những năm qua là gia tăng đầu tư và lao<br />
động. Chính phủ đã phải điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 từ 8% xuống<br />
6,5%, nhưng thực tế chỉ đạt mức 6,18% (Vietnamnet 27/3/2009). Về mặt xã hội, sự suy<br />
giảm mạnh FDI có thể dẫn tới lơi lỏng việc đảm bảo quyền lợi của người lao động bị sa<br />
thải, làm yếu đi vai trò của Công đoàn, giảm sút quyết tâm chính trị về bảo vệ môi<br />
<br />
1<br />
PGS.TS, Viện Xã hội học<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Nguyễn Xuân Mai 25<br />
<br />
trường vừa được dấy lên qua vụ Vedan.<br />
Cuộc khủng hoảng toàn cầu cũng làm gia tăng tình trạng thất nghiệp, thiếu việc<br />
làm, giảm thu nhập đối với người lao động do nhiều doanh nghiệp bị phá sản, tạm<br />
dừng sản xuất, thu hẹp phạm vi hoạt động. Theo thống kê của Bộ Lao động, Thương<br />
binh và Xã hội, đến hết năm 2008, cả nước có gần 30 ngàn lao động làm việc trong các<br />
doanh nghiệp bị mất việc do suy giảm kinh tế. Còn theo Tổng liên đoàn Lao động Việt<br />
Nam, mới chỉ tổng hợp báo cáo của liên đoàn lao động 11 tỉnh, thành phố đã có hơn<br />
50.000 lao động thất nghiệp, trong đó TP. Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Cần Thơ mỗi<br />
tỉnh có 8.000 lao động thất nghiệp, Đồng Nai 7.000, Hà Nội 4.600. Dự báo trong năm<br />
2009, khoảng 300 - 400 nghìn công nhân công nghiệp mất việc làm.<br />
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, cả nước có 1.030.000 người thất<br />
nghiệp (cuối năm 2008). Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị ước tính 4,65% (năm<br />
2007 là 4,64%). So với tổng số người lao động ở thành thị là 11.372.000 người thì<br />
con số thất nghiệp là 528.798 người.<br />
Ba nhóm lao động bị ảnh hưởng nhiều nhất là lao động di cư, lao động không<br />
có trình độ tay nghề và lao động theo thời vụ. Khi doanh nghiệp đóng cửa thì nhóm<br />
này thường bị sa thải đầu tiên.<br />
Hiệp hội DNVVN đưa ra nhận định khoảng 20% DNVVN, trong tổng số<br />
300.000 doanh nghiệp, đang đứng bên bờ vực phá sản. Như thế có thể hàng triệu lao<br />
động đã và đang bị thất nghiệp bởi các bất ổn kinh tế.<br />
Về mặt quản lý, việc không nắm bắt được chính xác số lượng lao động thất<br />
nghiệp hay thiếu việc làm đã khiến cho các giải pháp về tạo việc làm và bảo đảm an<br />
sinh xã hội khó có thể đạt hiệu quả cao.<br />
Tình trạng thất nghiệp tăng lên năm 2008 cũng dẫn đến tâm lý bi quan về triển<br />
vọng kinh tế cũng như nỗi lo thất nghiệp trong cư dân đô thị. Cuộc khảo sát của<br />
TNS-Gallup International Vietnam vào trước và sau Tết Kỷ Sửu ở hai thành phố lớn<br />
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cho thấy, 86% tin rằng thất nghiệp sẽ tăng lên ở Việt<br />
Nam trong năm 2009. 35% người được hỏi cho rằng kinh tế sẽ xấu hơn trong 12<br />
tháng tới (Vneconomy, 23/3/2009). Nếu niềm tin vào triển vọng nền kinh tế xấu đi,<br />
nhiều khả năng người dân thành thị sẽ tăng cường thắt chặt chi tiêu, không dám đầu<br />
tư cho sản xuất kinh doanh và hệ quả có thể là suy thoái kinh tế sẽ trầm trọng thêm.<br />
Các giải pháp kinh tế, xã hội, truyền thông cho sự phục hồi niềm tin là rất cần thiết<br />
để có thể tạo cơ sở xã hội vững chắc cho sự phục hồi kinh tế và ổn định xã hội.<br />
2. Lạm phát, suy thoái kinh tế kéo theo sự suy giảm thu nhập và đời sống,<br />
các quan hệ lao động trở nên phức tạp<br />
Lạm phát tăng lên vào những tháng giữa năm 2008, nhất là tháng 5 với CPI tăng<br />
