intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tập bài giảng Quản lý thể dục thể thao quần chúng và thành tích cao: Phần 2 - Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 tập bài giảng "Quản lý thể dục thể thao quần chúng và thành tích cao" tiếp tục trình bày các nội dung về: Nguồn lực của thể dục thể thao quần chúng; Quản lý nh nước về thể dục thể thao thành tích cao. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tập bài giảng Quản lý thể dục thể thao quần chúng và thành tích cao: Phần 2 - Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa

  1. . Litvitneko C.H. ( ), ―Thể thao quẩn chúng như một phương tiện giáo dục phát triển”, Tạp chí Khoa học Thể thao, (4), tr 8-14. CHƢƠNG IV NGUỒN LỰC CỦA THỂ DỤC THỂ THAO QUẦN CHÚNG VÀ THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO 1. N uồn lực con n ƣời 1.1. Cơ sở tiếp cận TDTT là một loại hình hoạt động nhằm tăng cường thể chất cho con người. Cùng với các lĩnh vực khác (y tế, dinh dưỡng...), TDTT trở thành một bộ phận của chính sách bảo vệ sức khoẻ toàn dân, thuộc phạm vi về chính sách an sinh xã hội. Nguồn lực con người (nhân lực) cùng với các công cụ quản lý khác, tài sản Nhà nước (bao gồm nguồn vốn và các phương tiện vật chất kỹ thuật) đã được sử dụng để 110
  2. quản lý xã hội như: ngân sách, đất đai, kết cấu hạ tầng, doanh nghiệp Nhà nước...Tài sản TDTT trong bộ máy Nhà nước cũng không nằm ngoài mục đích nêu trên. Vì vậy, khai thác tài sản TDTT hiệu quả trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần thiết phải được thực hiện ngay từ hoạch định phát triển kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoạch định phát triển tài sản TDTT và phát triển TDTT nói chung của các tỉnh thành được thể hiện trong văn bản quy hoạch về TDTT, nhằm đạt được lợi ích xã hội và kinh tế tối ưu nhất. Đây chính là nguồn lực để phát triển TDTT nói chung trong đó có TDTT quần chúng. Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học - công nghệ, nguồn vốn, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người là một thực thể "song trùng" tự nhiên và xã hội, là sự kết hợp cái tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên. Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi thế giới tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật. "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Con người không thể tồn tại được một khi tách khỏi xã hội. Chỉ trong xã hội con người mới có thể trao đổi lao động, thông qua đó mà thoả mãn những nhu cầu trong cuộc sống, như ăn, ở, đi lại v.v.. Trong xã hội thông qua quan hệ với người khác mà mỗi người nhận thức về mình một cách đầy đủ hơn, trên cơ sở đó mà rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt, từng bước hoàn thiện nhân cách. 111
  3. Qua các ý kiến khác nhau có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, v.v. tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội. Nói tới nguồn lực con người là nói tới số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng nguồn lực con người được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng, các miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chất lượng nguồn lực con người là một khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lý, mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai cấp, ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc, với gia đình và xã hội, giác ngộ và bản lĩnh chính trị, v.v. và sự kết hợp các yếu tố đó. Trong các yếu tố trên thì phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn là quan trọng nhất, nó nói lên mức trưởng thành của con người, quy định phương pháp tư duy, nhân cách, lối sống của mỗi con người. Nguồn nhân lực là trình ðộ lành nghề, là kiến thức và nãng lực của toàn bộ cuộc sống con ngýời hiện có thực tế hoặc tiềm nãng ðể phát triển kinh tế-xã hội trong một cộng ðồng. Nguồn nhân lực ðýợc hiểu là toàn bộ trình ðộ chuyên môn của con ngýời tích luỹ ðýợc, có khả nãng thu nhập trong týõng lai; nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm nãng lao ðộng của một nýớc hay một ðịa phýõng sẵn sàng tham gia một công việc lao ðộng nào ðó. Nhý vậy, có thể hiểu nguồn nhân lực là trình ðộ lành nghề, kiến thức và nãng lực của toàn bộ cuộc sống con ngýời hiện có hoặc tiềm nãng ðể phát triển kinh tế - xã hội của ðất nýớc. 1.2. Qu n iểm về o tạo, bồi dƣỡn nh n lực TDTT quần chún 112
