intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài dự thi tìm hiểu: Lực lượng vũ trang Thanh Hóa 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành

Chia sẻ: Đỗ Thị Thanh Huyền | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

70
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài dự thi tìm hiểu "Lực lượng vũ trang Thanh Hóa 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành" nội dung gồm có 6 câu hỏi trình bày về quá trình thành lập và hoạt động của tổ chức tiền thân lực lượng vũ trang Thanh Hoá, ý nghĩa chiến lược của tỉnh Thanh Hóa trong kháng chiến giải phóng dân tộc,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài dự thi tìm hiểu: Lực lượng vũ trang Thanh Hóa 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU “LỰC LƯỢNG VŨ TRANG THANH HÓA 70 <br /> NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH”<br /> <br /> Câu hỏi 1: Anh (chị) cho biết quá trình thành lập và hoạt động của tổ  <br /> chức tiền thân  LLVT Thanh Hoá ngày nay?<br /> Trả lời:<br />          ­ Ngày 29/7/1930, Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá được  <br /> thành lập. Trong những năm vận động cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa vũ  <br /> trang giành chính quyền từ  (1939­ 1945), Đảng bộ  tỉnh Thanh Hoá đẩy mạnh <br /> việc tổ  chức, xây dựng lực lượng vũ tranh cách mạng, các đội tự  vệ  phản đế <br /> cứu quốc lần lượt ra đời chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền  <br /> cách mạng.<br /> ­ Ngày 28/01/1941, đồng chí Đặng Châu Tuệ được Tỉnh ủy cử đi dự Hội <br /> nghị  liên tỉnh Thanh Hóa ­ Nghệ  An ­ Hà Tĩnh để  tiếp thu Thông báo khẩn cấp <br /> của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam <br /> Kỳ, nội dung Nghị quyết VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và tiếp thu <br /> kế hoạch chỉ đạo phong trào cách mạng của Xứ ủy Trung Kỳ.<br /> ­ Tháng 2 năm 1941, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị đại biểu các cơ sở Đảng trên <br /> địa bàn toàn tỉnh tại làng Phong Cốc (Xuân Minh, Thọ  Xuân). Hội nghị  đã chỉ  rõ <br /> nhiệm vụ trước mắt: Xúc tiến việc xây dựng phát triển các đội tự  vệ và du kích,  <br /> tiến tới đấu tranh vũ trang; Lập vành đai căn cứ địa cách mạng từ Tây Bắc xuống  <br /> Đông Nam tỉnh Thanh Hóa; Phát động phong trào quần chúng đấu tranh chống  <br /> thuế vụ hạ.<br /> ­ Cuối tháng 7 năm 1941, Ban Lãnh đạo chiến khu Ngọc Trạo được thành <br /> lập, gồm 3 đồng chí Đặng Châu Tuệ, Trần Tiến Quân, Đặng Văn Hỷ; lực lượng  <br /> ban đầu gồm 21 chiến sỹ cách mạng được chọn lựa từ nhiều Huyện trong Tỉnh,  <br /> vượt vòng vây của mật thám đã về  Ngọc Trạo tụ  họp. Sau một thời gian bọn  <br /> mật thám nghi ngờ, chúng tìm đường để  dò xét. Để bảo đảm an toàn cho chiến <br /> khu, các chiến sỹ đã bí mật luồn rừng về Hang Treo. <br /> Tại đây, đêm 19/9/1941, đội du kích Ngọc Trạo dưới sự chỉ huy của đồng <br /> chí Đặng Châu Tuệ  chính thức làm lễ  thành lập. Đây là một trong những lực  <br /> lượng vũ trang tập trung tiền thân của lực lượng vũ tranh Tỉnh Thanh Hoá.<br /> Đội du kích gồm 21 chiến sỹ ưu tú tiền thân của lực lượng vũ trang Thanh  <br /> Hoá sau này, mang số thứ tự từ 1 đến 21 do đồng chí Đặng Châu Tuệ  trực tiếp  <br /> làm chỉ  huy trưởng. Dưới lá cờ  đỏ  sao vàng, toàn đội đã đồng tâm nhất trí hô <br /> <br /> <br /> 1<br /> vang lời thể  sắt son của người chiến sỹ  cách mạng, thề  nguyện hy sinh phấn  <br /> đấu đến giọt máu cuối cùng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi tuyên bố <br /> điều lệ, kỷ luật của đội các chiến sỹ  hát vang bài đội ca hùng tráng. Và bài hát  <br /> đã trở  thành bài "Đội ca": "Đời ta khổ  bấy lâu rồi/ Mà sao vẫn cam chịu hoài/  <br /> Đời mình tự  mình phải cứu/ Chớ  trông cậy vào ai/ Công nông binh đoàn kết/  <br /> Trên con đường giai cấp đấu tranh/ Búa liềm kia dắt chúng ta lên đường/ Đại  <br /> đồng"<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Ban Lãnh đạo chiến khu Ngọc Trạo (từ trái qua phải: Đ/c Đặng Châu Tuệ, Đ/c Trần Tiến  <br /> Quân, Đ/c Đặng Văn Hỷ) ­ Ảnh Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa<br /> <br /> <br /> Việc thành lập đội du kích chiến khu Ngọc Trạo đã gây tiếng vang lớn  <br /> cho nhân dân, cổ vũ nhiều thanh niên yêu nước trong tỉnh tình nguyện lên chiến  <br /> khu hoạt động.<br />  ­    Quá trình phát triển về số lượng: Ngày 19­9 ở hang treo gồm 19 người. Đến <br /> ngày 21 tháng 9 thêm 2 người. Đến ngày 22 tháng 9 thêm 3 người, đợt đông nhất  <br /> 16 người Hà Trung cùng lên một ngày. Đến 19 thág 10 năm 1941 có 80 người.<br />   ­    Đội du kích Ngọc Trạo gồm 3 tiểu đội. Mỗi tiểu đội gồm 7 đội viên. Ngoài <br /> ban chỉ huy chung đội còn có cá ban chỉ huy: Quân sự, Hậu cần, bảo vệ và các tổ <br /> chiến đấu. Trang bị  của đội viên gồm có: Quần áo nông dân, túi dết, xà cạp <br /> xanh, một con dao nhọn. Cán bộ  được phát thêm k hẩu súng kíp Thời gian làm <br /> việc của đội là: Buổi sáng tập quân sự, chiều học chính trị, và buổi tối học tập  <br /> văn hoá, sinh hoạt văn nghệ.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> Di tích Hang Treo – được công nhận là Di tích Quốc gia năm 1994<br /> <br /> ­ Đầu tháng 10/1941, được bọn cha cố  phản động chỉ  điểm, thực dân Pháp  <br /> đưa quân đánh úp vào Đa Ngọc, nơi đang tập trung hơn 100 tự vệ; tại đây cuộc chiến <br /> đấu đã diễn ra, nhiều đồng chí đã anh dũng chiến đấu và hy sinh, một số đồng chí <br /> trốn thoát tìm đường đến Ngọc Trạo, bọn mật thám bắt đầu lần ra dấu tích. Ngày <br /> 19/10/1941, chúng đã đưa quân đánh phá chiến khu. Các chiến sỹ  đã kiên cường  <br /> chiến đấu, nhưng vì thế yếu, bị địch bao vây, anh em phải rút lui để bảo toàn lực  <br /> lượng.