intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thành lập hội đồng trường trong các trường đại học – Bước đi tất yếu trong tiến trình đổi mới để hội nhập với thế giới của giáo dục đại học Việt Nam

Chia sẻ: Bautroibinhyen17 Bautroibinhyen17 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

95
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này đúc kết những kết quả nghiên cứu về mô hình HĐT trên thế giới và góp thêm các ý kiến khuyến nghị về chính sách cho việc triển khai thành công việc thành lập HĐT trong các trường đại học ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thành lập hội đồng trường trong các trường đại học – Bước đi tất yếu trong tiến trình đổi mới để hội nhập với thế giới của giáo dục đại học Việt Nam

Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 10 – 18<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG TRƯỜNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC – BƯỚC ĐI<br /> TẤT YẾU TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI ĐỂ HỘI NHẬP VỚI THẾ GIỚI CỦA<br /> GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM<br /> Nguyễn Huy Vị<br /> TS. Trường Đại học Phú Yên<br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 15/06/15<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 19/08/15<br /> Ngày chấp nhận đăng: 03/16<br /> Title:<br /> Establishing the University<br /> Council at universities is<br /> indispensable step in the<br /> process of innovation to<br /> integrate Viet Nam higher<br /> education into the world<br /> Từ khóa:<br /> Hội đồng trường, quyền tự chủ<br /> đại học<br /> Keywords:<br /> University Council, self-control<br /> right of university<br /> <br /> ABSTRACT<br /> The world’s higher education in the last decades has been under pressure of<br /> innovation to adapt to the rapid and diversified changes of the age. The<br /> distinctions of political institutions, economy, culture and society draws a<br /> diversified picture of education innovating polices of some countries in the<br /> world. However, all the innovating efforts focus on developing the self-control<br /> rights of higher education. The corresponding higher education managing<br /> mode of implementing the self-control rights of higher education is conceded as<br /> a model of University Board (UB).<br /> The article summaries the research results of UB in the world and contributes<br /> some recommendations of policy to successfully developing UB in universities<br /> in Viet Nam.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Giáo dục đại học thế giới trong những thập kỷ gần đây phải chịu nhiều áp lực<br /> cải tổ để thích ứng tốt hơn với sự đổi thay nhanh chóng và nhiều mặt của thời<br /> đại. Sự khác biệt về thể chế chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đã vẽ nên bức<br /> tranh đa dạng về chính sách cải cách giáo dục đại học của các quốc gia trên<br /> toàn thế giới. Tuy nhiên, mọi nỗ lực cải cách đều hội tụ ở khuynh hướng phát<br /> triển quyền tự chủ đại học. Và phương thức quản trị đại học tương ứng để thực<br /> thi quyền tự chủ đại học, được thừa nhận là mô hình hội đồng trường (HĐT).<br /> Bài viết này đúc kết những kết quả nghiên cứu về mô hình HĐT trên thế giới và<br /> góp thêm các ý kiến khuyến nghị về chính sách cho việc triển khai thành công<br /> việc thành lập HĐT trong các trường đại học ở Việt Nam.