  4. Văn kiện Đại hội Đảng X đã thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển TDTT nhằm nâng cao sức khỏe, thể lực, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam, góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Tổ chức, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho phát triển TDTT là một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về TDTT đã được Luật TDTT quy định tại khoản Điều . Để đảm bảo phát triển sự nghiệp TDTT theo đúng định hướng, không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động TDTT, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực rất lớn, đa dạng, phong phú bao gồm nhiều lực lượng lao động khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ và trình độ đào tạo từ cán bộ quản lý cấp cao ở trung ương đến cán bộ quản lý ở cơ sở. Từ cán bộ giảng viên đại học đến giáo viên tiểu học, mầm non, từ huấn luyện viên đội tuyển quốc gia đến hướng d n viên thể thao ở cơ sở và các cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ khoa học thuộc các lĩnh vực chuyên ngành có liên quan cho đến các lực lượng lao động kinh doanh dịch vụ khác tác nghiệp trong lĩnh vực TDTT. Vì vậy nhà nước ban hành các chính sách và thống nhất quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển sự nghiệp TDTT. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng một cách có hệ thống đội ngũ cán bộ quản lý về TDTT làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương (Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch; các Phòng Văn hoá - Thông tin), đây là đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về TDTT có nhiệm vụ chính là tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách của nhà nước về TDTT. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý thể thao làm việc trong các tổ chức xã hội về thể thao (Uỷ ban Olimpic Việt nam; Hiệp hội thể thao người khuyết tật Việt nam), tổ chức xã hội nghề nghiệp về thể thao (các Liên đoàn, Hiệp hội thể thao), đây là những nhà quản lý chuyên nghiệp tổ chức các hoạt động TDTT. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ huấn luyện viên, giáo viên, giảng viên, hướng d n viên về TDTT làm việc trong các cơ sở thể thao, đây là những cán bộ 113
  5. chuyên môn đòi hỏi tính chuyên sâu trong các hoạt động nghề nghiệp huấn luyện, giảng dạy; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học thể thao làm việc trong các cơ sở nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ về thể thao; đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động khác phục vụ cho công tác quản lý, huấn luyện, giảng dạy TDTT như kỹ thuật viên điều dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh, môi trường. Nhà nước chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho TDTT dựa trên chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở chiến lược chung đó, cơ quan quản lý nhà nước về thể dục, thể thao ở trung ương có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch , kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực TDTT chung cho toàn quốc phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời k theo từng đối tượng, vùng lãnh thổ. Quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực được xây dựng một cách tổng thể và chi tiết theo những tiêu chí đáp ứng nhu cầu phát triển sự nghiệp TDTT của cả thời k và từng giai đoạn đã được xác định trong chiến lược và quy hoạch phát triển TDTT của đất nước. Đặc biệt chú trọng ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho các vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn bằng nguồn kinh phí từ ngân sách do các cơ quan nhà nước chủ trì thực hiện. Cơ quan quản lý hành chính nhà nước về TDTT các cấp chịu trách nhiệm tham mưu, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhân lực TDTT cho các đối tượng thuộc các ngành, lĩnh vực, vùng, miền do địa phương được phân cấp quản lý như: tổ chức và chỉ đạo công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, giáo viên TDTT cho các nhà trường và cơ sở giáo dục đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tổ chức và chỉ đạo công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cộng tác viên thể thao cơ sở. Tổ chức và chỉ đạo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ HLV và cán bộ quản lý thể thao trong lực lượng vũ trang trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ thể thao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho TDTT mang tính đặc thù của hoạt động thể thao là nhằm điều khiển sự phát triển thể chất nâng cao sức khoẻ của con người. Nó có tác dụng giáo dục nâng cao khả năng thành tích tối đa của con người 114
  6. nên đòi hỏi phải dựa trên cơ sở khoa học của nhiều chuyên ngành khác nhau về con người như y sinh học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội học... Do đó, để đào tạo được nguồn nhân lực TDTT có chất lượng trước hết phải đào tạo và bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ giảng viên có trình độ cao thuộc nhiều lĩnh vực làm nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu trọng điểm của nhà nước. Nơi đào tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý, HLV, giáo viên, giảng viên, bác sỹ thể thao có trình độ chuyên môn giỏi. Nhà nước ban hành chính sách đào tạo bồi dưỡng và thu hút các nhà khoa học đầu ngành về làm việc tại các cơ sở đào tạo này. Chính sách đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực luôn luôn gắn kết không thể tách rời với chính sách sử dụng cán bộ, lao động hợp lý, đãi ngộ và trả công tương xứng cho từng vị trí công việc được đảm trách. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho TDTT, đồng thời chỉ đạo các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp TDTT. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng nhân lực cho TDTT nêu trên, cơ quan quản lý nhà nước về TDTT ở trung ương có trách nhiệm phối hợp với các bộ ngành có liên quan như: Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính… giúp Chính phủ xây dựng quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo cán bộ, HLV, giáo viên GDTC trong cả nước, quản lý thống nhất chương trình khung đào tạo cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ về thể thao ở các cấp độ khác nhau đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động trong các cơ sở thể thao. Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo ngoài công lập đào tạo nhân lực cho thể thao trên cơ sở thực hiện quy hoạch chung thống nhất. Liên doanh liên kết với các cơ sở đào tạo cán bộ thể thao nước ngoài để hợp tác đào tạo cán bộ khoa học nhất là ở các lĩnh vực mà Việt Nam còn thiếu hoặc còn yếu. 115
  7. Cơ quan quản lý nhà nước về TDTT chỉ đạo và phối hợp với các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp về thể thao mà trước hết và chủ yếu là với Uỷ ban Olympic Việt Nam và các Liên đoàn thể thao quốc gia tổ chức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý thể thao, kinh doanh hoạt động thể thao, huấn luyện viên, hướng d n viên, kỹ thuật viên chăm sóc sức khoẻ phục hồi chức năng, cứu hộ, cứu đuối và các loại nhân viên phục vụ khác. Việc chỉ đạo và kết hợp với các tổ chức xã hội và các cơ sở đào tạo ngoài công lập nhằm thực hiện chính sách xã hội hoá trong đào tạo bồi dưỡng nhân lực có trình độ đủ tiêu chuẩn đáp ứng nhu cầu của công tác thể thao phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở từng vùng, miền và từng đối tượng khác nhau: 1.3. N uồn nh n lực iáo viên TDTT Chất lượng của sự nghiệp giáo dục được thực hiện thông qua hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, hệ thống nhà trường nói riêng. Chức năng của giáo dục là giúp cho thế hệ trẻ tiếp thu có mục đích, có chọn lọc, có hệ thống những tinh hoa di sản văn hóa, khoa học công nghệ, nghệ thuật của loài người và của dân tộc. Để thực hiện tốt chức năng giáo dục của nhà trường, không ai khác đó là đội ngũ giáo viên – lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giáo dục; Giáo viên là người quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo, là cầu nối giữa nền văn hóa nhân loại và dân tộc với việc tái tạo nền văn hóa đó trong chính thế hệ trẻ. Ngày nay, nền giáo dục hiện đại, dù có xuất hiện các phương tiện kỹ thuật dạy học tinh xảo, hiện đại đến đâu cũng không thể thay thế được vai trò của người thầy giáo – người tổ chức, điều khiển quá trình học của trò, người có ảnh hưởng quan trọng tới sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Không một sách giáo khoa, một lời khuyên răn nào, một hình phạt, một khen thưởng nào có thể thay thế ảnh hưởng cá nhân người thầy giáo đối với học sinh, nhân cách của người thầy giáo tạo nên chất lượng của sản phẩm giáo dục. Ngày nay, trong giáo dục và đào tạo đã xuất hiện nhiều hình thức giảng dạy mới, cùng với các phương tiện dạy học hiện đại đã làm thay đổi đáng kể quá trình và cách thức truyền ðạt tri thức của ngýời thầy giáo. Vì thế, vai trò của người thầy cũng 116
  8. có những thay đổi đáng kể. Từ vị trí trung tâm, chủ động truyền thụ kiến thức cho người học, vai trò người thầy ngày nay đang dịch chuyển theo hướng chỉ đạo, định hướng, tư vấn, hướng d n người học. Người học trở thành trung tâm của quá trình dạy học, chủ động, sáng tạo tìm tòi, khám phá, chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng nghề nghiệp. Điều này không có nghĩa là vai trò của người thầy bị giảm sút, mà ngược lại ngày càng được đòi hỏi ở tầm cao hơn. Người thầy phải giúp học sinh nhận thức được những kiến thức đúng, bổ ích đồng thời tư vấn cho họ cách thức tổ chức và phương pháp lĩnh hội, sử dụng những tri thức đã thu nhận được. Như vậy, người thầy không những là người giỏi về chuyên môn mà còn phải là người có năng lực sư phạm, có hiểu biết sâu rộng và có khả năng cập nhật được những thay đổi nhanh chóng về khoa học, công nghệ. Đồng thời, người thầy phải có khả năng thích ứng với những thay đổi của nghề nghiệp và xã hội. Có như vậy, người thầy giáo mới có thể phát huy được cao nhất vai trò và ảnh hưởng của mình trong hoạt động dạy học. Yêu cầu của xã hội đòi hỏi người thầy giáo không chỉ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động dạy học, mà còn phải giữ trọng trách trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của người học – những phẩm chất tốt đẹp của người chủ xã hội tương lai. Đòi hỏi người thầy giáo phải có sự kết hợp chặt chẽ với gia đình và các tổ chức xã hội nhằm giúp đỡ, định hướng cho người học các vấn đề liên quan đến nghề nghiệp và cuộc sống. Có thể nói sự phát triển của xã hội từ quá khứ, hiện tại và tương lai d n tới sự thay đổi lớn về vai trò, vị trí của người thầy. Tuy nhiên, trong bất k xã hội nào, tại bất cứ thời điểm nào người thầy v n luôn giữ một vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực cho quốc gia. Dạy học là nghề vinh dự và cao quí, là nghề ươm mầm cho sự phát triển thế hệ trẻ, cho sự phát triển tương lai của đất nước. Giáo viên thể dục không chỉ đơn thuần là một người tổ chức giảng dạy kiến thức chuyên môn và tổ chức các hoạt động giáo dục khác, mà giáo viên thể dục còn 117
