intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên: Một số vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học

Chia sẻ: Mã Thiên Vũ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:43

50
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên: Một số vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học có nội dung trình bày về một số nguyên tắc khi ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, giới thiệu phần mềm xây dựng câu hỏi trắc nghiệm, thực hành xây dựng một số đề trắc nghiệm, trao đổi kinh nghiệm dạy học và sử dụng phần mềm dạy học,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên: Một số vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH QUẢNG BÌNH TÀI LIỆU  BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN MỘT SỐ VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN  TRONG DẠY HỌC Quảng Bình, tháng 10/2013 1
  2. MỤC LỤC 2
  3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC Để  giúp các giáo viên có thêm tư  liệu và kiến thức về  dạy học  ứng  dụng công nghệ  thông tin, nhóm tác giả  đã sưu tầm biên soạn tập tài liệu  “Một số vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học”  1. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC 1.1. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT)   Trong những năm gần đây  ở  Quảng Bình số  lượng giáo viên (GV) sử  dụng máy tính trong việc dạy học tăng lên một cách đáng kể. Điều này đóng   một vai trò rất quan trọng trong sự  nghiệp giáo dục của tỉnh nhà. Tình hình   thực tế  cho thấy, chúng ta  đã và đang bước vào một kỷ  nguyên mới, kỷ  nguyên của CNTT mà trong đó phần mềm dạy học (PMDH) là một trong   những tiềm năng rất lớn có thể thay đổi giáo dục của nước ta. Sự phát triển   của CNTT đã mở  ra một cuộc cách mạng đẩy mạnh quá trình cải cách giáo   dục trên toàn quốc. Trước tiên phải nói rằng PMDH là một công cụ phục vụ  giảng dạy và học tập có nhiều ưu điểm và phù hợp trong tình hình hiện nay,  qua đó học viên (HV) có thể  tư duy sáng tạo hay khám phá những kiến thức  mới, giúp HV đi xa hơn, vượt qua những hạn chế  của bài giảng trong sách  giáo khoa (SGK) ở trường học. Tuy vậy, việc ứng dụng CNTT trong học đường vẫn đang chỉ dừng lại  ở  việc trang bị  máy tính và kết nối internet, chứ  chưa hoàn toàn khai thác   được những  ứng dụng của CNTT để  đổi mới phương pháp dạy học, chưa   trang bị  cho giáo viên những tri thức mới, chưa giúp GV biết dùng CNTT để  khai thác thông tin hữu ích.    * Thuận lợi: + GV nhìn chung là biết ngoại ngữ, thuận lợi trong việc sử dụng máy  tính và  truy cập internet tìm kiếm thông tin. + Nhiều GV có kỹ  năng sử  dụng CNTT như: biết khai thác thông tin   trên  internet, tự nghiên cứu tìm hiểu và sử dụng được PMDH. + Nhiều đơn vị đã cố gắng tạo điều kiện cho GV được tiếp cận và sử  dụng máy vi tính (MVT). 3
  4. * Khó khăn:        + Không ít GV chưa có kỹ  năng sử  dụng CNTT, nhất là kỹ  năng sử  dụng phần mềm chuyên dụng trong giảng dạy.        + Một số  GV còn có tâm lý ngại tìm hiểu vì sợ  khó, khả  năng ngoại  ngữ cũng như năng lực sử dụng CNTT còn nhiều hạn chế nên chưa sử dụng   thành thạo và  chưa hướng dẫn được cho HV trong quá trình học tập. 1.2. Hiệu quả sử dụng CNTT trong dạy học và quản lý dạy học 1.2.1. Vấn đề quản lý lớp học và việc sử dụng CNTT trên lớp Những hạn chế  về  sử  dụng CNTT trong lớp học thường  được giải  thích bởi hạn chế  về  trang thiết bị, tài nguyên. Tuy nhiên, thực tế  cho thấy,   không ít trường học được trang bị  đầy đủ  thiết bị  CNTT và tài nguyên giáo  dục nhưng giáo viên vẫn ít sử  dụng CNTT trong dạy học. Nghiên cứu chỉ  ra   rằng, một trong những nguyên nhân chính đó là CNTT mang đến một số hạn  chế mới trong việc quản lý tiết dạy của giáo viên. Lớp học là một môi trường học tập có kiểm soát. Trong dạy học, giáo  viên thường  ưu tiên hàng đầu cho việc duy trì trật tự, quản lý lớp học.  