đến 4%, đưa CPI 5 tháng đầu năm lên mức 15,96% - cao nhất trong vòng 12 năm qua.<br />
Với nhóm 8 giải pháp của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
26 Tác động của những biến động kinh tế - xã hội trong năm 2008...<br />
<br />
bảo đảm an sinh xã hội trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu và những khó<br />
khăn trong nước, lạm phát đã được kiềm chế, nhưng vẫn ở ngưỡng cao 20%. Giá tiêu<br />
dùng tháng 12/2008 so với tháng 12/2007 tăng 19,89% và giá tiêu dùng bình quân năm<br />
2008 so với năm 2007 tăng 22,97%. Điều này đã làm cho thu nhập thực tế của nhân<br />
dân, nhất là người làm công ăn lương, dân nghèo và cận nghèo đô thị, nông dân giảm<br />
sút nhiều.<br />
Dù chính phủ đã có các giải pháp tăng trợ cấp cho người về hưu và các đối tượng<br />
chính sách (20%), hỗ trợ cho CNVC có bậc lương dưới 3,0, tăng tiền lương tối thiểu<br />
khu vực doanh nghiệp vào đầu năm 2008,... nhưng đời sống của đa số người dân đô thị<br />
đều bị ảnh hưởng.<br />
Nối tiếp tình trạng lạm phát cao, kinh tế Việt Nam lại phải đương đầu với cơn suy<br />
thoái do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Ở nông thôn và đô thị, thất<br />
nghiệp và thiếu việc làm gia tăng, thu nhập sụt giảm. Người dân phải thắt chặt chi tiêu,<br />
xu hướng bi quan trong tâm lý tiêu dùng của người dân đô thị tăng lên. Cuộc trưng cầu<br />
ý kiến trên VnExpress vào đầu năm 2009 cho thấy hệ quả của lạm phát và suy giảm<br />
kinh tế năm 2008 đã khiến cho 63,3% (trong số 3.447 người trả lời) cho biết họ phải<br />
tiết kiệm tối đa trong cơn khủng hoảng hiện tại. Các cuộc khảo sát nhanh của Oxfam<br />
tại các khu công nghiệp Hà Nội và người nghèo tại Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh<br />
cuối năm 2008 cho thấy tác động của biến động lạm phát, suy thoái kinh tế toàn cầu<br />
đến sinh kế, việc làm, đời sống của công nhân, người nghèo tại các đô thị được khảo<br />
sát là lớn, nhất là đối với người nhập cư, người nghèo và cận nghèo đô thị<br />
(oxfaminvietnam.wordpress.com).<br />
Lạm phát, sút giảm mức sống đã làm quan hệ lao động trở nên căng thẳng tại<br />
nhiều doanh nghiệp khiến gia tăng các cuộc đình công của công nhân tại các đô thị và<br />
khu công nghiệp (10/11/2008 Vnnet). Năm 2006 có 387 vụ đình công, năm 2007 tăng<br />
lên 541 vụ. Tới năm 2008, có tới 650 cuộc đình công trong cả nước, chiếm khoảng<br />
23% tổng số cuộc đình công trong 13 năm qua.<br />
Trong khoảng 2 năm gần đây, yêu cầu của người lao động trong các cuộc đình<br />
công phần lớn là về lợi ích. Riêng các cuộc đình công năm 2007, người lao động đã<br />
đưa ra 836 yêu cầu thì chỉ có 154 yêu cầu về quyền, chiếm 18,4%, nhưng có tới 571<br />
yêu cầu về lợi ích, chiếm 79,6%. Ở Hải Phòng, 98% số vụ ngừng việc tập thể và đình<br />
công tự phát đều xuất phát từ quan hệ kinh tế tại doanh nghiệp giữa tập thể người lao<br />
động với người sử dụng lao động. Tại Bình Dương, qua phân tích 333 cuộc tranh chấp<br />
lao động tập thể cho thấy nguyên nhân về lợi ích kinh tế vẫn là nguyên nhân đầu tiên.<br />
Trong số các cuộc đình công năm 2008, 80% xảy ra tại vùng trọng điểm kinh tế phía<br />
Nam, 81,3% thuộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 71,3% thuộc về các<br />
doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Riêng thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008 có<br />
198 cuộc đình công, tăng 30% so với năm 2007. Bên cạnh đó là sự biến động liên tục<br />