<br /> <br /> quyền tự chủ đại học (ĐH). Và phương thức quản<br /> trị ĐH tương ứng để thực thi quyền tự chủ ĐH,<br /> được thừa nhận là mô hình hội đồng trường<br /> (HĐT).<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Giáo dục đại học (GDĐH) thế giới trong những<br /> thập kỷ gần đây phải chịu nhiều áp lực cải tổ để<br /> thích ứng tốt hơn với sự đổi thay nhanh chóng và<br /> nhiều mặt của thời đại. Sự khác biệt về thể chế<br /> chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đã vẽ nên bức<br /> tranh đa dạng về chính sách cải cách GDĐH của<br /> các quốc gia trên toàn thế giới. Tuy nhiên, mọi nỗ<br /> lực cải cách đều hội tụ ở khuynh hướng phát triển<br /> <br /> Ở Việt Nam, thuật ngữ HĐT lần đầu tiên được<br /> nêu ra chính thức trong một văn bản quy phạm<br /> pháp luật, đó là Điều lệ trường ĐH, do Thủ tướng<br /> Chính phủ ký ban hành, kèm theo Quyết định số<br /> 153/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003. Từ đó đến<br /> 10<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 10 – 18<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> nay, các viện nghiên cứu, các trường ĐH liên tục<br /> mở nhiều diễn đàn, hội thảo khoa học để tập hợp<br /> các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý<br /> v.v… trao đổi, luận bàn nhằm hình thành những<br /> quan niệm đúng đắn làm cơ sở cho việc triển khai<br /> thành lập HĐT ở các trường ĐH Việt Nam; đồng<br /> thời, cung cấp những kinh nghiệm của GDĐH thế<br /> giới về mô hình HĐT, cũng như những gợi ý về<br /> khả năng thực thi ở Việt Nam theo yêu cầu của<br /> Thủ tướng Chính phủ. Thế nhưng, hơn một thập<br /> kỷ đã trôi qua, mô hình HĐT vẫn thiếu sức sống<br /> trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và<br /> trong phân khúc GDĐH Việt Nam nói riêng.<br /> <br /> định ở trường ĐH bởi một HĐT tỏ ra là một mô<br /> hình phổ biến ở những nước có nền kinh tế<br /> chuyển đổi cũng như ở nhiều nước khác” (Trung<br /> tâm đào tạo khu vực SEAMEO tại Việt Nam &<br /> Viện nghiên cứu giáo dục, 2004, tr.7).<br /> 2.1 Cơ chế quản trị kiểu “hội đồng”<br /> GS. Phạm Phụ, chuyên gia nghiên cứu rất nhiều<br /> về mô hình HĐT cho thấy rằng, trong tổ chức<br /> quản trị (hay cai quản) xã hội và Nhà nước nói<br /> chung, các tổ chức vì lợi nhuận và không vì lợi<br /> nhuận nói riêng, đặc biệt là ở các tổ chức “chủ sở<br /> hữu mờ” hoặc “chủ sở hữu cộng đồng”, có hai<br /> loại cơ chế hay “định chế tổ chức” (Institution)<br /> chính được sử dụng đồng thời và rất phổ biến ở xã<br /> hội ngày nay. Thứ nhất là cơ chế có cấu trúc kiểu<br /> tập quyền (Hierachical - như trung ương có nhiều<br /> tỉnh, tỉnh có nhiều huyện, huyện có nhiều xã,<br /> v.v...). Cơ chế này còn gọi là “cơ chế hành chính/<br /> quan liêu” (Bureaucratic); cấp trên “cử” cấp dưới,<br /> chủ yếu cấp dưới phải nghe cấp trên nên mối liên<br /> hệ là kiểu liên kết dọc bất đối xứng. Cách ra quyết<br /> định ở đây là những quyết định của cá nhân. Thứ<br /> hai là cơ chế “điều phối tự quản” (Self-regulation)<br /> kiểu “hội đồng” (Board / Council) theo cách “bầu<br /> chọn” các đại diện của các “nhóm lợi ích có liên<br /> quan” (Stakeholders). Những người đại diện này<br /> có địa vị ngang nhau nên mối liên hệ là kiểu liên<br /> kết ngang bình đẳng. Cách ra quyết định ở đây lại<br /> là những nghị quyết của tập thể HĐ. Ở Việt Nam,<br /> trong khi cơ chế thứ nhất - cơ chế có cấu trúc kiểu<br /> tập quyền được thừa nhận và biết đến nhiều vì<br /> tính phổ biến của nó và vì nó là thuộc tính cơ bản<br /> của mọi tổ chức quản trị xã hội, thì cơ chế thứ hai<br /> - cơ chế quản trị kiểu “hội đồng”, nhất là trong<br /> mọi tổ chức quản trị có “chủ sở hữu mờ” hoặc<br /> “chủ sở hữu cộng đồng” như tổ chức trường học,<br /> ít được quan tâm nghiên cứu và vận dụng đồng<br /> thời cùng với cơ chế thứ nhất để tạo ra sự hiệu<br /> quả của tổ chức.