Ứng   dụng CNTT vào dạy học làm hạn chế việc quản lý lớp học của giáo viên. Vì  vậy, nhiều giáo viên e ngại và không muốn áp dụng CNTT trên lớp với HV. Theo nghiên cứu của Khaneboubi (2009), máy tính không tạo điều kiện  cho sự tham gia nói (phát biểu, thảo luận) của HV mà mang đến một số  khó  khăn cho sự diễn tiến bình thường của tiết học. Phần lớn giáo viên nói rằng,  khi HV sử dụng máy tính trong lớp học, HV hướng về màn hình. Khi đó, màn  hình là tất cả đối với HV; HV thường xuyên quan tâm đến thứ khác và không   nghe giảng. Điều đó dẫn đến khó khăn hơn trong việc làm cho HV tham gia  vào hoạt động học tập mà giáo viên phát vấn, khó khăn hơn để  làm cho HV   nghe mệnh lệnh sư phạm của giáo viên.  Trong lớp học bình thường, HV không làm theo yêu cầu của giáo viên  sẽ  có những hành vi khác thường mà giáo viên dễ  nhận biết. Tuy nhiên, khi  dạy học với máy tính thì khó khăn hơn để giáo viên nhận biết những hành vi  này của HV. Ví dụ, vẽ  vời, nói chuyện hay nhìn ra cửa sổ  là những hành vi  giáo viên dễ dàng nhận thấy trong lớp học thông thường thì chát (chat), chơi   trò chơi trên mạng hay gửi thư  điện tử  lại là những hành vi khó nhận dạng   4
  5. được qua ngôn ngữ  hay cử  chỉ  của HV. Đôi khi, màn hình máy tính làm hạn   chế việc quan sát HV trong lớp học. Vì vậy, nếu sử  dụng máy tính trong lớp học thì giáo viên phải có kỹ  năng sư  phạm tốt để  quản lý đồng thời màn hình và tình huống sư  phạm  nhằm đạt được mục đích dạy học tại mỗi thời điểm. Hoạt động, hành vi học   tập của HV khi học với máy tính khác với lớp học thông thường. Giáo viên  phải quản lý lớp học và HV theo cách khác với lớp học thông thường. Hơn  nữa, để  quản lý lớp học với máy tính giáo viên vừa phải có nghiệp vụ  sư  phạm tốt vừa phải có kỹ năng sử dụng máy tính thành thạo. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng, việc sử dụng CNTT trong lớp gắn liền   với kinh nghiệm, khả năng nghề nghiệp. Thực tế cho thấy giáo viên từ 30­49   tuổi, là giáo viên sử dụng thường xuyên nhất CNTT trong lớp học. Giáo viên  sử  dụng CNTT thường xuyên nhất trong lớp học là giáo viên có kỹ  năng sư  phạm phù hợp với ngữ cảnh mới.  Giáo   viên   trẻ   (dưới   30   tuổi)   không   phải   là   người   sử   dụng   CNTT   thường xuyên nhất. Nguyên nhân có thể  là do mới ra trường giáo viên trẻ  chưa có nhiều kinh nghiệm, giáo viên trẻ cần dành thời gian để nâng cao trình  độ  chuyên môn, nghiệp vụ. Những giáo viên  ở  tuổi trung niên đã vững vàng  trong chuyên môn, nghiệp vụ, họ  tự  tin trong việc đổi mới, cải tiến nghiệp  vụ. Những giáo viên sử  dụng thường xuyên CNTT trong lớp học không e  ngại HV làm  ồn ào trong lớp học hay không làm theo yêu cầu của giáo viên.  Họ  biết cách kiểm tra, quản lý màn hình của HV và có những biện pháp   nghiệp vụ  để  thu hút sự  chú ý của HV. Họ  cũng có kinh nghiệm trong việc  xác định những HV không tuân thủ mệnh lệnh sư phạm thông qua những thao   tác với máy tính. Họ  cũng không sợ  tiết dạy bị  bế tắc bởi những vấn đề  kỹ  thuật, bởi  vì  họ  có thể  dự  kiến trước những cách  để   ứng biến với kinh  nghiệm kỹ thuật, sư phạm của họ. Mối quan hệ giữa việc quản lý lớp học và sử  dụng CNTT có thể  giúp  giải thích phần nào việc giáo viên sử dụng rất thường xuyên phần mềm trình  chiếu trên lớp như  hiện nay. Dễ  thấy rằng, về mặt kỹ thuật, sử dụng phần   mềm trình chiếu là đơn giản; trình chiếu giúp giáo viên chủ động về nội dung   5