của các dòng lao động phổ thông ở các ngành sử dụng nhiều lao động, tạo nên tình<br />
trạng không ổn định sản xuất của các doanh nghiệp này, bởi thu nhập thực tế của công<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Nguyễn Xuân Mai 27<br />
<br />
nhân ngày càng thấp.<br />
Lạm phát cũng làm trầm trọng thêm tình trạng đình công và biến động lao động,<br />
như là hệ quả sâu xa của chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) bằng giá nhân<br />
công rẻ. Chính chiến lược này làm cho giới sử dụng lao động không chú ý đến quyền<br />
lợi người lao động, không cần trao đổi, thương lượng với họ, còn các cơ quan chức<br />
năng thì không quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ người lao động. Nợ BHXH diễn ra<br />
phổ biến (đến nay số nợ BHXH đã lên tới 2.000 tỷ đồng) làm cho nhiều quyền lợi của<br />
người lao động bị ảnh hưởng (như nghỉ ốm đau, thai sản, trợ cấp thôi việc...). Các vi<br />
phạm khác của các doanh nghiệp FDI xảy ra ở hầu hết các vấn đề: không xây dựng<br />
thang bảng lương; quy chế trả lương, thưởng hoặc chậm trả lương, nợ lương; không<br />
đảm bảo điều kiện an toàn vệ sinh lao động, tăng ca quá mức; sa thải hoặc chấm dứt<br />
hợp đồng lao động trái pháp luật đối với người lao động. Các thể chế lao động cũng<br />
không hoàn chỉnh, làm cho tất cả các cuộc đình công đều không đúng qui trình pháp<br />
luật và không hợp pháp.<br />
Như vậy, ngoài các giải pháp cấp bách về kinh tế, kích thích tạo việc làm và tăng<br />
thu nhập, về an sinh xã hội như bảo hiểm thất nghiệp, kiểm soát chặt chẽ việc đóng<br />
BHXH..., Bộ Luật Lao động cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo cơ chế cho tập<br />
thể người lao động (đại diện là tổ chức công đoàn cơ sở) và người sử dụng lao động<br />
chủ động đối thoại, đàm phán trong việc xác định thang lương, bảng lương và cơ chế<br />
trả lương trả thưởng định kỳ hạn. Nhưng về cơ bản, luật phải tạo điều kiện thông<br />
thoáng hơn nữa cho các bên thực hiện quyền tự thỏa thuận, bảo đảm tính linh hoạt<br />
trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động theo nguyên tắc đồng thuận.<br />
3. Khu vực phi chính thức ở đô thị - một lối thoát trước mắt và lâu dài<br />
Một trong các giải pháp về tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội là phát triển khu<br />
vực kinh tế phi chính thức, cả trong bối cảnh suy thoái trước mắt, lẫn hàng chục năm<br />
tới. Khu vực kinh tế này "bao gồm các đơn vị sản xuất không có tư cách pháp nhân,<br />
không chịu điều chỉnh của luật doanh nghiệp và không có giấy phép kinh doanh". Các<br />
cuộc khảo sát của IDR và Tổng cục Thống kê cho biết, năm 2004, khu vực kinh tế này<br />
tạo ra hơn 10 triệu việc làm, gần một phần ba lực lượng lao động xã hội, chiếm 55,7%<br />
số lao động phi nông nghiệp, đóng góp 20% GDP. Tại các thành thị - nơi tập trung các<br />
hoạt động kinh tế chính thức, khu vực kinh tế này chiếm 41% số lao động. Ở Hà Nội,<br />
khu vực này sử dụng 30% lực lượng lao động, còn ở TP. Hồ Chí Minh tương ứng là<br />
32,9% và một phần ba số hộ gia đình tại hai thành phố này có nguồn thu nhập từ khu<br />
vực kinh tế phi chính thức3. Trong bối cảnh đẩy mạnh CNH-HĐH, việc thu hồi đất<br />
P P<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
nông nghiệp và đất ở, với hàng triệu thanh niên gia nhập lực lượng lao động hàng năm,<br />
đã thúc đẩy mạnh mẽ dòng người di cư từ nông thôn vào các đô thị, cùng với hàng<br />