<br />       ­ Ngay sau cách mạng <br /> Tháng   Tám   năm   1945 <br /> thành công, Tỉnh  ủy,  Ủy <br /> ban  cách   mạng   lâm   thời <br /> tỉnh đã tuyển chọn 1.500 <br /> chiến sĩ tự  vệ  trung kiên <br /> trong   các   đội   quân   khởi <br /> nghĩa   của   các   huyện   để <br /> thành   lập   Chi   đội   giải <br /> phóng   quân   Đinh   Công <br /> Tráng   (24/8/1945),   do <br /> đồng chí Hoàng Tiến Trình là Chi đội trưởng. Ngôi   nhà   ông   Lê   Oanh   Kiều  <br /> (làng Hàm Hạ, Đông Tiến, nay thuộc <br />                                                                  thôn Đại Đồng, thị trấn Rừng Thông, Đông Sơn) ­ nơi thành lập chi  <br /> bộ<br />                                                                      Đảng đầu tiên ở Thanh Hóa đã trở thành Di tích lịch sử quốc gia.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> Câu hỏi 2: Anh (chị) cho biết vị trí, ý nghĩa chiến lược của tỉnh Thanh  <br /> Hóa trong kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc hiện nay?<br /> Trả lời:<br /> *Vị trí địa lý:<br /> Thanh Hoá là một tỉnh lớn của Bắc Trung Bộ có toạ độ địa lý:<br />             – Điểm cực Bắc: 20040’B (tại xã Tam Chung – huyện Quan Hoá)<br />             – Điểm cực Nam: 19018’B (tại xã Hải Thượng – Tĩnh Gia)<br />             – Điểm cực Đông: 106004’Đ (tại xã Nga Điền – Nga Sơn)<br />             – Điểm cực Tây: 104022’Đ (tại chân núi Pu Lang – huyện Quan Hóa)<br /> Thanh Hoá có lãnh thổ  rộng lớn: 11.129,48 km2, là tỉnh có diện tích lớn thứ  5 <br /> trong cả nước. <br /> Về vị trí địa lý, Thanh Hóa tiếp giáp với các tỉnh và nước bạn như sau:<br /> – Phía Bắc: giáp 3 tỉnh, gồm: Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình với đường ranh  <br /> giới dài 175km.<br />             – Phía Nam : giáp Nghệ An với đường ranh giới dài 160 km<br />             – Phía Đông: giáp biển Đông với chiều dài đường bờ biển 102 km.<br />             – Phía Tây: giáp tỉnh Hủa Phăn của nước CHDCND Lào với đường biên <br /> giới dài 192km.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 4<br /> Thanh hoá nằm  ở  vị  trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh  <br /> phía Nam nước ta. Trong lịch sử  nơi đây từng là căn cứ  địa vững chắc chống <br /> ngoại xâm, là kho nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến.<br /> Tỉnh Thanh Hoá nằm trong khu vực chịu  ảnh hưởng của vùng kinh tế <br /> trọng điểm Bắc Bộ. Với 102 km đường bờ  biển  ở  đây có thể  phát triển hoạt <br /> động du lịch, khai thác cảng biển; có đường quốc lộ  1A, đường Hồ  Chí Minh, <br /> đường sắt xuyên Việt và sân bay Thọ Xuân. Thêm vào đó, Thanh Hóa có quy mô <br /> diện tích lớn với nhiều vùng sinh thái khác nhau.<br /> Đặc điểm về  vị  trí địa lý trở  thành một trong những điều kiện thuận lợi  <br /> cho sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của tỉnh Thanh Hóa.<br /> * Thanh Hóa luôn giữ  vai trò là căn cứ  chiến đấu, hậu phương chiến <br /> lược của các cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại.<br /> Theo các nhà nghiên cứu, với tầm nhìn bao quát toàn diện và sâu sắc, Chủ <br /> tịch Hồ Chí Minh đã xác định vị  thế  chiến lược quan trọng của Thanh Hóa trên <br /> cơ sở phân tích các yếu tố địa lợi, nhân hòa, truyền thống và hiện tại, tiềm năng <br /> và sức bật vươn tới để đáp ứng những yêu cầu mới của cách mạng. Bởi vậy, dù <br /> bận trăm công, ngàn việc, nhưng Bác Hồ  vẫn luôn dành cho Đảng bộ, nhân dân  <br /> các dân tộc Thanh Hóa những tình cảm đặc biệt và sự  quan tâm sâu sắc, trực  <br /> tiếp chỉ  dẫn nhiều điều quan trọng. Cùng với những bức thư, điện gửi cho các  <br /> tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, Bác Hồ  đã 4 <br /> lần về thăm tỉnh ta (tháng 2/1947, tháng 6/1957, tháng 7/1960, tháng 12/1961).<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với hơn 3 vạn động bào Thanh Hóa ngày 12/12/1961<br /> <br /> Đặc biệt, ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến (năm 1946), Hồ <br /> Chí Minh và Trung  ương Đảng đã tin tưởng, hy vọng Thanh Hóa trở  thành hậu <br /> phương vững mạnh, có thể ngăn chặn được những cuộc tấn công lấn chiếm của  <br /> <br /> <br /> 5<br /> thực dân Pháp và cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến để  chiến thắng <br /> thực dân Pháp xâm lược. Ý tưởng đó của Người được thể hiện rõ trong chuyến <br /> “vào Thanh kinh lý” tháng 2 năm 1947.<br /> Các tư liệu lịch sử  còn lưu giữ cho biết chuyến đi đầu tiên vào Thanh Hóa  <br /> đã được   Chủ  tịch Hồ  Chí Minh chuẩn bị  kỹ  lưỡng trước nhiều ngày. Ngày <br /> 20/2/1947, khi tới Thanh Hóa, trong thời gian lưu lại rất gấp gáp, buổi sáng   Bác <br /> đã nói chuyện với đội ngũ cán bộ tại Rừng Thông (Đông Sơn). Chiều cùng ngày, <br /> Bác gặp gỡ  nói chuyện với  đại biểu thân sĩ, trí thức,  phú hào. Buổi chiều tối, <br /> Bác nói chuyện với cán bộ, nhân dân thị xã Thanh Hóa tại Nhà  thông tin Thanh <br /> Hóa. Sau chuyến đi, Người còn băn khoăn vì chưa gặp được đại diện của dân <br /> tộc ít người nên ngày 21/2/1947, Người đã viết thư  thăm hỏi đồng bào thượng  <br /> du Thanh Hóa. <br /> Trong các cuộc gặp gỡ  với cán bộ, thân sĩ, trí thức,  phú hào và nhân dân <br /> Thanh Hóa, Người đã giao cho Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa những nhiệm vụ <br /> quan trọng  để   xây dựng   Thanh  Hóa  thành tỉnh kiểu  mẫu, một mô  hình hậu <br /> phương của cuộc chiến tranh nhân dân. Và cũng ngay sau đó, Người lại viết bài <br /> Thanh Hóa kiểu mẫu nêu rõ mục đích, phương châm, cách làm cụ  thể  để  xây  <br /> dựng Thanh Hóa trở thành một tỉnh kiểu mẫu theo chỉ dẫn của Người.<br /> <br /> * Trong 2 cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm <br /> lược (1945 ­ 1975), Thanh Hóa là hậu phương lớn trực tiếp chiến đấu, chi <br /> viện sức người, sức của cho các chiến trường. <br /> ­ Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa là  <br /> tỉnh đất rộng, người đông, cùng với 2 tỉnh Nghệ  An và Hà Tĩnh hợp thành hậu  <br /> phương Thanh – Nghệ  ­ Tĩnh, trong đó Thanh Hóa là tỉnh địa đầu của miền  <br /> Trung, là hậu phương trực tiếp của chiến trường Liên khu III, Bắc Bộ  và Tây  <br /> Bắc.<br /> <br /> Mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang năm thứ 8.  <br /> Cục diện chiến trường Việt Nam đã có những biến đổi quan trọng. Tại chiến <br /> trường Bắc Bộ, Tây Bắc, quân và dân ta mở nhiều chiến dịch lớn. Mọi nhu cầu  <br /> bảo đảm cho cuộc kháng chiến đòi hỏi rất lớn ở hậu phương.<br /> <br /> Những tháng cuối năm 1953, hậu phương Thanh Hóa vừa phải ra sức đẩy <br /> mạnh mọi mặt công tác xây dựng và bảo vệ  hậu phương, vừa tích cực động <br /> viên sức người, sức của cho tiền tuyến đánh thắng. Chiến dịch nối tiếp chiến <br /> dịch, từ  năm 1951­1953, quân và dân Thanh Hóa liên tiếp bổ  sung lực lượng, <br /> phục   vụ   5   chiến   dịch   lớn:   Trung   Du,   Quang   Trung,   Hòa   Bình,   Tây   Bắc   và  <br /> <br /> <br /> <br /> 6<br /> Thượng Lào. Đặc biệt chiến dịch Thượng Lào tháng 5­1953, Thanh Hóa bảo <br /> đảm tới 76% nhu cầu của cả chiến dịch.<br /> <br /> Thực hiện nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953 ­ 1954, ngày 6­12­1953, Bộ <br /> Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ <br /> thị: “Chiến dịch này là chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả <br /> về  chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn <br /> Đảng, toàn quân, toàn dân phải tập trung hoàn thành cho kỳ  được” (Chỉ  thị  của <br /> Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tháng 12 ­1953).<br /> <br /> Quyết tâm chiến lược của Đảng và Chủ  tịch Hồ  Chí Minh tiêu diệt toàn <br /> bộ  quân địch  ở  tập đoàn cứ  điểm Điện Biên Phủ  đã trở  thành ý chí, hành động  <br /> cụ thể của quân và dân ta.<br /> <br /> Thực hiện kế  hoạch của Bộ  Chính trị, các binh đoàn chủ  lực của ta lần <br /> lượt rời  hậu phương Thanh Hóa để dồn sức cho chiến dịch. Các Đại đoàn 304,  <br /> 320, 316 và một số  trung đoàn của bộ  đang đứng chân tác chiến bảo vệ  Thanh  <br /> Hóa và vùng tự do Liên khu III lần lượt hành quân lên Tây Bắc, sang Lào chuẩn  <br /> bị  cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Bảo vệ  Thanh Hóa lúc này do lực lượng vũ  <br /> trang trong tỉnh đảm nhiệm.<br /> <br /> Từ  trung tuần năm 1953 đến đầu năm 1954, khi biết quân và dân ta đang <br /> chuẩn bị mở các chiến dịch lớn tại Lai Châu, Tây Bắc, Thượng Lào và đang ráo  <br /> riết tập trung cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực dân Pháp vừa tăng cường đối <br /> phó với ta  ở  chiến trường Tây Bắc, vừa cho máy bay, tàu chiến bắn phá, càn <br /> quét dữ  dội vào Thanh Hóa nhằm buộc ta chi phối lực lượng    và chia cắt hậu <br /> phương Thanh – Nghệ  ­ Tĩnh với chiến trường chính Tây Bắc và Lào. Ngày 15 <br /> và 16­10­1953, Na­va mở cuộc hành binh Hải Âu đánh ra Tây Nam Ninh Bình và <br /> cuộc hành binh “con bồ nông” đánh vào vùng biển Thanh Hóa. 6 tháng cuối năm <br /> 1953 và những tháng đầu năm 1954, thực dân Pháp cho quân đổ bộ, càn quét hơn  <br /> 10 lần vào các huyện Nga Sơn, Hà Trung, Hoằng Hóa, Quảng Xương và Tĩnh <br /> Gia. Trận càn ít nhất là 100 tên, nhiều nhất là hơn 3.000 tên.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 7<br /> Hình ảnh đoàn xe đạp thồ tiếp viện chiến dịch Điện Biên Phủ<br /> <br /> <br /> Để phân tán lực lượng của địch hỗ trợ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực <br /> hiện chia lửa với chiến trường Bắc Bộ, Tây Bắc, quân, dân Thanh Hóa tổ  chức  <br /> những trận tập kích vào các đồn bốt ở Chính Đại, Mai An Tiêm, Vân Hải thuộc  <br /> các xã phía bắc huyện Nga Sơn để kìm chân địch không để chúng ra ứng cứu cho <br /> chiến trường Bắc Bộ và Tây Bắc. Tại các huyện Hà Trung, Quảng Xương, Tĩnh <br /> Gia, các đại đội bộ đội địa phương đã cùng dân quân du kích tổ chức lực lượng  <br /> chống càn quét bảo vệ địa phương.<br /> <br /> Đầu tháng 12­1953, công cuộc chuẩn bị  cho chiến dịch Điện Biên Phủ <br /> được tiến hành ráo riết. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa một mặt phải tổ  chức  <br /> chiến đấu bảo vệ địa phương, mặt khác phải tích cực chi viện cho chiến trường  <br /> thực hiện khẩu hiệu “Tất cả  cho tiền tuyến, tất cả để  chiến thắng”. Công tác  <br /> tuyển quân không chỉ  một năm 1 đợt, 2 đợt mà có năm lên tới 3, 4 đợt, lúc nào  <br /> tiền tuyến cần, lúc đó có hậu phương chi viện. Năm 1953 và 6 tháng đầu năm <br /> 1954, Thanh Hóa có 18.890 thanh niên nhập ngũ, bằng quân số  nhập ngũ 7 năm <br /> về trước (1946­1953).<br /> <br /> Ngày 6/12/1953, Bộ  Chính trị  Trung  ương Đảng thông qua quyết tâm mở <br /> chiến dịch Điện Biên Phủ  và cũng bắt đầu huy động lực lượng dồn sức cho  <br /> Điện Biên Phủ. Đáp  ứng cho chiến dịch, Thanh Hóa đã nhanh chóng củng cố <br /> nâng cao chất lượng  lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng bộ  đội địa phương <br /> để  kịp thời chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Đảng bộ  và nhân dân <br /> Thanh Hóa đã bổ  sung nhiều đơn vị  ra chiến trường như Tiểu đoàn 275 bộ  đội <br /> địa phương tỉnh cho Trung đoàn 53, các Đại đội 150, 160 cho Tiểu đoàn 541 <br /> phòng không, 2 trung đội trinh sát cho Đại đoàn 304. Ngoài ra Thanh Hóa còn <br /> <br /> <br /> 8<br /> điều động hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ của Đại đội 128 bộ đội huyện Bá Thước, <br /> 112   bộ   đội   huyện   Tĩnh   Gia,   các   đơn   vị   của   Hoằng   Hóa,   Hà   Trung,   Quảng <br /> Xương, Thạch Thành cho các đơn vị tham gia chiến đấu tại Điện Biên Phủ.<br /> <br /> Ngày 13/3/1954, bộ đội ta bắt đầu nổ súng tiêu diệt cứ điểm Him Lam và <br /> Độc Lập, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.<br /> <br /> Phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ, tại Nga Sơn, quân và dân <br /> Thanh Hóa ra sức đẩy mạnh tiến công quân sự để kìm chân địch, tiêu diệt nhiều  <br /> sinh lực địch. Mặt khác các tổ  dân vận, địch vận vẫn tăng cường tuyên truyền <br /> hoạt động khuyếch trương chiến thắng của ta trên chiến trường Điện Biên, làm <br /> lung lay tinh thần và làm tan rã hàng ngũ địch.