  6. trình bày trên lớp; đồng thời, giáo viên vẫn quản lý lớp học như  lớp học  truyền thống. 1.2.2. Vấn đề bồi dưỡng, tập huấn giáo viên về CNTT Mối liên hệ  giữa quản lý lớp học và sử  dụng CNTT trên lớp đặt câu   hỏi về vấn đề bồi dưỡng, tập huấn giáo viên ứng dụng CNTT trong dạy học. Việc bồi dưỡng giáo viên đóng vai trò quyết định trong việc làm tăng  sự  tự  tin, mạnh dạn của giáo viên trong việc  ứng dụng CNTT trên lớp học   (Carugati & Tomasetto, 2002).  Nội dung bồi dưỡng không chỉ  là kỹ  năng sử  dụng thiết bị  CNTT mà  trước hết đó phải là năng lực, nghiệp vụ sư phạm trong môi trường dạy học  mới ­ môi trường dạy học có sử dụng CNTT.  Phần lớn các khóa tập huấn giáo viên sử dụng CNTT tập trung vào các   khía cạnh kỹ thuật CNTT. Giáo viên ít được tập huấn về thực hành ứng dụng   CNTT vào dạy học và kết hợp CNTT vào chương trình giảng dạy. Giáo viên  chưa được hướng dẫn làm thế nào để  cải tiến, điều chỉnh, thay thế dạy học  truyền thống. Sau khi tham dự  một khóa học, giáo viên vẫn không biết làm  thế nào để sử  dụng CNTT để  giảng dạy với HV. Không ít giáo viên đã thực  hành sử dụng CNTT trong dạy học với HV rồi lại quay lại cách dạy học cũ.  Hay nói cách khác, nhiều khóa học có rất ít tác động lâu dài đến việc tích hợp  CNTT của giáo viên trong dạy học. Tập huấn giáo viên không phải để họ trở thành "tín đồ" của CNTT mà   giáo viên cũng cần có tư  duy phê phán việc lạm dụng CNTT trong dạy học.   Giáo viên không chỉ biết  ứng dụng CNTT linh hoạt với việc dạy học mà còn  biết thay đổi, cải tiến thói quen dạy học truyền thống để phù hợp với CNTT. * Thảo luận, kiến nghị Ở nước ta, chủ trương đưa tin học vào nhà trường đã có từ những năm   90 của thế kỷ trước. Nhiều chương trình, dự án đã được triển khai nhằm đẩy   mạnh  ứng dụng CNTT trong dạy học. Không ít những mô hình đã gặt hái  những thành công về việc ứng dụng CNTT trong nhà trường. Ở đó CNTT đã  thực sự được tích hợp trong dạy học ở một số trường học. Tuy nhiên, việc sử  dụng CNTT trong dạy học  ở  phần lớn các trường phổ  thông chưa diễn ra   thường xuyên, đa phần chỉ dừng lại ở những tiết thí điểm, thao giảng. 6
  7. Cũng cần lưu ý rằng, giáo dục nước ta mang tính chất chỉ đạo tập trung và  có những truyền thống, văn hóa riêng, không giống với với giáo dục ở Mĩ hay một  số nước Châu Âu. Một nghiên cứu về những đặc trưng của việc đưa CNTT vào  dạy học trong trường phổ thông của Việt Nam có thể là cần thiết, hữu ích để có  thêm căn cứ khoa học, thực tiễn cho việc hoạch định chính sách thiết thực, hiệu   quả  và tiết kiệm cho  ứng dụng CNTT trong giáo dục phổ  thông cho giai đoạn  mới. Những hạn chế mà việc sử dụng CNTT mang đến cho việc quản lý lớp  học của giáo viên đặt ra vấn đề  về  sự  cần thiết phải  đổi mới dạy học.   Larose, Grenon và Lafrance (1999) chỉ  ra rằng không chỉ  có công nghệ  phải  cải tiến, thay đổi để đáp ứng việc dạy học mà chính hoạt động dạy học cũng  cần thay đổi để  thích  ứng với công nghệ  mới. Sẽ  là không đủ  để  tích hợp  công cụ tin học vào giáo dục với phương pháp, phương thức giáo dục đã tồn  tại mà phải thay đổi để tận dụng được thành tựu để công nghệ mang lại. Đây   có thể sẽ là một vấn đề cần đặt ra khi tiến hành đổi mới căn bản, toàn diện   giáo dục và đào tạo. Trong bối cảnh phần lớn các trường học đã được trang bị  máy tính và   kết nối internet, khai thác hiệu quả CNTT vào dạy học là vấn đề đặt ra hiện   nay và việc bồi dưỡng, tập huấn giáo viên sử  dụng CNTT trở  thành yếu tố  quan trọng. Nội dung bồi dưỡng, tập huấn cần quan tâm đồng thời đến