intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tâm lý học - Tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non

Chia sẻ: Physical Funny | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:307

951
lượt xem
129
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu này giới thiệu về tâm bệnh trẻ em lứa tuổi mầm non (0 - 6 tuổi) cho sinh viên sư phạm, những nhà giáo dục tương lai. Những nội dung được trình bày chủ yếu nhằm mục đích giúp cho các giáo viên, các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ nhận biết những rối loạn phát triển tâm lí của trẻ để có thể phát hiện chúng và có những ứng xử thích hợp để phòng ngừa và chữa trị.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tâm lý học - Tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non

  1. TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON Tác giả: NGUYỄN THỊ NHƯ MAI LỜI NÓI ĐẦU Tạo mọi điều kiện cho trẻ phát triển tốt là mối quan tâm hàng đầu của người lớn. Sự phát triển của trẻ bao gồm nhiều mặt, có thể quy về hai mặt chính: phát triển về sinh lí và tâm lí. Bản thân hai mặt này lại có liên quan rất chặt chẽ với nhau và có quan hệ mật thiết với môi trường sống của trẻ. Trong quá trình phát triển, trẻ em có thể có những phát triển không bình thường hoặc có rối loạn, nói cách khác là có bệnh, cả về thực thể lẫn tâm lí. Chăm sóc trẻ không thể chỉ về mặt thực thể mà còn cần phải chăm sóc cả về mặt tâm lí. Phát hiện sớm những bệnh chứng tâm lí của trẻ để có những can thiệp kịp thời là rất cần thiết, có lợi cho sự phát triển.
  2. Tuổi mầm non là giai đoạn phát triển đầu tiên và rất quan trọng của trẻ em. Những bất thường, rối loạn về tâm lí có thể xuất hiện ngay từ thời kì này. Ở Việt Nam, thực tế chữa trị tâm bệnh lí cho trẻ tại Trung tâm nghiên cứu tâm lí và tâm bệnh lí trẻ em Nguyễn Khắc Viện (Trung tâm N-T) cho thấy số trẻ từ 6 tuổi trở xuống được cha mẹ và gia đình đưa đến khám chiếm phần nhiều. Do những đặc trưng về phát triển của lứa tuổi, những rối loạn tâm lí có thể được biểu hiện theo cách riêng, làm người lớn dễ không nhận thấy. Nhận biết để có thể can thiệp sớm những rối loạn tâm lí cho trẻ có thể giúp trẻ lấy lại sự phát triển bình thường. Tâm bệnh là một lĩnh vực rất phức tạp, có nhiều nghiên cứu và cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Cuốn sách này giới thiệu về tâm bệnh trẻ em lứa tuổi mầm non (0 - 6 tuổi) cho sinh viên sư phạm, những nhà giáo dục tương lai. Những nội dung được trình bày chủ yếu nhằm mục đích giúp cho các giáo viên, các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ nhận biết những rối loạn phát triển tâm lí của trẻ để có thể phát hiện chúng và có những ứng xử thích hợp để phòng ngừa và chữa trị. Tác giả
  3. Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM Chương 2. CÁC RỐI LOẠN TÂM LÍ CỦA TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON Chương 3. PHÒNG NGỪA VÀ CHỮA TRỊ RỐI LOẠN TÂM LÍ CHO TRẺ EM TUỔI MẦM NON TÀI LIỆU THAM KHẢO Phụ lục. HỆ THỐNG CÁC CƠ SỞ CHỮA TRỊ RỐI LOẠN TÂM LÍ CHO TRẺ EM Ở PHÁP Created by AM Word2CHM
  4. Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON 1. Khái niệm về tâm bệnh học trẻ em 2. Lịch sử hình thành và phát triển tâm bệnh học trẻ em 3. Thế nào là trẻ bình thường và bệnh lí? 4. Phân loại bệnh trong tâm bệnh học trẻ em 5. Những lí thuyết cơ bản của tâm bệnh học trẻ em 6. Phương pháp đánh giá tình trạng tâm bệnh lí của trẻ em CÂU HỎI ÔN TẬP Created by AM Word2CHM
  5. 1. Khái niệm về tâm bệnh học trẻ em TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON à Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM 1.1. Tâm bệnh học tre em là gì? Trước hết, cần hiểu thế nào là tâm bệnh học. Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu năm 1802 do bác sĩ người Đức J.C. Reil đề cập, rồi ở Pháp năm 1809 do A.A. Royer - Colard và được sử dụng cho đến ngày nay. Có nhiều cách hiểu về vấn đề này. Cuối thế kỉ XIX, Th. Ribot thực hiện những nghiên cứu về tâm lí bệnh học dựa vào quan điểm: muốn hiểu được đời sống tâm lí bình thường phải nghiên cứu tâm lí bệnh. Ví dụ như chức năng bình thường của trí nhớ chỉ có thể được làm rõ khi so sánh với chứng quên hoặc sự tăng trí nhớ. Các học trò của ông như P. Janet, G. Dumas rồi học trò của G. Dumas như H. Piéron, G. Poyer, D. Lagache đã tiến hành những nghiên cứu cả về y khoa lẫn tâm bệnh học. Tư tưởng của trường phái này dựa nhiều vào mặt số lượng và sự võ đoán về giới hạn giữa bình thường và bệnh lí của đời sống tâm lí.