<br /> <br /> Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tin chiến thắng nhanh chóng đến với  <br /> quân và dân Thanh Hóa, lực lượng vũ trang tỉnh tích cực khuyếch trương chiến  <br /> thắng, các tổ dân vận, địch vận đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, chủ <br /> trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta nói rõ âm mưu thủ đoạn của địch, kêu  <br /> gọi binh lính địch đóng tại các đồn Điền Hộ, Mai An Tiêm hạ  vũ khí đầu hàng. <br /> Đồng thời, các đại đội bộ  đội địa phương tổ  chức các đợt tấn công truy quét,  <br /> buộc địch phải đầu hàng.<br /> <br /> Thất bại trên chiến trường chính Điện Biên Phủ, buộc địch phải rút khỏi <br /> Nga Sơn, bị  tiêu diệt nặng trong các trận càn quét vào bờ  biển phía nam Thanh <br /> Hóa, âm mưu phá hậu phương Thanh Hóa bị thất bại hoàn toàn. Ngày 7/8/1954,  <br /> thực dân Pháp phải rút khỏi đảo Hòn Mê, chấm dứt sự có mặt của quân Pháp ở <br /> Thanh Hóa.<br /> <br /> Sau 55 ngày đêm  chiến  đấu anh dũng, chiến dịch  Điện Biên Phủ  toàn <br /> thắng, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một số  lượng lớn sinh lực <br /> địch và phương tiện chiến tranh, giải phóng vùng đất đai có ý nghĩa chiến lược.<br /> <br /> Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược <br /> của thực dân Pháp, xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi  <br /> cho đấu tranh ngoại giao của ta đi tới kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh của <br /> nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng Điện Biên Phủ <br /> đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc  <br /> của nhân dân thế giới.<br /> <br /> Chiến thắng Điện Biên Phủ là nguồn cổ vũ, động viên quân và dân Thanh <br /> Hóa chiến đấu bảo vệ  địa phương, dồn sức chi viện cho chiến trường. Trong <br /> chiến dịch, Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trò hậu phương chiến lược quan trọng  <br /> của Điện Biên Phủ. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã bổ sung 1 tiểu đoàn, 2 đại <br /> <br /> 9<br /> đội, 2 trung đội và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu. Tinh <br /> thần xả  thân chiến đấu ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang <br /> Thanh Hóa trên mặt trận là biểu tượng tốt đẹp rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách <br /> mạng. Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa có <br /> 5  đồng chí   được  Đảng và Nhà nước  tuyên dương  danh hiệu Anh hùng Lực <br /> lượng vũ trang nhân dân đó là: Anh hùng liệt sĩ Trần Đức, xã Hải Yến, huyện  <br /> Tĩnh Gia; anh hùng liệt sĩ Lê Công Khai, xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa; anh <br /> hùng liệt sĩ Trương Công Man, xã Cẩm Phong, huyện Cẩm Thủy; anh hùng Lò <br /> Văn Bường, xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân; tiêu biểu là anh hùng liệt sĩ Tô  <br /> Vĩnh Diện, Tiểu đội trưởng Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao <br /> xạ  367, quê xã Nông Trường, huyện Nông Cống đã lấy thân mình cứu pháo <br /> không để rơi xuống vực thẳm. Âm vang Điện Biên Phủ đã lan tỏa trên các mạch <br /> sống của nhân dân Thanh Hóa nói chung và lực lượng vũ trang Thanh Hóa nói <br /> riêng. Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo nên nguồn lực tiếp sức cho lực lượng vũ <br /> trang Thanh Hóa cùng quân và dân cả  nước tiếp tục chiến thắng đế  quốc Mỹ <br /> xâm lược, vững bước đi lên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày <br /> nay.<br /> <br /> Quân và dân Thanh Hóa mãi mãi xứng đáng với lời biểu dương khen ngợi  <br /> của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh, khi Người về  thăm năm 1957: “Bây giờ  tiếng Việt  <br /> Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng  <br /> bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”.<br /> <br /> ­ Đại thắng mùa Xuân 1975 là những “mốc son bằng vàng” tạc vào lịch  <br /> sử  dân tộc trong thế  kỷ  XX. 42 mùa xuân đã đi qua nhưng âm hưởng hào hùng  <br /> của một thời đánh Mỹ, thắng Mỹ lật nhào chế độ ngụy quyền Sài Gòn để Nam ­  <br /> Bắc trọn niềm vui thống nhất vẫn mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam nói  <br /> chung và Thanh Hóa nói riêng. Truyền thống đó tiếp tục được khơi dậy trong  <br /> thời kỳ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc theo con đường độc lập dân tộc  <br /> gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.<br /> Thanh Hóa hậu phương lớn của miền Nam ruột thịt<br /> Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại  ở  miền <br /> Bắc. Nhưng nhân dân miền Nam vẫn phải sống trong ách thống trị  bạo tàn của <br /> bè lũ Mỹ  ngụy. Thực hiện chủ  trương, đường lối của Trung  ương Đảng nhân <br /> dân cả nước cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là xây dựng <br /> CNXH  ở  miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ  quốc.  <br /> Cùng với nhân dân miền Bắc, Thanh Hóa nhanh chóng thực hiện công cuộc hàn <br /> gắn hậu quả tàn phá của chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định <br /> đời sống nhân dân. Từ  vũng bùn nô lệ  cam chịu cảnh đói nghèo, cùng khổ  nay <br /> <br /> 10<br /> được bước lên địa vị  làm chủ  xã hội đại đa số  người dân đều phấn khởi, lạc <br /> quan trước thành quả mà cách mạng đem lại. <br /> Chính quyền cách mạng đẩy mạnh phong trào <br /> diệt giặc đói, giặc dốt ở khắp mọi vùng miền trong <br /> tỉnh và được nhân dân tích cực hưởng  ứng, tự  giác <br /> thực hiện. Chủ  trương cải cách ruộng đất, cải tạo <br /> công   thương   nghiệp,   xây   dựng   hợp   tác   xã   nông <br /> nghiệp, tiểu thủ  công nghiệp đã đem lại ruộng đất <br /> cho dân cày, tư liệu sản xuất cho thợ thủ công, đem <br /> đến diện mạo mới trong đời sống người dân. Điều <br /> đó tạo nên khí thế  thi đua học tập, lao  động sản <br /> xuất diễn ra sôi nổi  ở  khắp mọi lĩnh vực đời sống <br /> xã hội từ đồng bằng đến miền núi, từ nông thôn tới <br /> đô thị. Trong gần 10 năm cải tạo và xây dựng cơ sở <br /> vật chất ban đầu cho CNXH, nhờ  sự  lãnh đạo, chỉ  đạo của Đảng bộ, chính <br /> quyền, sự nỗ lực phấn đấu của mọi tầng lớp nhân dân trên địa bàn nên KT­XH <br /> phát triển, tiềm lực QP­AN của tỉnh được tăng cường đáp  ứng yêu cầu nhiệm  <br /> vụ chống Mỹ, cứu