kỹ  năng CNTT, phương pháp dạy học và cách tổ  chức dạy học. Dạy học có sử  dụng CNTT đòi hỏi ở giáo viên những kỹ năng nghiệp vụ sư phạm mới, khác   với dạy học truyền thống. Những kỹ năng mới này cần được xem như  một   phần không thể thiếu của nội dung bồi dưỡng, tập huấn giáo viên. Đặc biệt, giáo viên không chỉ cần biết những lợi ích, ưu việt mà CNTT  mang lại mà giáo viên còn cần biết cả hạn chế, khó khăn khi sử dụng CNTT  trong dạy học. Điều này có thể  giúp tránh việc lạm dụng CNTT trong dạy  học trong tương lai. Cuối  cùng,  việc  ứng  dụng CNTT  trong dạy  học  là xu  thế   tất  yếu.   CNTT đã và đang mang lại lợi ích to lớn cho giáo dục. Vấn đề  cần  ưu tiên   quan tâm là đẩy mạnh khai thác, ứng dụng CNTT một cách phù hợp trong dạy  học. Hiện nay, những tiết dạy có ứng dụng CNTT ngày càng nhiều. Việc đưa   ra tiêu chí đánh giá giờ dạy có sử  dụng CNTT có thể  coi như  một biện pháp  7
  8. cần thiết và thiết thực giúp nâng cao hiệu quả của khai thác, ứng dụng CNTT  và hạn chế việc lạm dụng CNTT trong dạy học. 1.3. Một số nguyên tắc khi áp dụng CNTT trong tổ chức hoạt động dạy  học.  1.3.1. Một số nguyên tắc khi áp dụng CNTT + Trong dạy học, người GV cần khai thác các ứng dụng thiết thực với   bộ  môn mình, phối hợp với các phương tiện dạy học truyền thống và các   phương tiện khác nhằm tổ  chức hoạt động nhận thức của HV để  đạt được  mục đích của tiết học, bài học. + Chỉ áp dụng CNTT khi các phương tiện dạy học truyền thống không  đáp  ứng được hoặc đáp  ứng không tốt trong quá trình nhận thức của HV,   tránh lạm dụng CTNT trong quá trình dạy học. + Mỗi PMDH chỉ phục vụ cho việc dạy học một bài hoặc một đơn vị  kiến thức nào đó, do vậy GV cần phải xác định rõ mục đích, vị  trí, thời gian  và phương pháp sử dụng PMDH trong quá trình thiết kế tiến trình dạy học. + CNTT cần được sử dụng theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức  của HV, trong đó HV với tư  cách là chủ  thể  của hoạt động nhận thức, HV  tiếp cận được bản chất của đối tượng nghiên cứu qua sự  tương tác của HV  với PMDH mà từ  đó HV có thể  tìm ra quy luật, tính chất, bản chất của đối  tượng nghiên cứu. Vì vậy, CNTT hỗ trợ cái gì và hỗ  trợ  khi nào ta đều phải dựa vào yêu  cầu tổ chức hoạt động nhận thức của HV theo tiến trình dạy học của bài học  đã được soạn thảo. 1.3.2. Sử dụng CNTT trong ba bước lên lớp như thế nào? Bước 1: Đề xuất vấn đề Phương hướng cơ bản của việc tổ chức tình huống học tập trong bước   đề xuất vấn đề  là việc GV đưa ra tình huống có vấn đề, hoặc đặt ra nhiệm   vụ để hướng HV tới nhu cầu tìm hiểu kiến thức mới.  Để thực hiện thành công việc trên với việc sử dụng CNTT thì GV giao  cho HV một nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề. Dưới sự hướng dẫn của GV, HV   quan tâm đến nhiệm vụ đặt ra, sẵn sàng nhận và tự nguyện thực hiện nhiệm   vụ. Trong quá trình giải quyết nhiệm vụ đó, quan niệm và giải pháp ban đầu   của HV được thử thách và HV ý thức được khó khăn. Lúc này vấn đề đối với   8
  9. HV xuất hiện, dưới sự hướng dẫn của GV vấn đề  đó được chính thức diễn   đạt. Bước 2: Giải quyết vấn đề Trong bước này: "HV hành động độc lập, tự  chủ, trao đổi, tìm tòi giải  quyết vấn đề". Sau khi đã phát biểu vấn đề, HV độc lập hoạt động, xoay trở để  vượt qua khó khăn. GV sẽ định hướng khi thật sự cần thiết. Trong quá trình tìm  tòi giải quyết vấn đề, HV diễn đạt, trao đổi với người khác trong nhóm về cách   giải quyết vấn đề của mình và kết quả thu được, qua đó có thể chỉnh lý, hoàn   thiện tiếp. Dưới sự hướng dẫn của GV, hành động của HV được định hướng  phù hợp với tiến trình nhận thức khoa học và thông qua các tình huống thứ cấp  khi cần.  