triệu người tại các đô thị không thể tìm được việc làm chính thức cũng tham gia vào<br />
khu vực này. Việc sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước đã đưa hàng chục vạn<br />
lao động chuyển sang khu vực kinh tế phi chính thức, tránh được các bất ổn xã hội.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
28 Tác động của những biến động kinh tế - xã hội trong năm 2008...<br />
<br />
Mặc dù khu vực kinh tế phi chính thức có vai trò kinh tế và xã hội quan trọng như<br />
vậy, nhưng dường như các chính sách công không khuyến khích sự phát triển và “bỏ<br />
rơi” khu vực này. Việc tiếp cận các yếu tố của sản xuất kinh doanh như tín dụng, đất đai,<br />
đào tạo, thông tin thị trường... hay các chính sách an sinh xã hội như BHXH, BHYT ở<br />
khu vực này là rất khó khăn. Chỉ có 4% doanh nghiệp khu vực này ở TP. Hồ Chí Minh<br />
và 6% ở Hà Nội được vay vốn. Họ cũng không có đất để sản xuất, kinh doanh khi giá đất<br />
ở 2 thành phố lớn này quá cao, trong khi sức ép cạnh tranh lại rất lớn.<br />
Nhiều chính sách quản lý đô thị không tính đến lợi ích của nhóm người yếu thế ở<br />
khu vực kinh tế này. Những chính sách về quản lý trật tự đô thị, hay các nhóm cán bộ<br />
thực thi chính sách dường như không quan tâm đến sinh kế của những nhóm nghèo,<br />
với việc qui định nhiều tuyến phố cấm hàng rong, chợ cóc, trong khi không tổ chức đủ<br />
các điểm họp chợ phù hợp với nhu cầu và lối sống của cư dân đô thị. Các chính sách<br />
cấm xe xích lô, xe thô sơ, xe ba bánh, bắt xe ôm đăng ký hay mặc đồng phục... cũng<br />
hạn chế nhiều cơ hội sinh kế, tăng thêm chi phí kinh doanh của người nghèo đô thị hay<br />
người di cư. Sửa đổi những qui định quản lý đô thị nêu trên và cách thức thực thi<br />
chúng là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh suy giảm kinh tế hiện nay.<br />
4. Mở rộng Hà Nội và công bằng xã hội<br />
Một sự kiện nổi bật trong năm 2008 là mở rộng địa giới Hà Nội với sự sát nhập<br />
toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc và 4 xã huyện Lương Sơn, Hòa Bình.<br />
Tỉnh Hà Tây chỉ trong một thời gian ngắn, trước khi nhập về Hà Nội đã phủ kín<br />
75% quĩ đất nông nghiệp bằng 744 dự án, phần lớn là dự án bất động sản, với qui mô<br />
75.100 ha (Lao động 4/5/2009). Theo tính toán của Cục Hợp tác xã và Phát triển nông<br />
thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) hiện nay, trung bình mỗi hộ nông dân<br />
có 1,5 lao động và mỗi hecta đất bị thu hồi sẽ ảnh hưởng tới việc làm của trên 10 lao<br />
động nông nghiệp. Như thế việc thu hồi số đất cho 744 dự án sẽ ảnh hưởng đến việc<br />
làm của khoảng trên 750.000 lao động nông thôn Hà Tây và cuộc sống của hàng triệu<br />
con người. Một tác động sâu rộng như vậy, nhưng không hề có sự nghiên cứu về tác<br />
động của việc thu hồi đất qui mô lớn đối với nông dân, nông thôn, nông nghiệp, không<br />
có các kế hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu nghề nghiệp, đào tạo nghề cho nông<br />
dân bị mất đất và đào tạo cán bộ cho quá trình này. Vấn đề là ai sẽ hưởng lợi từ quá<br />
trình mở rộng đô thị này? Cứ cho là sẽ có khoảng 2.4 triệu người ở trong các khu đô thị<br />
mới, theo bản vẽ của các dự án và họ sẽ phải mua đất ở với giá khoảng 20 - 45 triệu/m2, P P<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
như giá bán của các dự án trên thị trường hiện nay, trong khi người nông dân được đền<br />
bù khoảng vài trăm ngàn đồng/ m2. Giá thành đất dự án chỉ vào khoảng 2 - 4 triệu/m2.<br />