<br /> <br /> Việc thành lập HĐT là một xu thế tiến bộ, thông<br /> qua đó khẳng định quyền và năng lực tự chủ của<br /> cơ sở GDĐH. Cho nên, dù muốn hay không, để<br /> hoà nhập và phát triển sánh vai cùng với GDĐH<br /> thế giới trong kỷ nguyên mới, các trường ĐH Việt<br /> Nam phải tối ưu hoá những ràng buộc của mình<br /> (optimisation des contraintes) để “khai sinh” HĐT<br /> theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, mới được<br /> nhắc lại lần nữa bằng một văn bản quy phạm pháp<br /> luật khác – Điều lệ trường ĐH (Quyết định số<br /> 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014).<br /> Bài viết này đúc kết những kết quả nghiên cứu về<br /> mô hình HĐT trên thế giới và góp thêm các ý kiến<br /> khuyến nghị về chính sách cho việc triển khai<br /> thành công việc thành lập HĐT trong các trường<br /> ĐH ở Việt Nam.<br /> 2. MÔ HÌNH HĐT – KINH NGHIỆM CỦA<br /> THẾ GIỚI<br /> HĐT là một cơ chế được sử dụng rất phổ biến<br /> trong quản trị GDĐH ở các nước phát triển trên<br /> thế giới. Có rất nhiều mô hình và nhiều tên gọi<br /> khác nhau để chỉ HĐT như: Board of Trustees,<br /> Board of Regents, Board of Governors, University<br /> Board, University Council, University Court,<br /> v.v... Nhưng tất cả đều có bản chất là một “HĐ cai<br /> quản/quản trị” (Governance), có thẩm quyền cao<br /> nhất trong cơ cấu tổ chức của một trường ĐH. Mô<br /> hình này cũng đã được sử dụng khá nhiều ở các<br /> nước đang phát triển như Malaysia, Thailand, Ấn<br /> Độ, Đông Âu, Trung Âu, v.v... Chính vì vậy,<br /> Giám đốc văn phòng Châu Á Thái Bình Dương<br /> của UNESCO, TS Wang Yibing đã nói: “Ra quyết<br /> <br /> 2.2 Chức năng, nhiệm vụ của HĐT<br /> HĐT chủ yếu có vai trò lãnh đạo, còn hiệu trưởng<br /> chủ yếu có vai trò quản lý. Lãnh đạo là “chọn việc<br /> đúng” (Doing the right things), còn quản lý là<br /> “thực hiện công việc một cách đúng đắn” (Doing<br /> the things right). Tuỳ thuộc tính chất trường ĐH,<br /> 11<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 10 – 18<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> là ĐH công lập hay tư thục, cũng như mong muốn<br /> của các “nhóm có lợi ích có liên quan”, mà chức<br /> năng, nhiệm vụ của HĐT có sự khác biệt giữa các<br /> trường với nhau.<br /> <br /> vài thập niên qua đã trải qua những đổi thay đáng<br /> kể và đồng quy ở một điểm: Phân phối quyền lực<br /> từ chính quyền sang ĐH. Đây là cơ chế “phân<br /> phối thẩm quyền” từ mô hình có cấu trúc “Đầu<br /> nặng” (Top-heavy) sang mô hình có cấu trúc<br /> “Đuôi nặng” (Bottom-heavy), nghĩa là thẩm<br /> quyền ra quyết định trong GDĐH sẽ được tập<br /> trung chủ yếu ở cấp trường ĐH.