Để  có thể  thực hiện tốt vai trò định hướng của mình trong quá trình  dạy học, GV cần phải nắm vững quy luật chung của quá trình nhận thức  khoa học, lôgíc hình thành các kiến thức, những hành động thường gặp trong  quá trình nhận thức, những phương pháp nhận thức phổ  biến để  hoạch định  những hành động, thao tác cần thiết của HV trong quá trình chiếm lĩnh một  kiến thức hay một kỹ năng xác định. Bước 3: Kiểm tra, vận dụng kết quả Trong bước này: "Tranh luận, thể  chế  hoá, vận dụng tri thức mới" là   hoạt động trọng tâm. Dưới sự hướng dẫn của GV, HV tranh luận, bảo vệ cái  xây dựng được. GV chính xác hoá, bổ  sung, thể  chế  hóa tri thức mới. HV   chính thức ghi nhận tri thức mới và vận dụng. MỘT SỐ BIỂU HIỆN LẠM DỤNG CNTT                                    PGS.TS Lê Huy Hoàng ­ Trường đại học sư phạm Hà  Nội Cách đây không lâu, các cấp quản lý giáo dục, các nhà sư phạm thường  đặt câu hỏi “liệu có thể   ứng dụng CNTT trong dạy học hay không”. Ngày  nay, khi mà hầu hết nhà giáo, các nhà quản lý đều thừa nhận và bước đầu  triển khai  ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học thì xuất hiện câu hỏi  thứ hai, đó là “làm thế nào để ứng dụng CNTT trong dạy học hiệu quả”.  9
  10. Đã có nhiều bài viết bàn về  quan điểm, cách thức, mô hình, phương   pháp  ứng dụng CNTT trong dạy học với nhiều thuật ngữ còn tranh cãi, với  những định hướng khác nhau, và lẽ  dĩ nhiên, cho những kết quả, hiệu quả  khác nhau. Bài viết này không đi theo hướng đó mà tập trung đề cập tới một   số biểu hiện “lạm dụng” CNTT trong dạy học. Trên cơ sở đó, đề xuất những  biện pháp Ứng dụng CNTT trong dạy học một cách hiệu quả và có giá trị. Quan niệm về ứng dụng CNTT trong dạy học Với sự  hỗ  trợ  và thâm nhập của CNTT trong dạy học, trên thế  giới đã xuất   hiện khá nhiều thuật ngữ  (được sử  dụng phổ  biến và chính thức) mô tả  về  mô hình, cách thức, hay phương pháp sử dụng CNTT trong dạy học như CBT   (Computer Based Training) – Dạy học với sự hỗ trợ của máy tính; WBT (Web   Based  Training)  – Dạy học dựa trên công nghệ  Web;  IBT  (Internet Based   Training) – Dạy học dựa trên Internet; Online Learning – Dạy học trực tuyến;   E­Learning (Electronic Learning) – Học điện tử...Tại Việt Nam, các nhà khoa  học cũng đã đưa ra và làm rõ nội hàm của một số  thuật ngữ  như  “Giáo án   điện tử”; “Bài giảng điện tử”; “Học liệu điện tử”... Dù tính chính xác của các  thuật ngữ đó thế nào thì cũng không thể  phủ  nhận một điều rằng, CNTT có   thể can thiệp sâu và đem lại hiệu quả to lớn tới tất cả các khâu của quá trình   dạy học. Để   ứng dụng CNTT trong dạy học hiệu quả, cần thống nhất quan   điểm rằng “CNTT chỉ  là công cụ, phương tiện của người giáo viên”, nó là  một   trong   những   lựa   chọn   của   người   thầy   trong   hệ   thống   các   công   cụ,  phương tiện đang có, đang sử  dụng trong các cơ  sở  giáo dục. Một giờ  dạy   hay, dạy tốt, dạy hiểu quả  trước hết phải là kịch bản sư  phạm của người   thầy làm sao để HV hứng thú, tích cực, chủ  động trong học tập. Sau đó, các  phương tiện, thiết bị hay CNTT chỉ là những công cụ  hỗ  trợ  để  thể  hiện tốt  nhất kịch bản đó mà thôi.  Với CNTT, những ý tưởng sư  phạm trước đây không thể  thực hiện  được thì nay trở  thành hiện thực, những ý tưởng sư  phạm trước đây thực   hiện chưa hiệu quả  thì nay hiệu quả  hơn, những gì trước đây khó khăn thì  nay trở  thành dễ  dàng hơn. Với đặc điểm và tính chất như  vậy, cho thấy   không phải lúc nào cũng dùng CNTT, không phải nội dung nào cũng sử  dụng  CNTT trong dạy học và cần phải lựa chọn, kết hợp hiệu quả  với hệ thống   10