nước. Tỉnh đã dồn sức xây dựng nhiều cơ sở công trình thiết  <br /> yếu phục vụ đời sống, đồng thời chú trọng áp dụng tiến bộ của công nghiệp vào <br /> sản xuất nông nghiệp nên năng suất lao động được nâng cao, đời sống nhân dân <br /> được cải thiện. Phong trào thi đua xây dựng các mô hình, điển hình tiên tiến  ở <br /> tất cả  các ngành, các cấp được đẩy mạnh. Các điển hình tiên tiến trong nông  <br /> nghiệp như  Đông Phương Hồng, Yên Trường, trong công nghiệp như  cơ  khí <br /> Thành Công, trong giáo dục như Hải Nhân... được nhân rộng trên toàn miền Bắc. <br /> Thực hiện kế  hoạch 5 năm lần thứ  nhất Thanh Hóa đã đạt được một số <br /> thành tựu quan trọng trong phát triển KT­XH với nhiều cơ  sở  vật chất, công <br /> trình được đầu tư  xây dựng. Khi thất bại trong áp dụng “chiến tranh đặc biệt” <br /> và “cục bộ” ở miền Nam, giặc Mỹ đã điên cuồng thực hiện chiến tranh phá hoại <br /> bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Với địa thế là cầu nối giữa Bắc Bộ <br /> và Trung Bộ, Thanh Hóa trở  thành khu vực “cán xoong”, là huyết mạch giao  <br /> thông quan trọng của miền Bắc. Sẵn sàng  ứng phó với giặc Mỹ, Thanh Hóa đã <br /> nhanh chóng chuyển hướng hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Hưởng ứng  <br /> lời kêu gọi của Bác: “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, hàng <br /> chục phong trào thi đua đã được phát động liên tục ở tất cả các cấp, các ngành. <br /> Đó là các phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ  nữ ba đảm đang”, “Tiếng <br /> hát át tiếng bom”... đã lan tỏa khắp các vùng miền tạo nên khí thế hừng hực, hào  <br /> hùng trong xưởng máy, công trường, đồng ruộng, trường học, trận địa. Mặc cho  <br /> bom đạn giặc ngày đêm tàn phá, người dân vẫn chắc tay cày, vững tay súng để <br /> tạo nên những cánh đồng “5 tấn thắng Mỹ”. Các em thơ  vẫn đội mũ rơm đến <br /> trường để học tập. Các nhà máy, xí nghiệp vẫn duy trì sản xuất cung cấp những  <br /> <br /> 11<br /> đồ  dùng thiết yếu cho sản xuất, sinh hoạt của người dân. Trong những năm <br /> chống Mỹ, cứu nước, toàn tỉnh đã có hàng ngàn các gia đình cả ba thế hệ ông bà, <br /> cha mẹ, con cháu cùng chung một chiến hào diệt giặc, hàng vạn gia đình có từ 3  <br /> đến 5 con cùng tòng quân nhập ngũ. Toàn tỉnh có 250 ngàn thanh niên  ưu tú và <br /> hàng vạn cán bộ, Đảng viên, nam nữ tham gia bộ đội và thanh niên xung phong. <br /> Tỉnh cũng xây dựng và huấn luyện 78 tiểu đoàn bộ  đội bổ  sung cho các chiến <br /> trường. Không chỉ  làm tròn nhiệm vụ  là hậu phương lớn của miền Nam ruột  <br /> thịt,   Thanh   Hóa   còn   thực   hiện   tốt   nghĩa   vụ   quốc   tế   giúp   nước   bạn   Lào   và <br /> Campuchia trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, quốc phòng, góp phần củng cố <br /> thắt chặt mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị.<br /> Những thành tích to lớn trong chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ <br /> Khi giặc Mỹ  leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân  <br /> thì Thanh Hóa trở thành địa bàn chiến lược trọng yếu, “chiếc giáp sắt” bảo vệ <br /> thủ  đô Hà Nội, kho dự  trữ chiến lược, chiếc cầu nối giữa miền Bắc với miền  <br /> Nam... Các đầu mối giao thông thủy, bộ, đường sắt như Đò Lèn, Hàm Rồng, Phà <br /> Ghép... nếu ách tắc sẽ   ảnh hưởng nghiêm trọng sự  chi viện cho chiến trường  <br /> miền Nam và cách mạng Lào. <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nữ dân quân Thanh Hóa trong kháng chiến chống Mỹ.<br /> <br /> Trong cuộc chống chiến tranh phá hoại thì giao thông vận tải là mặt trận  <br /> nóng bỏng và ác liệt nhất. Giặc Mỹ đã chọn hơn 60 mục tiêu đánh phá hòng làm  <br /> tê liệt hoạt động giao thông của ta. Với quyết tâm cao độ đánh địch mà tiến, mở <br /> đường mà đi, địch cứ đánh ta cứ đi, tất cả vì miền Nam ruột thịt chúng ta đã đảm <br /> bảo mạch máu giao thông luôn thông suốt trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Tỉnh ta đã <br /> chủ  động sáng tạo lập 4 đường ra, 3 đường vào, mở  nhiều điểm vượt sông, <br /> nhiều đường tránh rẽ, làm cầu phao luồng, làm cầu phao liên hợp... huy động <br /> <br /> 12<br /> được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng để những đoàn xe, đoàn thuyền nan <br /> vẫn nối đuôi nhau chở hàng hóa, vũ khí phục vụ chiến trường. <br /> Trong những năm chống chiến tranh phá hoại Đò Lèn, Hàm Rồng, Phà <br /> Ghép... là những “tọa độ  lửa”, nơi diễn ra cuộc đọ  sức quyết liệt của bộ  đội  <br /> pháo binh chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ  với lũ “quạ  trời” Mỹ  tối <br /> tân hiện đại với những tên gọi “thần sấm”, “con ma”, “pháo đài bay B52”. Chỉ <br /> bằng các loại pháo cao xạ 57, 37, 12,7 ly cùng súng trường, những phương tiện <br /> tối tân, hiện đại của kẻ thù đã gục ngã trước tinh thần, ý chí thép của quân, dân  <br /> ta. Đặc biệt ngay trong những trận đầu diễn ra vào ngày 3 và 4 tháng 4/1965  <br /> quân dân Thanh Hóa đã bắn tan xác 47 máy bay Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng. Kỳ <br /> tích oanh liệt đó đưa Hàm Rồng trở thành bản hùng ca bất tử, là niềm tự hào của <br /> quân dân ta và bạn bè yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên toàn thế giới. Đó cũng là  <br /> nỗi khiếp đảm, ám ảnh của lũ giặc trời Mỹ  mỗi khi xâm phạm vùng trời, vùng  <br /> đất này.