<br /> <br /> Tuy nhiên, theo GS. Phạm Phụ, chức năng, nhiệm<br /> vụ của HĐT có một số điểm chung như sau: a)<br /> Thứ nhất là làm chiếc cầu nối giữa nhà trường và<br /> chủ sở hữu (CSH) cộng đồng. HĐT luôn phải hiểu<br /> họ là người được "CSH cộng đồng" ủy thác cả về<br /> quyền sử dụng (QSD), quyền đại diện pháp lý lẫn<br /> một phần quyền định đoạt lợi ích phát sinh để<br /> đảm bảo giá trị kinh tế - xã hội của nhà trường và<br /> đáp ứng được những nhu cầu và những quan tâm<br /> của “CSH cộng đồng”. Chính vì vậy người ta nói,<br /> HĐT lãnh đạo trường bắt đầu từ bên ngoài chứ<br /> không phải từ bên trong trường ĐH; b) Thứ hai là<br /> xây dựng chính sách - một dạng công cụ để cai<br /> quản của HĐT và đây là nhiệm vụ trọng tâm của<br /> họ. Chính sách có thể bao gồm: các mục tiêu cần<br /> phải đạt được như về chiến lược phát triển, huy<br /> động vốn, chi phí đào tạo, chất lượng đào tạo, các<br /> phương thức để đạt được mục tiêu như cách làm<br /> việc của HĐT, "các giới hạn về mặt thực thi"<br /> (Executive limitations), các mối quan hệ trong<br /> nhà trường, v.v... Cũng chính vì vậy người ta nói,<br /> HĐT lãnh đạo trường theo kiểu nhìn về tương lai<br /> nhiều hơn là nhìn về quá khứ; và c) Thứ ba là<br /> đảm bảo (theo nghĩa bảo hiểm) sự hoàn thành<br /> nhiệm vụ của bộ phận thực thi, thông qua việc<br /> theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc đáp ứng các tiêu<br /> chí đã đặt ra cho các thành viên của nhà trường.<br /> (Trung tâm đào tạo khu vực SEAMEO tại Việt<br /> Nam & Viện nghiên cứu giáo dục, 2004, tr. 1011).<br /> <br /> Tại sao lại phải có cơ chế HĐT? Phải chăng có<br /> HĐT làm cho việc quản trị của một trường ĐH<br /> trở thành phức tạp hơn? - GS. Phạm Phụ cho<br /> rằng, thế giới chỉ tiếp tục thảo luận và tranh luận<br /> về phân chia thẩm quyền trong GDĐH, về trách<br /> nhiệm xã hội (Accountability) của trường ĐH, về<br /> kiểu và cơ cấu HĐT mới v.v…, mà chưa thấy tài<br /> liệu nào trực tiếp nêu ra những vấn đề liên quan<br /> đến câu hỏi nói trên. Và vì vậy, ông nhận định:<br /> “Phải chăng, với thế giới, việc có hay không có<br /> HĐT không còn là một câu hỏi và cơ chế HĐT là<br /> tất yếu?” (Trung tâm đào tạo khu vực SEAMEO<br /> tại Việt Nam & Viện nghiên cứu giáo dục, 2004,<br /> tr.8).<br /> Liên hệ với điều kiện Việt Nam, chúng tôi nhận<br /> thấy, GDĐH Việt Nam tuy chưa bắt kịp GDĐH<br /> thế giới về mặt quản trị - một trong những lý do<br /> cơ bản làm cho GDĐH Việt Nam tụt hậu so với<br /> GDĐH thế giới, nhưng xét trong quá trình chuyển<br /> đổi, đã hội đủ những yếu tố cần thiết, làm tiền đề<br /> cho việc khai triển HĐT trong các trường ĐH,<br /> nhằm tăng tính hiệu quả của quản trị ĐH; đồng<br /> thời, làm cơ sở để GDĐH Việt Nam hội nhập và<br /> phát triển cùng GDĐH thế giới:<br /> Trước hết, có thể thấy rằng GDĐH Việt Nam<br /> trong 30 năm đổi mới đã có những bước chuyển<br /> đổi hết sức cơ bản: từ một nền GDĐH tinh hoa<br /> (elite), hoàn toàn được bao cấp từ Nhà nước, nay<br /> đã chuyển sang nền GDĐH đại chúng (mass), có<br /> chính sách thu học phí; phân khúc GDĐH ngày<br /> càng trở nên đa dạng hơn về loại hình, mục đích,<br /> tính chất và quyền sở hữu, không chỉ làm nên sức<br /> sống của chính phân khúc này, mà còn nhằm thoả<br /> mãn tốt hơn nhu cầu được tiếp cận GDĐH ngày<br /> càng tăng của công chúng; sứ mạng, mục tiêu của<br /> trường ĐH ngày nay đã khác trước rất nhiều so<br /> với trường ĐH truyền thống. Ngoài các chức năng<br /> <br /> 2.3 Việc thành lập HĐT trong các trường đại<br /> học ở Việt Nam – Một xu thế tất yếu.