  11. các công cụ, phương tiện đang có trên cơ sở xem xét đặc điểm, chức năng, vai  trò của từng công cụ. Làm được như  vậy sẽ  tránh được sự  lạm dụng CNTT  trong dạy học. Một số biểu hiện lạm dụng CNTT trong dạy học Trên cơ  sở  thực tiễn nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng giáo viên về  ứng dụng CNTT trong dạy học cũng như  tiếp xúc với nhiều sản phẩm  ứng   dụng CNTT trong dạy học của giáo viên, có thể nhận thấy, một số biểu hiện   sau đây được coi là đã “lạm dụng” CNTT trong dạy học Một là, “Thiếu ý tưởng sư phạm” Sự  lạm dụng này thường mắc phải khi sử  dụng các phần mềm trình  diễn dùng cho dạy giáp mặt hay các phần mềm tạo bài giảng điện tử  cung   cấp để  HV tự  học.  Ở đó, đa phần các sản phẩm chỉ  quan tâm tới việc cung   cấp khá đầy đủ  nội với sự  minh họa tối đa của đa phương tiện. Trên cơ  sở  đó, nội dung vẫn được trình bày dưới dạng thuyết trình, nhiều khi giáo viên  đọc thông tin trên các nội dung đã chuẩn bị. Làm theo cách này, HV rất thụ  động, hiệu quả không cao mặc dù có sự tham gia của CNTT. Kết luận: Ý tưởng sư phạm cho một bài dạy là yếu tố quan trọng nhất   quyết định tới chất lượng, hiệu quả  của giờ  dạy. Công nghệ  thông tin chỉ  đóng vai trò hỗ trợ để thực hiện tốt nhất ý tưởng đó. Hai là, “Dùng CNTT không đắt” Với sự  phát triển bùng nổ  các công cụ  như  hiện nay, phải nói rằng  CNTT có thể thay thế hầu hết các phương tiện, thiết bị hiện có. Tuy vậy, lúc  nào cũng dùng CNTT, nội dung nào cũng dùng CNTT dễ  dẫn tới hiện tượng   nhàm chán, lãng phí cơ sở vật chất, không khai thác được điểm mạnh của các   phương tiện, công cụ khác hiện đang có. Kết  luận:  Hãy nghĩ  đến CNTT  khi các phương tiện, công cụ  khác  không thực hiện được hay thực hiện với hiệu quả không cao, không tạo ra sự  khác biệt về chất và lượng. Ba là, “Lạm dụng thời gian sử dụng” 11
  12. Có  nhiều giờ  dạy, máy chiếu  được  sử  dụng  để  trình diễn các  sản  phẩm CNTT trong toàn bộ giờ học. Điều này vi phạm nguyên tắc “đủ cường   độ” khi sử  dụng phương tiện, thiết bị dạy học, dẫn tới trạng thái đơn điệu,  nhàm chán và mệt mỏi của người học. Một số khác có sử  dụng các phương   tiện khác kết hợp như bảng, tranh vẽ hay mô hình, vật thật nhưng không có  thói quen tạm ngắt máy chiếu làm phân tán sự  chú ý của HV trong quá trình  dạy học. Kết luận: Không nên sử  dụng CNTT trong một khoảng thời gian dài,  chỉ  sử  dụng với những nội dung thật cần thiết và tạm ngắt máy chiếu mỗi   khi không dùng tới nó. Bốn là, “Lạm dụng cái ảo do CNTT tạo ra” Với   sự   phát   triển   của   nhóm   các   phần   mềm   mô   phỏng   (simulation  softwares), dễ  dàng tạo ra các môi trường  ảo trong đó các thí nghiệm, thực  hành khoa học có thể  được tiến hành. Trong thực tế, nhiều giáo viên lạm  dụng sử dụng các phần mềm này không chỉ ở tần suất sử dụng mà còn coi đó   là đích cần đạt tới của quá trình học tập. Cần nhớ là mô phỏng chỉ là phương   pháp nghiên cứu để tìm ra bản chất sự vật hiện tượng, thiết kế hệ thống sự  vật hiện tượng mới hay đơn giản là trải nghiệm với sự  vật hiện tượng nào   đó chứ nó không có khả năng thay thế cho sự vật, hiện tượng thực.  Kết luận: Cần có sự kết hợp biện chứng giữa cái ảo (do CNTT tạo ra)   và cái thực trong quá trình dạy học.  Năm là, “Quá quan tâm tới hình thức bên ngoài” Hình thức là quan trọng nhưng không nên quá quan tâm tới hình thức  của sản phẩm CNTT trong dạy học mà quên mất mục tiêu cần hướng tới của   giờ  học. Việc cầu kỳ  trong lựa chọn mầu nền, lòe loẹt trong thể  hiện mầu   sắc, rắc rối trong sự hiện thị của các đối tượng...có thể khiến HV ngạc nhiên  ban đầu, nhưng điều quan trọng nhất của giáo viên là làm cho HV hứng thú và  tích cực với NỘI DUNG dạy học chứ không phải hình thức thể hiện của nội   dung. Kết luận: Không quá cầu kỳ  về  mặt hình thức của sản phẩm CNTT   hỗ trợ dạy học. Sáu là, “Lựa chọn sai công cụ” 12