<br /> Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại vào Thanh Hóa mang tính chất hủy <br /> diệt của không quân, hải quân Mỹ  càng làm nung nấu lòng căm thù cao độ  của <br /> mọi tầng lớp nhân dân. Người người, nhà nhà, làng xã, huyện và toàn tỉnh đều  <br /> bước vào cuộc chiến với ý chí ngoan cường, quyết tâm sắt đá. Những thành tích <br /> nổi bật của các cụ lão quân Hoằng Trường (Hoằng Hóa), nữ dân quân Hoa Lộc <br /> (Hậu Lộc) cùng nhiều lực lượng dân quân, tự  vệ   ở  Hà Trung, Tĩnh Gia... chỉ <br /> bằng súng bộ  binh nhưng đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ  được Bác Hồ  gửi thư <br /> khen ngợi, làm nức lòng quân dân cả nước. Trong cuộc đọ sức quyết liệt gần 8  <br /> năm quân dân toàn tỉnh đã chiến đấu 10.158 trận lớn nhỏ, bắn rơi 376 máy bay  <br /> Mỹ trong đó có 3 chiếc B52, bắt sống 36 giặc lái, bắn cháy 56 tàu chiến trong đó <br /> có 52 khu trục hạm thuộc hạm đội 7 của Mỹ. Cũng trong những năm tháng  ấy  <br /> bao lớp thanh niên của tỉnh đã xung phong lên đường nhập ngũ, hoặc tham gia  <br /> thanh niên xung phong với ý chí, quyết tâm “Xẻ  dọc Trường Sơn đi cứu nước”  <br /> và hoài bão: “Nhằm thẳng  quân thù mà bắn”, “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận  <br /> tuyến đánh quân thù”, để cùng quân, dân cả nước đánh Mỹ, thắng Mỹ, lật nhào  <br /> chế độ ngụy quyền để non sông liền một dải, Nam ­ Bắc vui sum họp một nhà.<br /> <br /> Với vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế và nguồn nhân lực dồi dào, Thanh Hóa  <br /> luôn là địa bàn chiến lược quan trọng về QP­ AN của Quân khu 4 cũng như cả  <br /> nước.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 13<br /> Câu hỏi 3: Anh (chị) nêu những chiến công tiêu biểu và đóng góp to lớn của <br /> quân và dân tỉnh Thanh Hóa trong 2 cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp <br /> và Đế quốc Mỹ?<br /> Trả lời<br /> 1. Kháng chiến chống thực dân Pháp<br /> 1.1. Những chiến công tiêu biểu<br /> ­ Trận tập kích đồn Poọng Nưa của Tiểu đoàn bộ  binh 337 (Hồi Xuân)  <br /> Thanh Hóa, đêm ngày 08 tháng 06 năm 1948.<br /> ­ Trận tập kích đồn Cổ  Lũng (Bá Thước) của Tiểu đoàn bộ  binh 355, <br /> Trung đoàn 77 vào đêm 24, rạng sáng ngày 25 tháng 07 năm 1949.<br /> ­ Trận đánh biệt kích của dân quân du kích xã Hoàng Yến và Đại đội 135 <br /> bộ đội địa phương huyện Hoằng Hóa, ngày 07/0/1952.<br /> ­ Trận chống càn Lương Trung xã Quảng Tiến của Đại đội 98 bộ đội địa <br /> phương huyện Quảng Xương, ngày 23/02/1953.<br /> ­ Trận chống càn Liên Sơn của Đại đội 10 bộ đội địa phương huyện Nga <br /> Sơn, ngày 11/3/1953.<br /> ­ Trận chống càn của quân và dân huyện Nga Sơn, từ  ngày 26 đến ngày <br /> 28/3/1953.<br /> ­ Trận chống càn khu vực Bỉm Sơn (Hà Trung) của Đại đội 57 bộ đội địa <br /> phương tỉnh Thanh Hóa, từ ngày 25 đến ngày 27/10/1953.<br /> 1.2 Những đóng góp to lớn<br />           a) Những thành tích trong xây dựng và bảo vệ địa phương.<br />           * Xây dựng lực lượng vũ trang.<br />           ­ Xây dựng lực lượng dân quân với quân số 227.248 người, Du kích 32.126 <br /> người, trong đó (Lão dân quân: 15.000 cụ, Nữ  dân quân: 14.227 chị,Thiếu niên <br /> quân 9.788 em).<br />           ­ Xây dựng bộ đội địa phương: 3 Tiểu đoàn, 40 Đại đội, 6 Trung đội.<br />            ­ Tổ  chức và duy trì 1 xưởng (Phạm Huy Thuần) sản xuất súng kíp; 01 <br /> xưởng (Thọ Long) sản xuất dao, kiếm, lừu đạn; (2 xưởng) đúc vỏ  moóc­ chi­ê, <br /> mìn, lựu đan.<br />           * Tăng gia, sản xuất của LLVT.<br />           + Dân quân.<br />           ­ Cày cấy: 12.795 mẫu, thu hoạch 3.783 tạ và 15.675 đồng.<br />           ­ Chăn nuôi: 3.142 con gà, lợn, nuôi 60 ao cá.<br />           ­ Tự sắm vũ khí: 3.097.953 đồng.<br /> <br /> 14<br />          + Bộ đội địa phương.<br />          ­ Cấy lúa: 312 mẫu.<br />          ­ Lao động giúp dân sản xuất: 242.636 công.<br />          * Chiến đấu bảo vệ địa phương.<br />          ­ Đánh 1456 trận lớn, nhỏ, tiêu diệt và sát thương 3.391 tên, bắt sống và <br /> gọi hàng 2.326 tên.<br />           ­ Thu 1416 khẩu súng các loại và hàng chục tấn quân trang, quân dụng <br /> khác.<br />          b) Phục vụ tiền tuyến.  <br />          ­ Tuyển mộ, bổ sung xây dựng bộ đội chủ  lực, bộ đội địa phương: Thanh  <br /> niên tòng quân 56.792 người; Thanh niên xung phong: 6.321 người; Bộ  đội địa <br /> phương bổ  sung chủ  lực: 2 tiểu đoàn, 34 đại đội, 6 trung đội; Du kích bổ  sung  <br /> chủ lực: 500 người. Riêng năm 1953 và 6 tháng đầu năm 1954 đã bổ sung 18890  <br /> người, bằng quân số 7 năm (từ 1946 – 1952).<br />  ­ Dân công tiếp vận, dân công cầu đường, phương tiện huy động phục vụ <br /> các chiến dịch thời kỳ  cuối của cuộc kháng chiến với tổng số  ngày công phục <br /> vụ   34.177.233   ngày;   Riêng   dân   công   làm   cầu   đường:   11.000.000   ngày   công. <br /> Chiến dịch Thượng Lào huy động cao nhất so với kháng chiến 300.000 người, <br /> bằng 27% số  cử  tri. Chiến dịch Điện Biên Phủ  huy động nhiều phương tiện  <br /> nhất (Xe đạp thồ 11.000 chiếc, thuyền các loại: 1.300 chiếc, ngựa thồ: 42 con, Ô <br /> tô: 31 xe).<br />  ­ Cung cấp lương thực, thực phẩm và tiền của phục vụ kháng chiến: Gạo  <br /> đồng tâm (năm 1946, 1947) bằng 1076 tấn; lúa hóa giá (1948) bằng 4061 tấn;  <br /> ủng hộ dân quân sắm vũ khí 3.960.000 tấn; lúa khao quân (năm 1949) bằng 7936  <br /> tấn; cấp dưỡng bộ đội địa phương (năm 1949) là 400 mẫu ruộng, 1096 tấn thóc <br /> và 1.000.000 đồng. Công phiếu kháng chiến 1950 là 42.662.120 đồng; Công trái <br /> Quốc gia 1951 là1.334.914.200 đồng.<br />        2. Chống Mỹ cứu nước :<br /> 2.1. Những chiến công tiêu biểu<br /> ­ Trận đánh máy bay Mỹ  phá hoại của quân và dân Lạch Trường ngày <br /> 05/8/1964.<br /> ­ Trận đánh máy bay Mỹ  phá hoại của quân và dân khu vực Hàm Rồng,  <br /> ngày 03/4/1965.<br /> ­ Trận phối hợp đánh máy bay Mỹ phá hoại của tàu hải quân và dân quân tự <br /> vệ Nam Ngạn, Thị xã Thanh Hóa ngày 26/5/1965.<br /> <br /> <br /> 15<br /> ­ Trận đánh máy bay Mỹ ban đêm của bộ đội Đảo Mê ngày 16/10/1965.<br /> ­ Trận đánh máy bay Mỹ  phá hoại của dân quân xã Phú Lệ  huyện Quan <br /> Hóa, ngày 14/5/1967.<br /> ­ Trận đánh máy bay Mỹ  phá hoại của Trung đội dân quân gái Hoa Lộc  <br /> huyện Hậu Lộc, ngày 16/6/1967.<br /> ­ Trận đánh máy bay Mỹ  phá hoại của Trung đội Lão dân quân xã Hoằng <br /> Trường, huyện Hoằng Hóa ngày 14/10/1967.<br /> 2.2. Những đóng góp to lớn<br /> a) Đóng góp trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu:<br />          * Trong chiến đấu:<br />          ­ Trên không: đánh 9.983 trận, tiêu thụ  988.970 viên đạn các loại, bắn rơi  <br /> 376 máy bay (có 3 chiếc B52), trong đó dân quân tự vệ bắn rơi 40 chiếc, bộ đội <br /> địa phương bắn rơi 41 chiếc. Bắt sống 36 giặc lái.<br />          ­ Trên biển: đánh 175 trận, tiêu thụ 8.897 viên đạn. Bắn chìm, bắn cháy 57  <br /> tầu biệt kích và khu trục hạm (5 tầu biệt kích Ngụy, 52 tầu khu trục hạm). Lực  <br /> lượng vũ trang bắn chìm, bắn cháy 12 chiếc. Bắt sống 3 biệt kích người nhái tại <br /> khu vực Nghi Sơn và Hà Nẫm (Hải Thượng, Tĩnh Gia).<br />          * Phục vụ chiến đấu:<br />          ­ Toàn tỉnh lúc cao nhất (1967) có 1.544 tổ báo động phòng không nhân dân. <br /> Thấp nhất (1968) có 112 tổ báo động phòng không nhân dân.<br />          ­ Hầm cá nhân lúc cao nhất (1967) có 1.309.845 cái, lúc thấp nhất (1968) có <br /> 155.887 cái. Đào gần 5.000 km đường giao thông hào. Có 3.500 đội cấp cứu, trên <br /> 2 vạn túi thuốc.<br /> * Đặc biệt là trong chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ :<br /> Quân và dân Thanh Hóa chiến đấu bảo vệ  địa phương, dồn sức chi viện <br /> cho   chiến   trường.   Trong   chiến   dịch,   Thanh   Hóa   đã   thể   hiện   rõ   vai   trò   hậu <br /> phương chiến lược quan trọng của Điện Biên Phủ. Lực lượng vũ trang Thanh  <br /> Hóa đã bổ sung 1 tiểu đoàn, 2 đại đội, 2 trung đội và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ <br /> trực tiếp tham gia chiến đấu. Tinh thần xả thân chiến đấu ngoan cường của cán <br /> bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thanh Hóa trên mặt trận là biểu tượng tốt đẹp <br /> rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực <br /> dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa có 5 đồng chí được Đảng và Nhà nước tuyên  <br /> dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đó là: Anh hùng liệt sĩ  <br /> Trần  Đức, xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia; anh hùng liệt sĩ  Lê Công Khai, xã  <br /> Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa; anh hùng liệt sĩ Trương Công Man, xã Cẩm <br /> <br /> <br /> 16<br /> Phong, huyện Cẩm Thủy; anh hùng Lò Văn Bường, xã Xuân Lẹ, huyện Thường  <br /> Xuân; tiêu biểu là anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện, Tiểu đội trưởng Đại đội 827, <br /> Tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ  367, quê xã Nông Trường, huyện Nông <br /> Cống đã lấy thân mình cứu pháo không để  rơi xuống vực thẳm. Âm vang Điện <br /> Biên Phủ  đã lan tỏa trên các mạch sống của nhân dân Thanh Hóa nói chung và <br /> lực lượng vũ trang Thanh Hóa nói riêng. Chiến thắng Điện Biên Phủ  tạo nên <br /> nguồn lực tiếp sức cho lực lượng vũ trang Thanh Hóa cùng quân và dân cả nước  <br /> tiếp tục chiến thắng đế  quốc Mỹ  xâm lược, vững bước đi lên trong công cuộc  <br /> xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.<br />          b) Đóng góp trong tuyển quân chi viện chiến trường.<br />          * Tuyển quân: Từ  năm 1955 – 1975 tuyển được 227.082 thanh niên nhập <br /> ngũ vào quân đôi.<br />          * Chi viện chiến trường: Trung đoàn 14 huấn luyện quân tăng cường (từ <br /> tháng 4/1970 – 1975), đã huấn luyện và giao cho các chiến trường 78 tiểu đoàn, <br /> (có 4 tiểu đoàn nữ). Năm 1972 là năm giao cao nhất bằng 17 tiểu đoàn.<br />          c) Đóng góp trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương.<br />          * Xây dựng bộ đội địa phương:<br />          ­ Năm thấp nhất (1964) có 2 đại đội bộ  binh và 2 đại đội cao xã hỗn hợp <br /> 37 ly và 14,5 ly.<br />           ­ Năm cao nhất (1972) có 4 tiểu đoàn cao xạ, 2 tiểu đoàn bộ  binh, 1tiểu <br /> đoàn công binh dự nhiệm, 1 cụm (tương đương trung đoàn), 2 tiểu đoàn hỗn hợp <br /> phòng thủ  khu vực và hải đảo (chủ  yếu là pháo binh) tương đương 12 đại đội  <br /> pháo binh. Một trung đoàn huấn luyện quân tăng cường (quân số thời kỳ ít có 3 <br /> tiểu đoàn, cao nhất có 11 tiểu đoàn).<br />          * Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ:<br />          ­ Năm cao nhất (1967) có 220.848 dân quân tự vệ (nữ có 64.400 chị, chiếm <br /> 11,3%).<br />          ­ Năm thấp nhất (1974) có 166.744 dân quân tự vệ (nữ 67.415 chị).<br />          ­ Có 3.064 dân quân tự vệ tham gia chiến đấu sử dụng súng cao xạ 12,7 ly  <br /> và 14,5 ly (nữ 588 chị, lão quân 39 cụ).<br />          ­ Tay cày tay súng, có 3.355 người biết sử dụng súng trường, trung liên đến <br /> pháo cao xạ 37, 57 và 100ly để chiến đấu với máy bay Mỹ.<br />          ­ Có 4 đại đội súng 12,7 ly chi viện cho chiến trường Trị Thiên.<br />          ­ Có 647 tổ (2.345 người) làm nhiệm vụ công binh giao thông và khắc phục  <br /> bom đạn địch.<br /> <br /> <br /> 17<br />          ­ Có 1.311 tổ (3.806 người) quân báo nhân dân.<br />          ­ Có 1.410 tổ (3601 người) thông tin liên lạc.<br />          ­ Có 3.129 dân quân tự vệ được huấn luyện bổ sung pháo cao xạ.<br />          ­ Có 543 dân quân tự vệ được huấn luyền bổ sung pháo mặt đất.<br /> d) Những thành tích khen thưởng: <br /> Lực lượng vũ trang Thanh Hóa và 156 tập thể, 79 cá nhân đã vinh dự được <br /> Đảng và Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ  <br /> trang nhân dân. <br /> Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ <br /> Tổ  quốc, ngày 7/1/2013, lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã được Đảng và Nhà <br /> nước phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi <br /> mới.<br /> <br /> Câu hỏi 4: Anh (chị) cho biết những đóng góp nổi bật của Bộ  CHQS  <br /> tỉnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc từ năm 1976 đến nay?<br /> Trả lời:<br /> *Giai đoạn từ năm 1976­ 1990:<br />   Luôn   tham   mưu   kịp   thời   cho   Đảng   bộ   và   nhân   dân,   chính   quyền   địa <br /> phương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phát triển đạt chất lượng ngày <br /> càng cao, tham mưu xây dựng nền quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ <br /> ngày càng vững chắc, hoàn thành xuất sắc mọi nhệm vụ   được  giao, đi đầu <br /> phong trào chống bão lụt, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai.  <br />      Năm 1979, cán bộ  chiến sĩ công đoàn 14, Trung đoàn 74, cùng hành ngàn <br /> con em của quê hương Thanh Hóa lại tiếp tục hành quân lên biên giưới phía Bắc  <br /> tham gia chiến đấu, góp phần bảo vệ  vững chắc từng tấc đất biên cương tổ <br /> quốc.<br />       Từ  năm 1981­1990 Bộ  CHQS đã tham mưu tổ  chức 2 lần diễn tập cấp  <br /> tỉnh về : xây dựng pháo đài quân sự cấp huyện (1981), diễn tập vận hàng cơ chế <br /> 02(TH­89). Ngoài nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, từ năm 1976­1990,  <br /> LLVT Thanh Hóa tham gia xây dựng hoàn thành nhiều công trình có giá trị  kinh <br /> tế   và   đạt   chuẩn   chất   lượng   cao   như   :   cống   tiêu   thủy   Quảng   Châu(Quảng <br /> Xương), cầu Xuân Phương( Tĩnh Gia), sông Hoàng, sông Thống Nhất, làm hơn <br /> 40 km đường miền núi từ Hồi Xuân (Quan Hóa) đến Pù Nhi Huyện (Mường Lát)  <br /> được tỉnh, Quân khu, bộ  quốc phòng tặng thưởng cờ  thi đua   vì có thành tích  <br /> trong khôi phục, xây dựng phát triển kinh tế của tỉnh.<br /> Trong phong trào uống nước nhớ  nguồn, lực lượng vũ trang đã try tập <br /> được 500 mộ liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh. Hàng năm xây dựng quỹ đền <br /> <br /> <br /> 18<br /> ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, làm nhà tình nghĩa và thăm  <br /> hỏi các gia đình chính sách.<br /> <br />        *Giai đoạn 1990 ­ 2011<br /> Luôn là tỉnh dẫn đầu trong công tác tuyên truyền giáo dục  quốc phòng ­ an  <br /> ninh toàn dân và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng ­ an ninh cho các đối tượng  <br /> cán bộ trong tỉnh, được Bộ quốc phòng chọn báo cáo điển hình tại các Hội nghị <br /> toàn quốc sơ kết bồi dưỡng kiến thức QP­ AN cho các chức sắc, chức viện cho  <br /> các tôn giáo. Đến nay các công tác giáo giục bồi dưỡng kiến thức QP­AN trong  <br /> tỉnh đã đi vào nề  nếp, việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các chức sắc,  <br /> chức viện trong tỉnh ngày càng có những kết quả  tốt. Công tác giáo dục quốc  <br /> phòng cho các học sinh, sinh viên của tỉnh đạt kết quả  tương đối toàn diện trên  <br /> tất cả các mặt. Đối với khối công nhân, nông dân đoàn thể việc bồi dưỡng về an <br /> ninh quốc phòng cũng có nhiều chuyển biến và có nhiều hình thức giáo dục phổ <br /> biến tới người dân.<br /> Có nhiều đổi mới, sáng tạo trong công tác xây dựng lực lượng DQTV  đặc <br /> biệt là lực lượng dân quân biển, đào tạo chỉ huy trưởng xã, phường, thị trấn.<br /> Tích cực trong công tác phòng cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên <br /> tai: chủ  động đấu mối, hiệp đồng với sở  giao thông vận tải và các đơn vị  chủ <br /> lực của bộ, Quân khu đóng trên địa bàn về lực lượng, phương tiện vận chuyển,  <br /> đường cơ động, vị trí tập kết…Xây dựng kế hoạch đảm bảo lực lượng, phương  <br /> tiện vận chuyển kịp thời khi có tình huống bão lũ xẩy ra. Thường xuyên tham gia  <br /> phòng, chống và ứng cứu có hiệu quả với các tình huống có thể xảy ra.<br /> Công tác tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ và tuyển sinh quân sự  có <br /> nhiều sáng tạo và đổi mới góp phần tích cực nâng cao chất lượng cho quân  <br /> đội.Những công dân nhập ngũ được huấn luyện trong vòng gần hai năm, được <br /> hưởng các chế  độ  của quân đội. Việc thi vào quân đội cũng có nhiều ngành <br /> phong phú hơn.<br /> Từ  năm 1991 đến 2011 toàn tỉnh Thanh Hóa đã tuyển chọn và gọi hơn <br /> 100.000 thanh niên nhập ngũ, tuyển chọn hàng năm đều đạt chỉ  tiêu thậm chí <br /> vượt chỉ tiêu, không có trường hợp nào chống lệnh.<br /> Trong công tác tuyển sinh quân sự, Thanh Hóa là tỉnh dẫn đầu Quân khu 4 <br /> về tỷ lệ thí sinh đậu vào các trường chuyên nghiệp của Quân đội.<br /> Tham mưu có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế­ xã hội gắn với củng  <br /> cố và tăng cường QP­ AN.<br />   Thành lập 02 trạm y tế quân dân y kết hợp trị tại Tam Thanh (Quan Sơn),  <br /> Bát Mọt (Thường Xuân). Trong giúp dân phòng, chống khắc phục hậu quả thiên <br /> tai dịch bệnh, bằng khả năng quân y và y tế địa phương và sự  chi viện của cục  <br /> Quân y đã tham mưu triển khai thực hiện tốt công tác cấp cứu, điều trị, khắc <br /> phục hậu quả sau bão lụt và dịch tai xanh ở lợn và dịch cúm gia cầm, tiêu chảy  <br /> cấp ở người được Quân khu và tỉnh đánh giá cao.<br /> <br /> 19<br />   Chăm lo thực hiện công tác chính sách: Công tác giải quyết chế độ, chính <br /> sách đối với người có công, chính sách hậu phương quân đội được quan tâm và  <br /> đạt hiệu quả cao. <br /> Trong đó việc giả  quyết chế  độ  thương binh cho quân nhân, CNVQP đã <br /> phục viên xuất ngũ về  địa phương là 10.000 đối tượng, xây nhà tình nghĩa: 94  <br /> nhà;  nhà đồng đội:39 nhà; trị giá mỗi nhà từ  40 ­ 60 triệu đồng. Bình quân mỗi <br /> năm Bộ  CHQS tỉnh quyên góp  ủng hộ  người nghèo, nạn nhân chất độc màu da <br /> cam, ủng hộ đồng bào bị  bão lụt…650.000.000. Hàng  năm Bộ  CHQS tỉnh thăm <br /> hỏi tặng quà các đối tượng gia đình chính sách 550­ 650 triệu đồng và tham mưu  <br /> cho các cấp  ủy quyền đại phương thăm hỏi tặng quà các đối tượng gia đình <br /> chính sách, gia đình chiến sĩ, các cán bộ  đang công tác  ở  biên giới hải đảo mỗi <br /> năm hơn một tỷ đồng.<br /> Ngày 6/11/1978 LLVT Thanh Hóa được Đảng và nhà nước tặng danh hiệu  <br /> anh hùng LLVT nhân dân.<br /> Ngày   10/12/1984   Hội   đồng   nhà   nước   CHXHCN   Việt   nam   tặng   huân <br /> chương Hồ  Chí Minh cho LLVT nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều công lao <br /> thành tích trong sự nghiệp cách mạng, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.<br /> Ngày 22/7/1997 Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam thưởng Huân chương <br /> lao động hạng ba cho cán bộ, chiến sĩ Bộ CHQS Thanh Hóa đã có thành tích xuất <br /> sắc trong công tác thương binh liệt sĩ, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, góp phần  <br /> vào sự nghiệp xây dựng CHXH và bảo vệ tổ quốc.<br /> Chủ tịch nư
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2