<br /> Theo PGS.TS. Nguyễn Thiện Tống (2004), khi<br /> xem xét tính tất yếu của HĐT trong cơ cấu tổ<br /> chức – quản trị ĐH, phải đặt nó trong mối quan hệ<br /> với quyền tự chủ của ĐH. Nói cách khác, phải<br /> xem xét mối quan hệ giữa chính quyền và hệ<br /> thống GDĐH – vốn thuộc thẩm quyền “cai quản”<br /> của chính quyền, tức là mức độ can thiệp của<br /> chính quyền đối với ĐH [5, tr.16]. Quan hệ giữa<br /> chính quyền và ĐH ở các nước trên thế giới trong<br /> 12<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 10 – 18<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> giảng dạy và nghiên cứu, trường ĐH ngày nay<br /> còn phải đảm đương thêm nhiều chức năng mới<br /> khác do bối cảnh thời đại mang lại như đảm bảo<br /> định hướng quốc gia, nuôi dưỡng và phát triển<br /> nguồn lực tài chính, chính sách học phí, điều phối<br /> các nguồn lực có hiệu quả, kiểm soát chất lượng,<br /> bảo vệ người “tiêu dùng”/sinh viên, cung ứng các<br /> dịch vụ đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, hợp tác<br /> và cạnh tranh để thu hút sinh viên và giảng viên<br /> v.v… Nghĩa là, đã có nhiều nội dung cần phải ra<br /> quyết định vượt ra ngoài khuôn khổ của trường<br /> ĐH truyền thống, trong đó có vấn đề tài chính và<br /> phát triển quy mô trường ĐH. Trong bối cảnh đó,<br /> cần phải giao tài sản và một phần quyền định đoạt<br /> lợi ích phát sinh cho một HĐT, như hội đồng<br /> quản trị ở các tổng công ty Nhà nước.<br /> <br /> Như vậy, chuyển đổi mô hình quản trị trường ĐH<br /> từ “kiểm soát nhà nước” sang “giám sát nhà<br /> nước”, tất yếu dẫn đến một phương thức quản trị<br /> ĐH mới, đó là mô hình HĐT - một xu thế mà<br /> GDĐH Việt Nam không thể cưỡng lại, nếu muốn<br /> tồn tại và phát triển sánh vai cùng GDĐH thế giới<br /> trong kỷ nguyên mới.<br /> 3. NGHIÊN CỨU, VẬN DỤNG MÔ HÌNH<br /> HĐT VÀO ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆT NAM<br /> Mô hình HĐT là một trải nghiệm thành công của<br /> GDĐH thế giới. Nghiên cứu, vận dụng mô hình<br /> HĐT vào điều kiện của Việt Nam, nhất là trong<br /> bối cảnh Việt Nam đang triển khai thực hiện Nghị<br /> quyết số 29- NQ/TW ngày 4/11/2013 của BCH<br /> TƯ Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục<br /> và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,<br /> hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường<br /> định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,<br /> càng có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và bức thiết.<br /> <br /> Thứ hai, hiện nay Nhà nước đang có chủ trương<br /> tăng “quyền tự chủ” cho các trường ĐH, quyền<br /> này đã được luật hoá (Điều 32 – Luật GDĐH năm<br /> 2012). Trong bối cảnh mới ngày nay, trường ĐH<br /> phải biết tự mình đổi mới, phải biết chấp nhận rủi<br /> ro, phải tự đưa ra nhiều quyết định có tính chất đa<br /> mục tiêu v.v... Và như thế, chỉ có HĐT mới có thể<br /> đảm đương được trọng trách đó.<br /> <br /> 3.1 Sự phát triển của nhận thức về khái niệm<br /> HĐT đã được thể chế hoá như thế nào?<br /> Như đã nói, mọi nỗ lực cải tổ GDĐH diễn ra trên<br /> phạm vi toàn thế giới trong những thập kỷ qua<br /> đồng quy ở một điểm: tăng cường quyền tự chủ<br /> cho các trường ĐH và Việt Nam không đứng<br /> ngoài xu thế đó. Quá trình nghiên cứu kinh<br /> nghiệm của thế giới để vận dụng vào công cuộc<br /> đổi mới GDĐH Việt Nam, giới làm chính sách<br /> quan tâm đến mô hình HĐT không chỉ về mặt lý<br /> thuyết, mà còn cả tính thực tiễn của nó trong cải<br /> tổ quản trị GDĐH theo hướng tăng cường quyền<br /> tự chủ cho các trường ĐH. Do đó, có thể nói rằng,<br /> sự phát triển của nhận thức về khái niệm HĐT,<br /> thực chất là quá trình tư duy rạch ròi về chức năng<br /> lãnh đạo và quản lý, nhằm giám sát việc điều hành<br /> và đảm bảo tính minh bạch trong giải trình trách<br /> nhiệm của trường ĐH trước các bên liên quan.