  13. Mỗi công cụ  CNTT khác nhau hướng tới những mục đích khác nhau   trong việc hỗ trợ bài dạy. Ví dụ, phần mềm PowerPoint dùng để thiết kế các  nội dung hỗ  trợ  dạy học giáp mặt; nhóm phần mềm Crocodile dùng để  mô  phỏng các nội dung vật lý, hóa học, công nghệ, sinh học...; nhóm phần mềm  Authoring Tools (eXe, Lecture Maker, Adobe Presenter, Lectora, LCDS...) dùng  để  thiết kế  các bài giảng điện tử  dùng cho hoạt động tự  học qua mạng hay  trên máy tính...Việc dùng PowerPoint để mô phỏng, hay bài giảng tử  eXe để  dạy giáp mặt...là không phù hợp và ít hiệu quả. Kết luận: Hãy suy nghĩ và lựa chọn công cụ phù hợp nhất với ý tưởng   sự phạm, đặc điểm nội dung kiến thức trong quá trình dạy học. Bảy là, “Làm cho mọi thứ quá đơn giản, tường minh” Với sự tham gia của CNTT, những nội dung trừu tượng sẽ c ụ th ể h ơn,   tường  minh  hơn;   những  nội  dung  phức  tạp  sẽ   đơn  giản  hơn;  những  thứ  không thể  (nguy hiểm, đắt tiền, nhanh quá, chậm quá hay không quan sát   được) sẽ trở thành hiện hữu và có thể. Tuy nhiên, nhiều giáo viên thường có  xu hướng làm cho mọi thứ trở nên quá đơn giản, quá tường minh và quá đầy   đủ  thông tin. Điều này sẽ  không kích thích được HV tích cực tư  duy, tưởng  tượng trong quá trình học tập còn giáo viên thì khó khăn trong việc triển khai   các định hướng dạy học tích cực. Kết quả là hiệu quả dạy học không cao. Kết luận: CNTT nên được sử  dụng theo hướng tạo ra những thách  thức vừa phải với HV, không quá khó và cũng không quá dễ. Tám là, “Thiếu sự biến đổi thông tin” Nhiều giáo viên thường trung thành với những thông tin trong sách giáo  khoa, tài liệu tham khảo mà chưa có sự  xử  lý sư  phạm với những nội dung   đó. Làm như vậy sẽ xuất hiện sự trùng lặp về thông tin giữa các phương tiện  khác nhau, không tạo ra được bối cảnh học tập, dài dòng và đôi khi đơn điệu.   Thực tiễn cho thấy, trong dạy học giáp mặt, thông tin cần xử  lý theo cách   ngắn gọn, cô đọng; tăng cường sơ  đồ  hóa nội dung; tăng cường tính tương  tác, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. Kết luận: Cần xử  lý sư  phạm với những nội dung  được thể  hiện  thông qua công cụ CNTT trong quá trình dạy học. Chín là,  “Tham khảo tài nguyên của người khác” 13
  14. Tài nguyên (tranh  ảnh, hoạt hình, video, âm thanh...) được coi là một   yếu tố không thể thiếu được khi sử dụng CNTT trong dạy học. Tài nguyên đó  có thể  do giáo viên tự  làm hay tham khảo của đồng nghiệp, tìm kiếm trên  mạng. Trong trường hợp tự tạo, tài nguyên đó chắc chắn sẽ phù hợp với nội   dung bài dạy. Nếu không, có thể tài nguyên ấy không thực sự phù hợp với bài   dạy (có thể  đơn giản quá, phức tạp quá hay được thiết kế  với ý đồ  khác...).   Do vậy, cần suy nghĩ lựa chọn cho phù hợp với nội dung, mục tiêu bài dạy,  nếu cần, tiến hành chỉnh sửa, biên tập lại cho phù hợp và đồng bộ. Kết luận: Cần đảm bảo sự  phù hợp của tài nguyên với mục tiêu, nội  dung, phương pháp sử dụng trong giờ dạy. Mười là, “Thiếu sự thẩm định các thông tin trên mạng” Nhiều giáo viên thường yêu cầu HV tìm hiểu thông tin trên mạng để  làm bài tập, để  giải quyết vấn đề  hay để  thực hiện một dự  án học tập mà  thiếu những định hướng cần thiết. Điều này dẫn tới thông tin HV thu nhận   được có độ  tin cậy không cao trong bối cảnh bất cứ ai cũng có thể  công bố  thông tin trên mạng như hiện nay. Đây là sự lạm dụng về nguồn thông tin trên  web. Kết luận: Giáo viên phải là người có năng lực tìm kiếm, thẩm định  thông tin có liên quan trên Internet trước khi định hướng cho HV.  