  6. Nó được thay thế bởi sự ra đời của Tâm bệnh học lâm sàng, với phạm vi rộng hơn nhiều, bao gồm tất cả những nghiên cứu lâm sàng về các bệnh tâm trí. Cũng có quan niệm cho rằng tâm bệnh học thuộc về y - sinh lí bệnh học (Cl. Bernard). E. Minkowski đưa ra hai nghĩa khác nhau của thuật ngữ này: một mặt, nó là khoa học về bệnh của đời sống tâm lí, giống như quan niệm của Ribot; mặt khác, là tâm lí học bệnh học, đặc trưng bởi cách tiếp cận tồn tại để tìm hiểu mặt bên trong của kinh nghiệm tâm lí không bình thường của người bệnh tâm trí. Trong giáo trình Tâm bệnh học đại cương, G. Deshaies, năm 1959, thể hiện cách hiểu khác, cho tâm bệnh học như là một lĩnh vực thuộc tâm bệnh lí lâm sàng... Có thể thấy có nhiều quan điểm nữa tạo nên lịch sử của khoa học này. Ngày nay người ta thấy rằng: tâm bệnh học không chỉ là khoa học về mặt lí thuyết nhận biết các vấn đề về mặt tâm bệnh lí mà nó là một nhánh của khoa học về con người, trong đó tổng hợp nhiều lĩnh vực khác nhau: sinh lí học thần kinh, hiện tượng học, tâm lí học, thuyết thực thể, thuyết cấu trúc... Có thể quan niệm về tâm bệnh học như sau: Tâm bệnh học là khoa học nghiên cứu các quá trình và
  7. các dạng thức tố chức dẫn đến những rối loạn tâm lí của con người. Những rối loạn, bất thường về tâm lí được gọi là tâm bệnh. Nghiên cứu những đau khổ về mặt tinh thần, tâm bệnh học có liên hệ chặt chẽ với tâm lí học và được phản ánh vào thực tế nghiên cứu, chữa trị chủ yếu thông qua phương pháp tâm bệnh lí lâm sàng. Tâm bệnh học trẻ em là khoa học nghiên cứu các quá trình và các dạng thức tổ chức dẫn đến những rối loạn tâm lí của trẻ em. Cùng nghiên cứu về những rối loạn tâm lí, tuy nhiên, tâm bệnh học trẻ em có những đặc trưng riêng. Ra đời muộn hơn nhiều so với tâm bệnh học người lớn, tâm bệnh học trẻ em được xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau. Có thể quy vào hai nguồn chính: giáo dục học trẻ em và tâm bệnh học người lớn. Về phương diện giáo dục học, nỗ lực tìm cách giáo dục những đứa trẻ được cho là không thể giáo dục được đã thúc đẩy những nghiên cứu sâu hơn về các trẻ này, đưa đến những hiểu biết mới về sự phát triển không như bình thường trong đời sống tâm lí của các em. Về phương diện tâm bệnh, những nhà tâm bệnh học trẻ em đầu tiên đã sử dụng những kiến thức và phương pháp của tâm bệnh học người lớn.