<br /> Quá trình này gắn liền với việc hoàn thiện khung<br /> pháp lý về mô hình HĐT trong cấu trúc tổ chức quản lý của các trường ĐH ở Việt Nam.<br /> <br /> Thứ ba, GDĐH Việt Nam hiện chưa chú ý đầy đủ<br /> về mặt “hiệu quả” (tài chính) và “trách nhiệm xã<br /> hội” (Effectiveness and Accountability). Không<br /> riêng gì Việt Nam, các trường ĐH trên thế giới,<br /> hiện nay đều lúng túng trước những vấn đề phải<br /> “đánh đổi” (trade-offs) với nhau: chất lượng đào<br /> tạo và tài chính. Môi trường đào tạo trong nền<br /> kinh tế thị trường tất yếu phải chấp nhận sự cạnh<br /> tranh; do có nhiều lựa chọn mà bất cứ trường ĐH<br /> nào của Việt Nam cũng phải đối mặt như: học phí<br /> phải chấp nhận được, các chương trình phải phù<br /> hợp nhu cầu thị trường, sinh viên ra trường phải<br /> được thị trường tiếp nhận tốt (có việc làm, lương<br /> cao). Và đây cũng sẽ là một áp lực lớn và ngày<br /> càng rất lớn của xã hội, trước hết là của SV và<br /> những “nhóm có lợi ích liên quan”, đè nặng lên<br /> các trường ĐH trong bối cảnh cơ chế dân chủ cơ<br /> sở ngày càng được mở rộng. Do vậy, cần phải có<br /> một thiết chế như HĐT trong cơ cấu tổ chức quản<br /> trị ĐH mới có thể đủ sức để giải quyết được các<br /> nan đề này một cách khoa học.<br /> <br /> Từ năm 2003 đến nay, tròn một thập kỷ, Quốc hội<br /> và Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực về mặt<br /> lập quy pháp luật nhằm thể chế hoá mô hình<br /> HĐT, tạo động lực thúc đẩy đổi mới quản trị<br /> GDĐH Việt Nam. Kết quả của những nỗ lực đó<br /> 13<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 10 – 18<br /> <br /> Part A: Social Sciences, Humanities and Education<br /> <br /> đẩy tới quá trình ban hành các văn bản pháp quy<br /> như Điều lệ trường ĐH năm 2003, ban hành kèm<br /> theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg, ngày<br /> 30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ; Luật Giáo<br /> dục số 38/2005/QH11 ngày 14/6/2005 của Quốc<br /> hội khoá XI; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của<br /> Luật Giáo dục số 44/2009/QH12 ngày 25/11/2009<br /> của Quốc hội khoá XII; Điều lệ trường ĐH năm<br /> 2010, ban hành kèm theo Quyết định số<br /> 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng<br /> Chính phủ; Luật GDĐH số 08/2012/QH13 ngày<br /> 18/6/2012 của Quốc hội khoá XIII; Điều lệ trường<br /> ĐH, ban hành kèm theo Quyết định số<br /> 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ tướng<br /> Chính phủ.<br /> <br /> trưởng, phó hiệu trưởng, các hoạt động của Hội<br /> đồng khoa học và đào tạo và các hội đồng tư vấn<br /> khác (nếu có) theo qui định của Bộ Giáo dục và<br /> Đào tạo (Điểm e, Khoản 1); Định kỳ hoặc đột<br /> xuất báo cáo cơ quan quản lý nhà nước, giải trình<br /> về các hoạt động, việc thực hiện cam kết và kết<br /> quả dự kiến của trường (Điểm g, Khoản 1); Giới<br /> thiệu nhân sự để cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm<br /> hiệu trưởng (Điểm h, Khoản 1); Giám sát các<br /> hoạt động của nhà trường; Khi cần thiết, yêu cầu<br /> các đơn vị trong