Mười một là, “Không khuyến khích HV sử dụng công nghệ” Một số nhà giáo quan niệm, sử dụng CNTT trong dạy học là công việc  của người giáo viên. Kết luận như vậy chưa thực sự chưa đầy đủ, chưa phát  huy hết vai trò của CNTT trong dạy học. Trong quá trình học tập, HV cũng  cần được khuyến khích sử dụng CNTT trong các hoạt động trải nghiệm khoa   học, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin và xuất bản thông tin. Kết luận: Cần định hướng cho HV sử dụng các công cụ CNTT để hỗ  trợ quá trình học tập, hợp tác của chính các em. Kết luận chung Người thầy giỏi là người thầy có chuyên môn vững vàng, có nền tảng   tốt về  nghiệp vụ  sư  phạm. Với người thầy, công nghệ  thông tin giúp nâng  tầm họ trong việc tạo tình huống; cung cấp kiến thức chính xác; cụ  thể  hóa  những kiến thức trừu tượng; thể  hiện những hiện tượng khoa học, nh ững   nhiệm vụ  đặc biệt mà trước đó không thực hiện được; tạo hứng thú nhận  14
  15. thức; tạo môi trường trải nghiệm, hợp tác, chia sẻ  trong học tập. Với trò,  CNTT sẽ là công cụ, môi trường để  cùng nhau hợp tác, khám phá, thực hiện  các nhiệm vụ học tập một cách chủ động, tích cực và sáng tạo nhất. 15
  16. 2. GIỚI THIỆU PHẦN MỀM XÂY DỰNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM Multiple Choice Quiz Maker 2.1 Giới thiệu chung Multiple Choice Quiz Maker là một bộ  dụng cụ  giúp người dùng dễ  dàng và tiết kiệm nhiều thời gian cho việc tạo các bài kiểm tra, bài ôn tập  trên máy tính, trên mạng nội bộ cũng như internet. Phần mềm có thể tự động   tạo các trang HTML với nhiều tùy chọn đa phương tiện giúp người dùng cá  nhân hóa việc rèn luyện kiến thức và tạo các bài học sống động và hấp dẫn   hơn. Các tác phẩm do người dùng tạo ra có thể được hợp nhất với một trang  web trên mạng Internet hoặc được thực thi như một chương trình độc lập tại  nhà hay trong phòng học. Ngoài ra củng có thể in ra giấy để làm bài kiểm tra  trên lớp. 2.2 Cài đặt phần mềm Bước 1: Cài đặt phầm mềm Microsoft.NET Framework 2.0 trở lên.               Có thể copy phần mềm có sẳn hoặc tải trên mạng internet. 16
  17.   Bước 2: Cài đặt phần mềm  Multiple Choice Quiz Maker bằng cách chạy  file mcqmsetup.exe đến lúc kết thúc Bước 3: Sau khi cài xong thì chạy file Mcreg để đăng ký phần mềm có bản  quyền theo tên và số serial như sau: Name: tthien@moet.edu.vn Serial: 11GR3­9EKF6­F4Z7M 17
  18. 2.3. Hướng dẫn sử dụng phần mềm Sau khi cài đặt xong Multiple Choice Quiz Maker có giao diện chính  như sau, đó củng là màn hình soạn thảo để bắt đầu một bài trắc nghiệm mới. 2.3.1. Một số biểu tượng chính trên thanh công cụ  và chức năng của nó: Open Quiz: Mở một file đã có sẵn Save: Lưu file và đặt tên file First Question: Đi đến câu đầu tiên Quiz Tittle: Tiêu đề nội dung kiểm tra ( Có thể copy từ file word qua) Question: Câu hỏi ( Có thể copy từ file word qua) Answer 1, 2, 3, 4...: các phương án trả lời ( Có thể copy từ file word qua) Insert image: Chèn tranh ảnh Insert other media: Chèn file đa phương tiện 18
  19. 2.3.2. Nhóm thanh Menu điều khiển: 1/ File ­ New: mở file mới để bắt đầu làm ­ Open: Mở một file có sẵn ­ Save: Lưu file và đặt tên file ­ Print: Sau khi bấm lệnh Print thì máy sẽ xuất file có thể sửa được, chúng ta  có thể thêm tiêu đề và lưu thành file Word 19
  20. 2/ Edit Change font: Thay đổi kích thước chữ nhập vào Change screen color: Thay đổi mầu nền của giao diện 3/ Quix 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2