  8. Như vậy, tâm bệnh học trẻ em được xây dựng từ những kinh nghiệm thực tiễn chứ không phải chỉ là từ những kiến thức lí thuyết về tâm bệnh. Tâm bệnh học trẻ em phải sử dụng đến nhiều luận thuyết khác nhau. Từ những năm 50 của thế kỉ XX người ta đã nhận thấy các lĩnh vực khoa học khác nhau được vận dụng vào tâm bệnh học trẻ em. Ngoài các khoa học truyền thống làm chỗ dựa như tâm lí học, phân tâm học là lí thuyết về tri thức luận, tập tính học, lí thuyết hệ thống và giao lưu, tiếp đó là những kiến thức mới về dịch tễ học, giải phẫu thần kinh, sinh lí học thần kinh. Tất cả những kiến thức này được vận dụng để hiểu bản chất, cơ chế của các rối loạn tâm lí ở trẻ và làm cơ sở cho việc chữa trị các rối loạn này. Trẻ em lứa tuổi mầm non, từ 0 đến 6 tuổi, là giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển của trẻ. Những rối nhiễu, bất thường về tâm lí nếu có được thể hiện ngay từ thời kì này. Tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non nghiên cứu, chẩn đoán và chữa trị các rối nhiễu tâm lí của trẻ em tuổi mầm non. 1.2. Đối tượng của tâm bệnh học trẻ em
  9. Đối tượng của tâm bệnh học trẻ em, nói một cách chung nhất, là những rối loạn về tâm lí ở trẻ. Nói cách khác là tâm bệnh học trẻ em nghiên cứu và chữa trị những trẻ em không bình thường. Cụ thể hơn là trẻ em không đủ khả năng hoặc có những rối loạn về tính cách và hành vi, đôi khi bao gồm cả hai loại trên, do nguyên nhân di truyền hoặc môi trường sống, gặp khó khăn lâu dài đối với những đòi hỏi phù hợp với lứa tuổi và môi trường của trẻ. Tâm bệnh trẻ em cần được nhìn nhận theo quan điểm phát triển. Trong suốt thời kì thơ ấu cho đến tuổi trưởng thành, một yếu tố quan trọng để xác định trẻ có rối loạn hay không đó là rối loạn đó xảy ra ở thời điểm nào, xuất hiện thường xuyên hay không, kéo dài hay không. Yếu tố thời gian rất quan trọng đối với việc đánh giá tình trạng phát triển của trẻ. Cùng những biểu hiện nhưng nếu nó xảy ra ở thời điểm này sẽ bị coi là mất cân bằng tâm lí, nếu xảy ra ở thời điểm khác thì lại không sao. Rối loạn xuất hiện một vài lần trong tiến trình phát triển hay xuất hiện thường xuyên trong thời gian dài đều phải được nhà chuyên môn quan tâm để có đánh giá chính xác. Yếu tố phát triển cần phải luôn được các nhà chuyên môn tính đến trong
  10. những chẩn đoán và chữa trị tâm bệnh trẻ em. Những rối loạn tâm lí của trẻ em lứa tuổi mầm non, từ 0 đến 6 tuổi, là đối tượng nghiên cứu của tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non. 1.3. Nhiệm vụ của tâm bệnh học trẻ em Nhận biết và làm rõ những rối loạn tâm lí xuất hiện, tồn tại, biến đổi và có thể mất đi như thế nào trong quá trình phát triển của trẻ em, tìm hiểu nguyên nhân gây ra những rối loạn đó và chữa trị cho trẻ, giúp các em phát triển bình thường trở lại là những nhiệm vụ cơ bản của tâm bệnh học trẻ em. Khi nghiên cứu, chẩn đoán và chữa trị tâm bệnh trẻ em cần phải biết rằng: rối loạn tâm lí ở trẻ em và ở người lớn không giống nhau. Vì vậy, không thể áp dụng cách hiểu và chữa trị tâm bệnh cho người lớn đối với trẻ. Không nên có cách nhìn cứng nhắc, bất biến trước các rối loạn tâm lí ở trẻ em. Trong quá trình phát triển của trẻ, có rối loạn xuất hiện ở thời điểm này sẽ mất đi một cách tự nhiên hoặc nhờ chữa trị. Có thể có sự tiếp nối giữa trạng thái tâm lí bình thường và bệnh lí ở trẻ.
  11. Biểu hiện rối loạn tâm lí ở trẻ em cũng khác với người lớn. Những bất thường về chức năng cơ thể, những hành vi chống đối... có thể lại là biểu hiện của bất thường về tâm lí. Sự biểu hiện các rối loạn cũng thay đổi theo tuổi, có liên quan tới đặc trưng phát triển theo giai đoạn. Nguyên nhân dẫn tới những rối loạn tâm lí của trẻ khá đa dạng, phức tạp. Một điều kiện có tính bệnh lí xác định chưa chắc là nguyên nhân chính dẫn đến rối loạn. Những nguyên nhân khác nhau có thể gây ra cùng một rối loạn và một nguyên nhân lại dẫn đến nhiều rối loạn khác nhau. Cũng có khi một rối loạn này kéo theo những rối loạn khác. Tất cả những điều này nói lên nhiệm vụ mà tâm bệnh học trẻ em phải giải quyết là rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhà chuyên môn phải có hiểu biết đầy đủ có kinh nghiệm và rất thận trọng. Là một bộ phận của tâm bệnh học trẻ em, tâm bệnh học trẻ em lứa tuổi mầm non cũng có những nhiệm vụ chung của tâm bệnh học trẻ em, áp dụng vào lứa tuổi mầm non. Với đặc trưng là lứa tuổi có sự phát triển nhanh chóng về cả sinh lí lẫn tâm lí mà ít có
  12. thời kì nào sau đó có được, khi giải quyết các vấn đề của tâm bệnh học trẻ em thời kì này càng cần thiết phải quán triệt quan điểm phát triển. Created by AM Word2CHM
  13. 2. Lịch sử hình thành và phát triển tâm bệnh học trẻ em TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON à Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TÂM BỆNH HỌC TRẺ EM 2.1. Thời kì trước thế kỉ XX Tâm bệnh học trẻ em có nguồn gốc từ tư tưởng của một số nhà thần học thế kỉ XIII, XIV. Saint Thomas d'Aquin (1225 - 1274) và Saint Augustin (1354 - 1430) gắn khiếm khuyết trí tuệ với một nguyên nhân tự nhiên. Cũng vào thời kì này, tòa án tôn giáo ở châu Âu (thế kỉ XIII) cho rằng người điên và kẻ ngu đần là biểu tượng của tính ma mãnh, ngu ngốc của con người. Thế kỉ XV, XVI có sự đối nghịch về quan niệm giữa những người cho rằng tất cả những gì thuộc về con người, thể hiện ở con người đều là do tự nhiên với quan niệm của những người có tư tưởng về người bị ma ám. Thời kì này căn nguyên của chứng ngu ngốc và điên loạn còn chưa được biết đến. Thế kỉ XVII, tư tưởng kết hợp giữa y khoa và giáo dục trong nhìn nhận về người có khiếm khuyết trí
  14. tuệ xuất hiện. Felix Platter (Thụy Sĩ) năm 1665 là người đầu tiên đã chỉ ra nguyên nhân về di truyền của khiếm khuyết trí tuệ sau khi nghiên cứu một nhóm trẻ chậm khôn vừa. Từ đây có quan niệm rằng: khiếm khuyết nặng về trí tuệ không thể chữa trị được. Tuy vậy có thể dùng những tác động chữa trị về giáo dục đối với những khiếm khuyết nhẹ hơn. Năm 1672, Thomas Willis (Anh) đưa ra giải pháp chữa trị cho trẻ chậm khôn bằng cách kết hợp tác động chữa trị của bác sĩ và của nhà giáo dục nhằm cải thiện tình trạng trí tuệ của trẻ em. Từ tư tưởng của hai tác giả trên, trào lưu chữa trị kết hợp y tế - giáo dục được hình thành và phát triển. Thế kỉ XVIII là thời kì khởi đầu của khoa học về tâm bệnh lí trẻ em. Nghiên cứu về căn nguyên của khiếm khuyết trí tuệ đã cho ra đời các thuật ngữ chậm khôn nặng (idiot) và chậm khôn vừa (imbécile) trong Bách khoa toàn thư của Diderot (1765) và các cách phân loại khiếm khuyết trí tuệ do Cullen và Pinel đề xuất. Đặc biệt, nghiên cứu của J.M. Itard (1775 - 1838) về Victor, một đứa trẻ hoang dã ở Aveyron (Pháp) là một sự kiện quan trọng mở đầu cho sự ra đời của
  15. khoa học về tâm bệnh trẻ em. Chăm chữa cho Victor hàng ngày trong 4 năm liền, tìm mọi cách để em giao tiếp trở lại nhưng không thể làm Victor nói được, Itard đã dừng các chữa trị. Bệnh của Victor sau đó còn nặng hơn. Năm 1828 Itard lại tiếp tục chăm chữa cho một nhóm trẻ câm điếc và mất hài hòa trong phát triển. Thế kỉ XIX, dưới ảnh hưởng của tư tưởng của các nhà triết học và giáo dục học thế kỉ trước như Locke (1632 – 1704) và Rousseau (1712 - 1778), ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ ở phương Tây, của những tiến bộ về y học và việc bắt buộc trẻ em phải đi học, trẻ em và đời sống tâm lí của trẻ được quan tâm nhiều hơn. Những cơ sở chữa trị đầu tiên cho trẻ chậm khôn nặng xuất hiện ở Pháp mặc dù vào những năm đầu thế kỉ còn chưa có một cơ sở chữa trị chuyên biệt nào cho trẻ. Trước tiên phải nói đến những đóng góp của Jean - Pierre Falret (1794 - 1870) và Félix Voisin. Falret từ 1821 đến 1840 chăm chữa cho trẻ chậm khôn nặng. Sau 20 năm nghiên cứu ông đưa ra 2 loại nguyên nhân gây ra bệnh tâm trí: thứ nhất, những nguyên nhân về cơ thể; thứ hai, những nguyên nhân về tâm lí. Ông cũng quan tâm đến tiền sử của trẻ và những tác động có thể do
  16. hoàn cảnh sống gây ra. F. Voisin, dựa trên tư tưởng của Falret, năm 1834 đã thành lập trường chăm chữa cho trẻ có bất thường về tâm trí. Những trẻ được nhận vào trường này là những trẻ chậm tiến về trí tuệ bẩm sinh, trẻ phạm tội, trẻ có vấn đề về giáo dục và trẻ có cha mẹ loạn trí. Voisin cũng cho rằng căn nguyên về tâm lí là nguyên nhân của nhiều chứng bệnh ở trẻ em. Cùng thời gian này Ferrus đã thành lập một cơ sở chữa trị cho trẻ chậm khôn nặng ở Bicêtre (Pháp) và xây dựng bệnh viện tâm thần Saint Anne. Theo ông, chứng ngu đần không ảnh hưởng tới tính người của người bệnh. Ông nói đến việc đánh thức các cơ quan đang ngủ của cơ thể bằng chữa trị về tinh thần và giáo dục. Căn nguyên của những rối loạn tâm lí ở trẻ em lúc này được cho là do hai nguyên nhân: những hỏng hóc lớn của các cơ quan sinh lí kéo theo những bất thường, bệnh tật của cơ thể và do điều kiện giáo dục. Khoảng giữa thế kỉ XIX, một trào lưu mới trong lĩnh vực tâm bệnh lí trẻ em hình thành. Mở đầu cho trào lưu này là L. Delasiauve và D. Bourneville. Sau thời gian nghiên cứu và chữa trị cho trẻ chậm tiến
  17. về trí tuệ, nghiên cứu về chứng động kinh và chậm khôn nặng ở người lớn, từ 1854 Delasiauve công bố những nguyên tắc chỉ đạo trong giáo dục người thiểu năng trí tuệ. Quan tâm nhiều đến yếu tố không thể tác động được của người bệnh, ông mô tả các chứng chậm khôn một phần. Ông phân thành hai loại bệnh chính: những tổn hại nặng của cơ quan sinh lí do nguyên nhân cơ thể và những khiếm khuyết một phần do nguyên nhân chưa xác định. Bourneville năm 1875 trong một báo cáo đã chỉ ra hiện trạng có quá ít những cơ sở chữa trị bệnh tâm lí cho trẻ em thời đó. Ông thành lập những lớp học chuyên biệt còn gọi là trường học - bệnh viện tâm trí. Sử dụng những cách chữa trị về y - giáo dục học, ông đưa ra những bài tập giáo dục nhằm phát triển những khả năng còn lại ở trẻ, ví dụ như những bài tập về biểu tượng, vẽ, âm nhạc, trí nhớ, ý chí... Éduard Seguin (1812 - 1880) là người có ảnh hưởng không nhỏ đối với chữa trị cho trẻ em chậm khôn. Mở một trường học dành cho trẻ chậm khôn từ năm 1839, dùng phương pháp giáo dục dựa vào cảm giác và trí nhớ, trên cơ sở sáng kiến, hoạt động thể chất và quan hệ với người khác của trẻ, tác dụng của
  18. những cách chữa trị này là rõ ràng. Năm 1859 ông sang Mỹ và từ ông nhiều cơ sở giáo dục và chữa trị dành cho trẻ em cũng như người bệnh tâm trí ở Mỹ được ra đời. Chuyên môn chữa trị cho trẻ chậm khôn, H.T. Vallée (1816 - 1885) năm 1847 đã xây dựng một trung tâm chữa trị của riêng mình ở Gentlli. Từ đây, một trung tâm nghiên cứu và chữa trị cho trẻ em không bình thường về tâm lí ra đời dưới tên gọi Trung tâm Vallée. Có thể nói rằng, thế kỉ XIX là thời kì phát triển của trào lưu nghiên cứu, chữa trị về y tế - giáo dục cho các bất thường về tâm lí ở trẻ em. Dưới ảnh hưởng của Bourneville, Seguin, Vallée và những tên tuổi khác, các nhà nghiên cứu và chữa trị quan tâm nhiều hơn đến những đứa trẻ chịu đau khổ do các rối loạn tâm lí khác nhau. Những tư tưởng này được tiếp tục phát triển, mở rộng và đi sâu trong thế kỉ XX. 2.2. Thế kỉ XX Thế kỉ XX là thời kì nở rộ nhiều nghiên cứu về tâm bệnh lí trẻ em. Kế thừa những tư tưởng và nghiên cứu về tâm bệnh lí trẻ em ở thời gian trước, nhiều lĩnh
  19. vực của tâm bệnh lí trẻ em đã được làm rõ hơn. Có thể kể đến những nghiên cứu về các lĩnh vực chính sau nảy sinh từ đầu thế kỉ: Nghiên cứu về chậm phát triển trí tuệ, mất trí và loạn tâm trẻ em - Mất trí sớm ở trẻ em Trong các tài liệu về chữa trị tâm bệnh lí, Emil Kraepelin (1855 – 1926), nhà tâm bệnh học người Đức, đã mô tả một loại bệnh được gọi là mất trí sớm do nhận thấy những dấu hiệu của bệnh mất trí có từ rất sớm. Những biểu hiện lâm sàng của người bệnh không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau, có biểu hiện tự tỏa, tiến triển lạ lùng dẫn tới tình trạng ngây độn và thiếu liên kết. S. De Sanctis (1862-1935) cũng quan tâm tới những dạng thức của mất trí sớm và chỉ ra những đặc trưng của chứng bệnh này. Đó là: + Trí nhớ tốt. + Khả năng tri giác tốt. + Không ổn định về chú ý.
  20. + Thiếu/hoặc không có tư duy cấp cao. + Rối loạn nghiêm trọng hoạt động tự do. + Rối loạn tính cách và thái độ. Nhiều tác giả mô tả những mất trí sớm, xuất hiện giữa 5 và 10 tuổi mà không có rối loạn rõ ràng trước đó. Những quan sát trên trẻ chậm khôn trung bình bổ sung thêm cho những nhận định này. Năm 1913, Kraepelin nghiên cứu mối liên hệ giữa mất trí sớm và chậm khôn trung bình. Theo ông, chậm khôn trung bình là dấu hiệu thúc đẩy và là dấu hiệu rất sớm của bệnh mất trí. Năm 1933, Targowla đề cập đến lĩnh vực những chậm phát triển tinh thần tiến triển. - Tâm thần phân liệt Những nghiên cứu về mất trí sớm cũng được Eugen Bleuler (Thụy Sĩ) thực hiện năm 1911. Theo ông, hơn cả một tan rã về nhân cách, mất trí là sự sụp đổ toàn bộ đời sống tâm trí và không thể phục hồi được. Ông nói đến bệnh tâm thần phân liệt, bệnh mà triệu chứng phụ của nó là mất trí. Từ ông, mất trí sớm và mất trí ở trẻ em được thay tên gọi là tâm thần phân
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2