trường báo cáo, giải trình về các<br /> hoạt động liên quan (Điểm i, Khoản 1); Thông<br /> qua về: việc thành lập, sáp nhập, chia tách và giải<br /> thể các đơn vị trong trường; kế hoạch ngân sách,<br /> mức học phí; chỉ tiêu tuyển sinh, kế hoạch tuyển<br /> sinh và phương thức tuyển sinh; danh sách thành<br /> viên của Hội đồng khoa học và đào tạo (Điểm k,<br /> Khoản 1). Điều 35, chương VIII, ngoài qui định<br /> phải chấp hành các quyết nghị của HĐT như Điều<br /> lệ trường ĐH năm 2003, hiệu trưởng còn phải có<br /> trách nhiệm báo cáo định kỳ với HĐT và giải<br /> trình trước HĐT khi có yêu cầu (Khoản 5); Khoản<br /> 3, Điều 37, chương VIII, qui định thêm, HĐT có<br /> quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm<br /> quyền miễn nhiễm hiệu trưởng; và trường hợp cần<br /> thiết, HĐT có thể tổ chức lấy phiếu thăm dò tín<br /> nhiệm hiệu trưởng giữa nhiệm kỳ hay đột xuất<br /> (Khoản 4).<br /> <br /> Nguyên tắc pháp lý là Điều lệ trường ĐH chấp<br /> hành Luật GDĐH và Luật GD; và văn bản pháp<br /> quy sau kế thừa và phát triển văn bản pháp quy<br /> trước. So sánh các văn bản điều lệ trường ĐH<br /> được ban hành trong suốt một thập kỷ qua, chúng<br /> tôi nhận thấy, chức năng nhiệm vụ của HĐT có<br /> khuynh hướng hội tụ vào 03 chức năng cốt lõi<br /> sau: a) quyết nghị những vấn đề quan trọng của<br /> trường ĐH; b) giám sát việc thực hiện các nghị<br /> quyết của HĐT, việc thực hiện quy chế dân chủ<br /> trong các hoạt động của nhà trường; và c) giải<br /> trình trách nhiệm với cơ quan trực tiếp quản lý<br /> trường, cơ quan quản lý nhà nước.<br /> <br /> b) So với Điều lệ trường ĐH năm 2010, Điều lệ<br /> trường ĐH năm 2014 tái khẳng định quyền của<br /> HĐT về giới thiệu nhân sự để thực hiện qui trình<br /> bổ nhiệm và miễn nhiệm hiệu trưởng và phó hiệu<br /> trưởng bằng một khoản của một điều qui định về<br /> HĐT: Điểm d, Khoản 1, Điều 9, mục 2, chương<br /> II; trong khi, Điều lệ trường ĐH năm 2010, quyền<br /> này được qui định tại các điều khác, ngoài nội<br /> dung của điều qui định về HĐT; và tại Điểm đ,<br /> Khoản 1, Điều 9, mục 2 chương II tiếp tục nêu:<br /> “Yêu cầu hiệu trưởng giải trình về những vấn đề<br /> chưa được thực hiện đúng, chưa được thực hiện<br /> đầy đủ theo nghị quyết của HĐT, nếu có...”<br /> <br /> Sự phát triển nhận thức về khái niệm HĐT trong<br /> suốt quá trình thể chế hoá chính là sự nhất quán<br /> 03 chức năng cốt lõi của HĐT nêu trên; đồng thời,<br /> qui định ngày càng rộng hơn quyền tự chủ của<br /> HĐT và xác định rõ hơn mối quan hệ trách nhiệm<br /> giữa HĐT và hiệu trưởng. Cụ thể như sau:<br /> a) Khái niệm HĐT lần đầu tiên được nêu ra trong<br /> Điều lệ trường ĐH năm 2003, tại Điều 30, chương<br /> VI. So với Điều lệ trường ĐH năm 2003, Điều lệ<br /> trường ĐH năm 2010 qui định thêm chức năng,<br /> nhiệm vụ của HĐT (điều 33, chương VIII) là:<br /> Quyết nghị về chủ trương xây dựng bộ máy tổ<br /> chức, chủ trương tuyển dụng và bồi dưỡng cán<br /> bộ, ...; Huy động nguồn lực cho trường (Điểm c,<br /> Khoản 1); Quyết nghị về định hướng hoạt động<br /> đào tạo, khoa học và công nghệ của trường (Điểm<br /> d, Khoản 1); Hằng năm tổ chức đánh giá hiệu<br /> <br /> Nghiên cứu quá trình thể chế hoá mô hình HĐT ở<br /> Việt Nam, biểu hiện cụ thể ở các văn bản nêu<br /> trên, chúng tôi có những nhận định như sau:<br /> <br /> 14<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1