P P P P<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Như vậy lợi ích to lớn của quá trình mở rộng đô thị sẽ rơi vào tay các chủ đầu tư, các<br />
nhóm có suất VIP, giới đầu cơ. Ai sẽ ở trong các dự án đô thị mới như vậy, phải chăng là<br />
người nghèo hay thu nhập thấp? Họ sẽ không thể ở trong nhưng ngôi nhà biệt thự, nhà<br />
vườn, nhà liền kề với trị giá 3 - 10 tỷ đồng và cũng không thể ở trong các căn hộ chung<br />
cư kinh doanh thương mại, đang có giá thị trường từ 11 - 30 triệu/m2 và trên 1 tỷ/căn hộ,<br />
P P<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
trong khi giá thành chỉ từ 4 - 10 triệu/m2. Họ chỉ hy vọng phần nào vào chương trình nhà<br />
P P<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Nguyễn Xuân Mai 29<br />
<br />
ở xã hội, dù được ban hành khá lâu, và đang được cố gắng thúc đẩy hiện nay, nhưng<br />
chưa có bằng chứng thành công thực tiễn.<br />
Có lẽ vì những chênh lệch lợi ích như thế, nên chỉ trong thời gian 1 năm, từ ngày<br />
29.5.2008, Thủ tướng cho Quốc hội biết: “Trong phạm vi dự kiến mở rộng Hà Nội, có<br />
hơn 300 dự án đang chờ trình duyệt”, đã có thêm trên 400 dự án được duyệt. Quả là<br />
cuộc cách mạng về thủ tục đầu tư! Phải chăng cần xem xét trách nhiệm của những<br />
người đã ra các quyết định phê duyệt 400 dự án này, để lại nhiều hệ quả nghiêm trọng<br />
cho việc qui hoạch Hà nội mở rộng?<br />
Những khảo sát về cuộc sống người dân tái định cư ở các đô thị Việt Nam thời<br />
gian qua chỉ cho thấy bức tranh khá ảm đạm. Tại 12 khu tái định cư (KTĐC) ở Hà nội,<br />
trong một điều tra mới đây của Viện NCPTKTXH Hà Nội, có 5 KTĐC có tỷ lệ người<br />
không có việc làm từ 20 - 41%, 5 KTĐC có tỷ lệ phải chuyển đổi việc làm mới trong<br />
khoảng 30-80%. Nhiều hộ tại các KTĐC trước đây có nhà xưởng, cửa hàng (tỷ lệ 20 -<br />
29% tại 6 KTĐC) nay về nơi ở mới mất hẳn nguồn sinh kế này. Hầu hết hộ gia đình<br />
giảm sút mức sống sau khi TĐC, kể cả các hộ thuộc nhóm khá giả. Trên 50% người trả<br />
lời phàn nàn về chất lượng nhà ở và hạ tầng kỹ thuật và xã hội của KTĐC2. P P<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bên cạnh đó sẽ hình thành trong tương lai, bức tranh tương phản về sự giàu<br />
nghèo, về sự thiếu kết nối cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội giữa các khu đô thị mới và<br />
những làng xóm cũ, về cái gọi là tình trạng cư trú tách biệt, về tình tình trạng thất<br />
nghiệp của hàng triệu con người mất đất, sẽ làm gia tăng mâu thuẫn xã hội, mà người<br />
ta có thể liên tưởng đến tình trạng bạo loạn ở ngoại ô Paris năm 1968 và gần đây. Các<br />
mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội, không được xử lý hợp lý trong quá trình<br />
phát triển đô thị có thể làm cho nguy cơ bùng phát trở lại những tranh chấp, khiếu kiện<br />
về đất đai bị thu hồi một thời ở Hà Tây cũ, từng làm nản lòng nhiều nhà đầu tư, giờ đây<br />
sau khi sáp nhập vào Hà Nội, sẽ gây bất ổn xã hội.<br />
Tất cả những vấn đề bức xúc kể trên cho thấy sự phát triển xã hội và con người<br />
chưa được coi trọng, đặc biệt đối với các nhóm yếu thế và bị tác động của các dự án<br />
phát triển đô thị. Cũng không phải ngẫu nhiên, Hà Nội đang xem xét lại 744 dự án nói<br />
trên và điều chỉnh chúng, nhằm phù hợp với định hướng qui hoạch chung Hà Nội, cũng<br />
như khắc phục sự “lãng quên” số phận của hàng triệu người nông dân đang bị mất đất<br />