  9. là người huấn luyện viên (HLV) người phát hiện, đào tạo các tài năng thể thao ở các cơ sở trường học. Giáo viên, HLV không chỉ đóng vai trò là người tổ chức và lãnh đạo quá trình giảng dạy, huấn luyện mà họ còn phải là một người giáo dục đối với người học (học sinh, vận động viên). Một Giáo viên, HLV hợp cách (đạt yêu cầu của mỗi nước) trước hết phải tiến hành giáo dục mục đích giảng dạy, huấn luyện cho người học, giáo dục chủ nghĩa yêu nước và giáo dục lý tưởng, làm cho người học gắn chặt công tác giảng dạy huấn luyện của mình với vinh dự của tổ quốc và sự phát triển của sự nghiệp thể dục thể thao. Đem niềm tin kiên định vì tổ quốc, dành vinh quang cho tổ quốc, quán triệt vào mỗi một buổi tập luyện, mỗi một bài tập và mỗi một trận thi đấu... Giáo viên, HLV cần phải giáo dục toàn diện cho VĐV, cố gắng làm cho họ trở thành lớp người mới có giác ngộ xã hội chủ nghĩa cao, có tình cảm đạo đức cao thượng, có tri thức khoa học văn hoá sâu rộng. Chính do tác động chủ đạo của GV, HLV phát huy trong quá trình huấn luyện, rất nhiều VĐV xuất sắc và thành tích xuất sắc của các đội thể thao đã gắn chặt với tên tuổi giảng dạy huấn luyện của họ. Một số năng lực mà người giáo viên thể dục, cần nắm vững và thường xuyên rèn luyện để đạt đến mức tinh thông việc xây dựng kế hoạch dạy học (cả nội khoá và chính khoá), xây dựng tiến trình giảng dạy, soạn giáo án. Các năng lực nêu trên chỉ có được khi người giáo viên rèn luyện cho mình kh năng phân tích tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức và phải có óc sáng tạo, như: - Năng lực nắm vững các kỹ năng dạy học, đặc biệt là kỹ năng vận động. Kỹ năng vận động của người giáo viên biểu hiện thông qua hoạt động thi phạm bài tập thể chất, biết bảo hiểm khi học sinh tập luyện, biết sơ cứu các chấn thương trong tập luyện và thi đấu thể thao, biết tổ chức các hoạt động tập luyện và thi đấu. 118
  10. - Có kỹ năng thực hành các bài tập thể chất và có khả năng tập luyện, thi đấu một môn thể thao nào đó sẽ giúp cho người giáo viên thể dục thể thao chủ động và tự tin trong quá trình dạy học. - Các kỹ năng vận động được rèn luyện thường xuyên giúp cho người giáo viên trở nên tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ là yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh. - Giáo dục thể chất kết hợp với gia đình và xã hội: TDTT trường học ở nước ta là một bộ phận quan trọng cấu thành nền TDTT quốc gia, là nơi giao nhau của hai lĩnh vực giáo dục và TDTT. TDTT trường học không chỉ là phương tiên, nâng cao sức khoẻ, phát triển thể chất mà còn góp phần rèn luyện nhân cách, đạo đức, ý chí, kỷ luật và lối sống lành mạnh cho thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam. Chính vì vậy, TDTT trường học góp phần tích cực tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, việc đầu tư phát triển TDTT trường học là nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, việc làm này đòi hỏi trách nhiệm, sự quan tâm và phối hợp đồng bộ không phải của riêng ngành nghề nào, 1.4. N uồn nh n lực cộn tác viên TDTT Cộng tác viên thể thao ở cơ sở có thể được cấp thẻ Cộng tác viên theo quy định của Luật thể dục thể thao. Trưởng phòng văn hóa và thông tin cấp huyện cấp thẻ cộng tác viên thể dục thể thao sau khi nhận đủ hồ sơ, bao gồm: Giấy đề nghị của UBND cấp xã; Sơ yếu lý lịch; Giấy chứng nhận đủ sức khỏe; Bản sao giấy chứng nhận về chuyên môn và ảnh của cộng tác viên. Cộng tác viên thể dục thể thao có nhiệm vụ vận động, tổ chức, hướng d n quần chúng nhân dân tập luyện, biểu diễn, thi đấu thể thao và tham gia các hoạt động phát triển phong trào thể dục thể thao ở cơ sở. Hàng năm được dự các lớp tập huấn nghiệp vụ do Phòng Văn hoá và Thông tin hoặc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức. Khi họ thực hiện những nhiệm vụ này thì được UBND cấp xã trả thù lao theo những quy định tại Thông tư liên tịch 3 TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 7 của Bộ Nội vụ, Tài chính, Lao động,Thương binh và Xã hội. 119
  11. 1.5. N uồn nh n lực các tổ chức ch nh trị-xã hội Nhà trường: Nhà trường có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc trang bị kiến thức, hình thành nhân cách sống đồng thời cũng có tầm ảnh hưởng rất lớn đến tập luyện TDTT, phát triển thể chất cho học sinh, sinh viên. Vai trò này đã được quy định trong các văn bản của Đảng và Nhà nước. Pháp lệnh TDTT quy định trách nhiệm cụ thể của nhà trường là cần phải: "Tổ chức thực hiện chương trình môn học giáo dục thể chất theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Tổ chức cho người học tham gia các hoạt động thể thao ngoại khoá Bảo đảm an toàn cho người dạy và người học trong các hoạt động thể dục thể thao Phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu thể thao”. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã yêu cầu: "Hàng năm, căn cứ điều kiện cụ thể của nhà trường, địa phương để xây dựng kế hoạch, triển khai tổ chức các hoạt động thể thao ngoại khoá cho phù hợp và kiểm tra, đánh giá kết quả Tổ chức các hoạt động tập luyện và thi đấu thể thao cho học sinh, sinh viên phù hợp với điều kiện, khả năng, năng khiếu của cá nhân Hàng năm, nhà trường dành khoản kinh phí từ nguồn ngân sách được cấp, học phí và các nguồn thu hợp pháp khác để chi cho việc thực hiện các nhiệm vụ của công tác tổ chức các hoạt động học tập, tập luyện và thi đấu thể thao cho học sinh, sinh viên". Trong các trường học, chính cán bộ, giáo viên, giảng viên TDTT là lực lượng hạt nhân tích cực nhất trong việc trực tiếp hướng d n, giảng dạy và tổ chức các hoạt động tập luyện, thi đấu cho học sinh, sinh viên. Nhà trường chính là cái nôi phát hiện và bồi dưỡng nhân tài TDTT cho quốc gia. Nhà trường là một tổ chức chuyên biệt đối với công tác giáo dục, được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và nhà nước, nắm vững quan điểm, đường lối, mục tiêu bồi dưỡng đào tạo con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, nhà trường luôn luôn có đội ngũ thầy cô giáo - những chuyên gia sư phạm có trình độ, năng lực đạo đức…đã được đào tạo có hệ thống, đã được tuyển chọn kỹ càng. Giáo dục nhà trường trong mọi thời đại có chức năng cơ bản là truyền thụ tri thức văn hóa, mở mang trí tuệ cho 120
  12. học sinh. Kho tàng tri thức văn hóa đó từ bao thế hệ rút kết lại. Nhờ nắm vững những tri thức văn hóa cơ bản này mà thế giới quan khoa học và nhân sinh quan biện chứng của các em được hình thành và phát triển một cách vững vàng. Để thống nhất và tập hợp được sức mạnh của toàn xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ, nhà trường một mặt phải làm tốt việc giảng dạy giáo dục của toàn thể cán bộ giáo viên trong nhà trường. Mặt khác, phải phối hợp chặt chẽ với gia đình, với các tổ chức xã hội. Về phía nhà trường bao gồm các lực lượng: + Giáo viên bộ môn: có trách nhiệm hướng d n học tập các bộ môn, phối hợp rèn luyện đạo đức, thể chất học sinh bằng cách tìm hiểu tình hình học tập, sức khỏe của học sinh, chia sẻ và trao đổi nội dung, phương pháp học tập và rèn luyện, giúp đỡ học sinh học tập và rèn luyện tốt hơn. + Giáo viên chủ nhiệm: có trách nhiệm giáo dục về tư tưởng, định hướng nghề nghiệp, phối hợp với gia đình và các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất cho học sinh, hướng d n sinh viên tham gia vào các hoạt động rèn luyện thân thể, hoạt động xã hội. + Đoàn thanh niên: có trách nhiệm hình thành lý tưởng sống, đạo đức cho học sinh, cùng với giáo viên thể dục và các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường, xã hội và gia đình tổ chức thực hiện các hoạt động phong trào cho học sinh góp phần phát triển con người toàn diện. + Hội chữ thập đỏ: có trách nhiệm khám sức khỏe, phối hợp cùng với giáo viên thể dục để dưa ra các biện pháp phát triển thể chất cho học sinh. Tham gia tổ chức các hội thi, công tác tuyên truyền giáo dục và tập luyện thể dục thể thao rèn luyện thân thể, phòng chống tham những, các tệ nạn xã hội… + Ban đại diện hội cha mẹ học sinh: có trách nhiệm tổ chức các cuộc họp, tổ chức các hoạt động của lớp, hỗ trợ nguồn lực cho các hoạt động, tham gia cùng các lực lượng giáo dục trong nhà trường tổ chức hoạt động vào các ngày lễ trong năm. 1.6. Các n uồn nh n lực khác 121
  13. - Hội cựu chiến binh: tham gia cùng nhà trường và các lực lượng giáo dục trong nhà trường tuyên truyền, giáo dục về việc nâng cao nhận thức, lý tưởng sống, tình cảm cho học sinh, giáo dục về sức khỏe cho học sinh. Tham dự và phát động, tìm hiểu về các ngày lễ lớn trong năm trong đó có ngày 7 7; hàng năm thông qua các hoạt động chào mừng và hoạt động TDTT. - Hội phụ nữ: có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, bảo vệ học sinh, hỗ trợ nguồn lực thực hiện các chương trình giáo dục. Tuyên truyền, phát động, tìm hiểu về các ngày lễ trong năm trong đó có ngày và 3 hàng năm thông qua các hoạt động chào mừng và hoạt động TDTT. - Hội người cao tuổi: có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục học sinh về lý tưởng sống, rèn luyện thân thể… - Trách nhiệm của gia đình: Đối với công tác phát triển TDTT trường học, gia đình là tế bào của xã hội, đóng vai trò tiên phong trong việc định hướng, khuyến khích học sinh, sinh viên tham gia tập luyện TD,TT nhằm rèn luyện sức khoẻ, phát triển tài năng và nhân cách. Trong việc tổ chức kết hợp các lực lượng giáo dục trong nhà trường, gia đình có vai trò và tác động vô cùng quan trọng, là trọng tâm của các hoạt động kết hợp. Gia đình là nơi trẻ được sinh ra, lớn lên và hình thành nhân cách của mình. Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đến với trẻ là sớm nhất. Giáo dục con cái trong gia đình không phải chỉ là việc riêng tư của bố mẹ, mà còn là trách nhiệm đạo đức và nghĩa vụ công dân của những người làm cha mẹ. Nó được xác định trong nhiều văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay như trong Hiến pháp ( ), Luật Hôn nhân và gia đình ( ), Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em ( )… gắn với quan hệ máu mủ ruột thịt và tình yêu sâu sắc của cha mẹ với con cái nên giáo dục gia đình mang tính xúc cảm mạnh mẽ, có khả năng cảm hóa rất lớn. Tùy vào điều kiện kinh tế, đời sống của mỗi gia đình mà việc tiến hành giáo dục trong các giai đoạn phát triển của trẻ có các nội dung, hình thức, nhiệm vụ khác nhau. Gia đình kết hợp chặt chẽ cùng nhà trường sẽ tạo hiệu ứng mạnh mẽ đối với việc xây dựng ý thức và thói quen tập luyện TD, TT của học sinh, sinh viên. Vai trò 122
  14. của gia đình thể hiện trước hết ở việc tạo điều kiện tốt nhất cho con em mình về nuôi dưỡng, học tập, rèn luyện và theo dõi đôn đốc, hướng d n con em sắp xếp thời gian học tập, tập luyện TD, TT và nghỉ ngơi hợp lý. Gia đình thông qua Ban đại diện cha mẹ học sinh tham gia góp ý kiến vào kế hoạch năm học, kế hoạch giảng dạy, tập luyện TD, TT của trường, của lớp và có quyền yêu cầu nhà trường trả lời những vấn đề liên quan đến việc giáo dục rèn luyện của học sinh mà cha mẹ cần biết rõ. 2. N uồn lực t i sản thể dục thể th o 2.1. Khái quát nguồn lực tài sản TDTT Tài sản TDTT là nhân tố đầu vào cần có các thông số điều chỉnh, mô phỏng để thoả mãn đầu ra là nhu cầu tập luyện của nhân dân. Vì nguồn lực tài sản TDTT luôn luôn hạn chế, do vậy không thể tạo ra trước một lượng tài sản TDTT, đáp ứng những thông số không ước đoán được. Xác định tài sản TDTT cốt lõi, đặc trưng và các trị số mô phỏng mối quan hệ giữa tài sản TDTT và nhu cầu tập luyện phục vụ phân tích, tính toán, hình thành luận cứ trong quá trình xây dựng quy hoạch phát triển TDTT ở các tỉnh là hết sức cần thiết. Thông qua phân tích mối quan hệ giữa tài sản TDTT và kết quả đầu ra nhằm rút ra những luận chứng khoa học về các chỉ tiêu định hướng (quỹ đất, số lượng công trình, vốn đầu tư...) trong xây dựng quy hoạch phát triển TDTT, theo từng điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. Tài sản TDTT có thể được tài trợ từ một hay nhiều nguồn vốn khác nhau (Ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương, tài trợ, lợi nhuận). Ngược lại, một nguồn vốn có thể tham gia hình thành nên một hay nhiều loại tài sản. Lượng vốn được biểu hiện dưới dạng vật chất hay phi vật chất và được đo bằng tiền gọi là tài sản. Nghiên cứu tài sản TDTT nói chung và công trình TDTT nói riêng cần thiết phải nghiên cứu các nguồn vốn hình thành. Cụ thể như: Ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương, tài trợ, nguồn thu, cách thức quản lý. Nguồn kinh phí đầu tư cho các cơ sở luyện tập, nhà thi đấu, SVĐ được cho là đạt hiệu quả cao nhất khi kết hợp giữa một tổ chức Nhà nước với một công ty tư nhân. Tổ chức Nhà nước sẽ phụ trách các vấn đề điều hành, quản lý hành chính... 123
  15. còn công ty tư nhân sẽ có những ý kiến trong vấn đề kinh doanh. Nguồn thu từ việc khai thác công trình TDTT là nguồn kinh phí quan trọng để tiến hành tái sản xuất (cải tạo, nâng cấp...) cơ sở thể thao một cách dễ dàng. Tần suất sử dụng công trình TDTT đạt chuẩn khi thường xuyên tổ chức các sự kiện thể thao, văn hoá nghệ thuật, triển lãm, hội thảo. Đa dạng hoá hình thức khai thác công trình TDTT, đặc biệt là sử dụng mặt bằng công trình TDTT một cách linh hoạt. 2.2. Nguồn lực tài sản TDTT ở nước ta Trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp TDTT, Đảng và Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm liên quan đến việc khuyến khích, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật thể thao. Cụ thể như: chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao; phê duyệt quy hoạch phát triển ngành TDTT đến năm ; nghị quyết về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và TDTT; chương trình phát triển TDTT ở xã, phường, thị trấn đến năm ; phân bổ chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất quốc gia, trong đó có TDTT. Sự nghiệp TDTT đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư và phát triển. Các văn bản quản lý về TDTT là tương đối toàn diện. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn tồn tại việc ban hành các tiêu chuẩn về đất đai dành cho TDTT còn chưa đồng nhất (tỷ lệ m2 cho từng người hoặc số lượng công trình TDTT cho từng xã). Đặc biệt là chưa có các tiêu chuẩn chi tiết về diện tích đất đai dành cho TDTT theo phân đoạn dân cư, số công trình TDTT...; chưa có tiêu chuẩn xác định công suất của công trình TDTT: số ngày khai thác tối đa, số người tập luyện cùng lúc. Việc thiếu vắng các tiêu chuẩn đã ảnh hưởng đến việc đánh giá tác động của các chính sách đối với lĩnh vực TDTT. Đất đai dành cho TDTT tính theo đầu người dân bình quân cả nước năm : 1.421m2 người; năm 2010: 1.7m2 người. Kế hoạch sử dụng đất dành cho cơ sở TDTT đã tăng lên 3. m2 người. Tuy nhiên, vấn đề quy hoạch đất đai cần phải 124
  16. tương đồng với công trình xây dựng TDTT. Số liệu này của Trung Quốc năm 3 là 1.03m2 người. Số người dân sử dụng công trình TDTT: năm đạt tỷ lệ tung bình là 3.3 công trình . người; Năm đạt tỷ lệ trung běnh lŕ . công trěnh . người. Tỷ lệ này v n thấp so với khu vực châu Á, ở nhiều quốc gia châu Á tỷ lệ này là . . Công trình TDTT đạt tiêu chuẩn thi đấu quốc tế, quốc gia của nước ta đạt năm là . . người, chỉ chiếm tỷ lệ , trong khi đó ở nhiều quốc gia châu Á thường lớn gấp . lần . Tuy vậy, công tác thống kê còn hạn chế cả về tổng thể và công trình TDTT, thiết bị TDTT nói riêng, chưa thống kê tác động của TDTT với kinh tế và xã hội một cách toàn diện, chưa ứng dụng các công cụ thống kê hoặc hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm, công nghiệp, nghề nghiệp. Về công trình TDTT, chưa kết hợp được với chính sách, quy chuẩn, nghiệp vụ hạch toán kế toán, kinh doanh... để hình thành nên các công cụ quản lý kinh tế hiệu quả. Về mạng lưới công trình TDTT: từ năm - , hệ thống CSVC dành cho lĩnh vực TDTT tăng lên không ngừng: sân vận động (SVĐ) có mái che trên cả nước tăng từ 7 lên 3 SVĐ; nhà thi đấu có mái che tăng từ lên 37 nhà; bể bơi có mái che từ 3 lên bể; sân bóng đá không có mái che tăng từ . 3 sân lên .37 sân; sân bóng chuyền không có mái che tăng từ .3 sân lên .37 sân; bể bơi không có mái che tăng từ 3 lên bể. Kết quả phân tích mới chỉ phản ánh được diễn biến phát triển số lượng công trình TDTT. Tồn tại trong phân tích cần bổ sung thêm một số vấn đề như: quỹ đất CSTT đã sử dụng, so sánh công suất và khả năng đáp ứng nhu cầu tập luyện giữa các tỉnh, dự báo số lượng công trình. Về tác động của mạng lưới công trình TDTT: từ nguồn NSNN, địa phương và các tài trợ khác đã thúc đẩy phong trào TDTT quần chúng và thể thao thành tích cao có điều kiện phát triển. Phong trào TDTT quần chúng không ngừng được đẩy mạnh ở phạm vi toàn quốc, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ về trang thiết bị, CSVC, các 125
  17. vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, lạc hậu, người khuyết tật... Đã tạo sự bình đ ng về cơ hội, điều kiện tập luyện TDTT cho mọi người dân. Hệ thống các giải thi đấu thể thao từ phong trào đến đỉnh cao được quan tâm xây dựng. CSVC phục vụ tập huấn và tổ chức thi đấu toàn quốc tiếp tục được đầu tư nâng cấp, mở rộng. Công tác huấn luyện VĐV năng khiếu, VĐV thành tích cao được triển khai có hệ thống... Về TDTT quần chúng, phấn đấu số người tham gia tập luyện TDTT thường xuyên đến năm đạt tỷ lệ dân số và năm đạt 33 . Từ những phân tích và tổng hợp cho thấy: kết quả phân tích tác động của mạng lưới công trình TDTT đối với TDTT cho mọi người chủ yếu mang tính định tính. Căn cứ theo logic của quá trình quản lý TDTT thì đây là sản phẩm đầu ra của hệ thống và chịu sự ảnh hưởng lớn bởi nhân tố đầu vào (số lượng và chất lượng công trình TDTT). Theo tác giả Phạm Đình Bẩm thì xác định tỷ lệ người tập TDTT thường xuyên được xếp theo loại (tự cá nhân tổ chức; do CLB TDTT tổ chức; do cơ quan chính quyền địa phương tổ chức; do cơ sở hạch toán kinh doanh TDTT tổ chức; do xí nghiệp, nhà trường, cơ quan tổ chức). Tuy nhiên, việc xác định mạng lưới công trình TDTT đã đáp ứng theo loại trên hoặc bao nhiêu , so với tỷ lệ người tập TDTT thường xuyên, lại chưa được đề cập. Các tính toán này có ý nghĩa quan trọng trong việc so sánh giữa các địa phương, định hướng phát triển công trình TDTT mới. Về khai thác, sử dụng các công trình TDTT sau đầu tư: chưa thực sự đem lại hiệu quả cao, thậm chí gây lãng phí (tình trạng nợ đọng vốn, khai thác và sử dụng không liên tục, d n tới công trình bị xuống cấp...). Công tác xã hội hoá TDTT đã được khuyến khích, tạo điều kiện, tuy nhiên còn gặp rất nhiều khó khăn, do đây là lĩnh vực khó hoàn vốn, nhu cầu vốn lớn, lợi nhuận thấp... Kết quả tổng hợp cho thấy: các đánh giá v n chủ yếu mang tính định tính, chưa khu trú được vấn đề khai thác không hiệu quả do nguyên nhân nào (địa điểm xa khu dân cư, chất lượng công trình thấp, giá dịch vụ cao...). Cụm từ "khai thác hiệu quả công trình TDTT" thường xuyên được đề cập trong các bản thông tin phục vụ 126
  18. quản lý TDTT của Tổng cục TDTT và nhiều báo cáo, song những chỉ số nào dùng để đánh giá lại chưa được thể hiện đầy đủ. Ch ng hạn, nếu công trình TDTT cho mục tiêu phúc lợi xã hội đã đáp ứng bao nhiêu người tập ? So sánh với công suất của công trình TDTT thì đáp ứng bao nhiêu ? Đối với các CSTT chuyển sang cơ chế dịch vụ cũng cần có những số liệu trên, song cần bổ sung số liệu về hạch toán kế toán trong kinh doanh và giá dịch vụ có ưu đãi gì cho các đối tượng có thu nhập khác nhau. Về phương hướng khắc phục các tồn tại: ngành TDTT tập trung triển khai và thực hiện triệt để các mục tiêu, định hướng và các giải pháp trong chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đến năm đã được Thủ tướng phê duyệt. Đặc biệt là một số định hướng và giải pháp chính liên quan đến huy động nguồn lực phục vụ cho phát triển TDTT như: Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật TDTT nhằm phục vụ thể thao thành tích cao, đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn đăng cai, tổ chức các Đại hội thể thao khu vực, châu lục và thế giới. Ban hành quy định về quy hoạch xây dựng các cơ sở thể thao; quy hoạch cơ sở vật chất, kỹ thuật TDTT quốc gia đến năm , định hướng đến năm . Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đầu tư xây dựng, củng cố cơ sở vật chất, kỹ thuật TDTT quần chúng ở xã, phường, thị trấn, khu dân cư và phát triển TDTT học đường; tiếp tục thực hiện xã hội hoá TDTT; mở rộng, sản xuất kinh doanh và dịch vụ TDTT; huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cho phát triển TDTT. Từ những nội dung tổng hợp cho thấy: Chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đến năm đã được hiểu đầy đủ là một hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn, thể hiện tầm nhìn, mục tiêu của TDTT Việt Nam. Đồng thời cũng đã chỉ ra những nội dung cần bổ sung trong quy hoạch CSTT, CSVC kỹ thuật TDTT đến năm , định hướng đến năm của quốc gia nói chung và các tỉnh nói riêng. Vì vậy, các vấn đề tồn tại trong đánh giá hiệu quả công trình TDTT, cần thiết được giải quyết trên cả cơ sở lý luận và thực tiễn. 3. Nhu cầu v tiêu dùn thể dục thể th o quần chún 127
  19. 3.1. Nhu cầu Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau. Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được. Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả năng chi phối hoạt động con người càng cao. Theo lý luận của các nhà xã hội học thế kỷ 7- thì con người có nhu cầu: ―vật chất và tinh thần‖. Cũng theo các nhà nghiên cứu xã hội học, tâm lý học hiện đại thì nhu cầu có 3 cấp độ: Nhu cầu sinh tồn; Nhu cầu phát triển; Nhu cầu hưởng thụ. Nhu cầu là động lực phát triển, có mục đích mới trở thành động cơ, như yếu tố tích cực của tâm lý. Nhu cầu thể dục thể thao là loại nhu cầu phát triển và hưởng thụ. Nhu cầu tiêu dùng là khái niệm chỉ nhu cầu, ý muốn, nguyện vọng một cái gì đó mà con người có khả năng chi trả và thực hiện. Tiêu dùng là mục đích và cũng là động cơ của sản xuất hay dịch vụ và đó là giai đoạn cuối cùng của quá trình lao động sản xuất hay dịch vụ của con người, sau tiêu dùng tiếp đến tái sản xuất mở rộng sản xuất dịch vụ. Như vậy, nhu cầu tiêu dùng thể dục thể thao gắn liền với nhu cầu tiêu dùng xã hội nhằm phục vụ nhu cầu hưởng thụ và phát triển. Đồng thời là mục đích và động cơ của sản xuất dịch vụ trong quá trình lao động sản xuất của con người tạo ra của cải vật chất và tái tạo nhằm cung cấp cho con người. Sản xuất xã hội hiện đại thời k công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra những điều kiện về đời sống vật chất và tinh thần, mở ra những cơ hội để con người thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí, trong đó nhu cầu thể dục thể thao là một nhu cầu ngày càng lớn trong xã hội hiện đại. Nguyên nhân sử dụng thể dục thể thao trong lao động và đời sống xã hội hiện đại bởi sản xuất công nghiệp gây nhiều mặt tiêu cực về sức khỏe, thể chất, tinh thần, 128
  20. nhưng song hành cùng với đời sống nâng cao thì thể thao giải trí lại được xã hội quan tâm hơn bao giờ hết. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa thì nhu cầu thể dục thể thao được quan niệm dưới góc độ kinh tế, nhiều sản phẩm thể dục thể thao đáp ứng nhu cầu của con người đã được quan niệm là tiêu dùng thể dục thể thao. Chính vì vậy tiêu dùng thể dục thể thao là phạm trù kinh tế học đã được xem xét theo các quy luật của kinh tế. Thực tế trong 3 năm đổi mới của nước ta, đã chỉ ra sự xuất hiện các loại hình cung ứng dịch vụ thể dục thể thao để thỏa mãn nhu cầu tập luyện, vui chơi giải trí cho các lứa tuổi, các đối tượng, các thành phần xã hội ở nước ta. Điều đó bắt nguồn từ quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về chăm sóc và bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn lực lao động có tri thức, có sức khoẻ mà các nghị quyết các Đại hội Đảng toàn quốc đã xác định. Phong trào rèn luyện thân thể của nhân dân đã chiếm gần 3 (Tính đến năm ) dân số, chưa kể việc tập luyện và học tập môn thể dục trong nhà trường và các thành phần xã hội khác như doanh nhân, nhà ngoại giao, nhà chính trị - xã hội người nước ngoài ở Việt Nam cũng có nhu cầu lớn về hoạt động thể dục thể thao. Chính vì vậy việc nghiên cứu nhu cầu tập luyện thể dục thể thao dưới góc độ tiêu dùng thể dục thể thao ở nước là hết sức cần thiết. Điều đó phản ánh mối quan hệ giữa hoạt động thể dục thể thao với hoạt động kinh tế trong những năm đầu của chặng đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng thể dục thể thao trong phạm trù kinh tế học để xác định những đặc điểm tính chất vận hành cung ứng dịch vụ thể dục thể thao ở nước ta phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó có những giải pháp về tổ chức, quản lý các hoạt động thể dục thể thao trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Con người tham gia vào các hoạt động khác nhau, với tư cách là chủ thể hoạt động, đều xuất phát từ nhu cầu của hiện thực. Nhu cầu được xem là nhân tố tiền đề, cơ sở để nảy sinh động cơ hoạt động. Nói cụ thể là con người chỉ có hành động khi thấy có nhu cầu. Vậy tham gia hoạt động thể dục thể thao chỉ có được khi có nhu 129
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2