đai và sinh kế vì sự phát triển đô thị.<br />
Tóm lại, việc hoạch định chính sách phát triển đô thị theo hướng phát triển bền vững<br />
là bức thiết, mà ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế hiện tại là lời nhắc nhở nghiêm túc<br />
đối với những người có trách nhiệm và cả cộng đồng đô thị. Việc điều chỉnh lại các thể<br />
chế, điều tiết lợi ích theo hướng giảm thiểu bất bình đẳng xã hội, nâng cao vai trò của nhà<br />
nước, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường sự tham gia của cộng đồng và<br />
các tổ chức xã hội dân sự, trong giai đoạn đô thị hóa nhanh, là các giải pháp cần thiết<br />
nhằm phát triển đô thị bền vững ở nước ta hiện nay.<br />
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, biến động<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
30 Tác động của những biến động kinh tế - xã hội trong năm 2008...<br />
<br />
kinh tế trong nước, các thảm họa thiên nhiên và dịch bệnh ngày càng khốc liệt đang đòi hỏi<br />
một cách hết sức bức thiết việc hoàn thiện nhanh chóng hệ thống an sinh xã hội như một ưu<br />
tiên hàng đầu trong quá trình phát triển. Các chính sách an sinh xã hội cần có những thay đổi<br />
mạnh mẽ, trong đó BHXH cần hướng tới chương trình toàn dân về dài hạn và tập trung ưu<br />
tiên trong trung hạn và ngắn hạn. Trong ngắn hạn và trung hạn, việc mở rộng phạm vi bao<br />
phủ của BHXH phải tập trung vào việc khắc phục nguy cơ tổn thương của các hộ gia đình<br />
khi đau ốm, thất nghiệp hoặc về già. Trợ cấp lương hưu xã hội không phải đóng góp và<br />
phát thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo là hai biện pháp có nhiều triển vọng. Tăng cường các<br />
biện pháp nhằm khắc phục tình trạng không có khả năng chi trả cho các dịch vụ cơ bản<br />
của người nghèo, nhất là trong giáo dục và y tế. Sử dụng giải pháp “xã hội hoá” trong từng<br />
trường hợp cụ thể phải kèm theo việc tìm hiểu thận trọng về những tác động tiềm ẩn của<br />
nó (những tác động đó thường lớn hơn dự kiến), có lộ trình và bước đi thích hợp nhằm hạn<br />
chế những tác động tiêu cực đến các nhóm xã hội yếu thế. Tập trung nguồn lực nhà nước<br />
vào giáo dục tiểu học và THCS, hệ thống y tế cơ sở, cũng như vào việc tăng khả năng tiếp<br />
cận giáo dục cho các nhóm xã hội yếu thế.<br />
Tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư của khu vực tư nhân và các doanh nghiệp nhỏ<br />
và vừa, nhằm tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.<br />
Chú trọng việc khuyến khích sự phát triển khu vực kinh tế không chính thức ở đô thị<br />
trong khoảng 15 - 20 năm, như một bước quá độ của thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại<br />
hóa.<br />
<br />
Tài liệu tham khảo<br />
<br />
1. BKH&ĐT 2009, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2008 và kế hoạch phát triển<br />
kinh tế xã hội năm 2009<br />
2. Viện NCPTKTXH Hà Nội 2009, Báo cáo điều tra đời sống KT - XH của các hộ gia<br />
đình tái định cư trên địa bàn Hà Nội.<br />
3. Mireille Razafindrakoto, Franỗois Roubaud, Lê Văn Dụy 2008, Thống kê khu vực<br />
kinh tế phi chính thức ở Việt Nam: Thực trạng và triển vọng. http://iss.gso.gov.vn<br />
U U<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
4. Harvard Kennedy School 2008, Bài thảo luận chính sách 1,2,3<br />
5. Trịnh Duy Luân, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Xuân Mai, 2009. Báo cáo xã hội 2008.<br />
Viện Xã hội học<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />