BÀI DỰ THI<br />
TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT<br />
VIỆT NAM LÀO, LÀO VIỆT NAM NĂM 2017<br />
Người tham gia: <br />
<br />
Họ và tên: Đào Đức Mạnh Đơn vị: Phó Bí thư Chi đoàn Công <br />
Ngày sinh: 02/09/1992 an, Đoàn phường Phước Long, Nha <br />
Giới tính: Nam Trang, Khánh Hoà<br />
Nghề nghiệp: Công an Nơi thường trú: 372 Nguyễn Tất <br />
Dân tộc: Kinh Thành, Tổ 1, M’Drắk, Dak Lak<br />
Tôn giáo: không Số điện thoại:01.666.731.977 <br />
NỘI DUNG BÀI DỰ THI<br />
Cứ đến những ngày mùa thu tháng 8 lịch sử, lòng tôi lại nôn nao nhớ về <br />
một ngày kỷ niệm in rất sâu đậm trong tim mỗi người con hai dân tộc hai sườn <br />
dãy Trường Sơn oai nghiêm, hùng vĩ: Việt Nam Lào, Lào Việt Nam, đó là <br />
ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước, điểm khởi đầu về thể thức để hai <br />
dân tộc càng gần nhau, càng giúp đỡ, chia ngọt sẻ bùi, cùng phát huy những <br />
tương đồng từ bao đời của hai dân tộc nay càng có cơ hội phát triển, mang lại <br />
những hoa thơm trái ngọt trong công cuộc dựng xây xã hội chủ nghĩa của hai đất <br />
nước anh em ruột thịt, ngày 05 tháng 9 năm 1962, khi mà cuộc kháng chiến <br />
chống Đế quốc Mỹ xâm lược đang bước vào cao trào với những biến chuyển <br />
mới, khó khăn, thử thách nhưng cũng thể hiện bản lĩnh, tinh thần đoàn kết, <br />
chính nghĩa hai dân tộc để đưa cuộc khởi nghĩa, sự hợp tác đi từ thắng lợi quan <br />
trọng này đến thắng lợi quan trọng khác, quyết định hoà bình, độc lập, tự do, <br />
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ mỗi quốc gia tự chủ, bình đẳng và hơn hết, tim <br />
tôi không bao giờ quên, cũng không lần nào không bồi hồi, xúc động và… rưng <br />
rưng khi nhớ đến câu ca của Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm sâu trong lòng mỗi <br />
người con Việt Lào:<br />
Việt Lào, hai nước chúng ta<br />
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Câu ca ấy có thể thay tôi nói những suy nghĩ của mình về tình đoàn kết, <br />
gắn bó keo sơn, thuỷ chung, khăng khít giữa hai dân tộc hiếm thấy trong lịch sử <br />
nhân loại.<br />
Trải lòng mình một chút, trở lại với cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ <br />
đặc biệt Việt Nam Lào, Lào Việt Nam năm 2017” được tổ chức nhiều lần, <br />
tôi vui mừng biết bao khi biết tin cuộc lần lại một lần n ữa diễn ra vì đây là cơ <br />
hội tôi mong chờ, ấp ủ để được trải lòng mình về tình cảm với những người <br />
anh em ruột thịt bên kia dãy Trường Sơn mà không dễ gì kẻe xiết cũng không <br />
phải lúc nào cũng có cơ hội thuận lợi để “dốc bầu”.<br />
Lào là quốc gia Đông Nam Á trong bán đảo Đông Dương có chung đường <br />
biên giới dài 2069 km về phía Tây, được Việt Nam ôm trọn phía biển Đông, <br />
đường biên giới giữa Việt Nam và Lào trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam là: <br />
Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, <br />
Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Kon Tum cũng thật trùng hợp tiếp giáp với 10 <br />
tỉnh phía Lào là: Phôngxalỳ, Luôngphabang, Hủaphăn, Xiêngkhoảng, Bôly<br />
khămxay, Khămmuồn, Xavannakhẹt, Xalavan, Xêkông và Ắttạphư. Quan <br />
hệ đặc biệt Việt Nam Lào có nhiều cơ sở khách quan, tất yếu.<br />
Về các điều kiện tự nhiên, Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán đảo Ấn <br />
Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Trong phạm vi của bán đảo Đông <br />
Dương, Việt Nam nằm ở phía đông dãy Trường Sơn, như một bao lơn nhìn ra <br />
biển; Lào nằm ở sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào vùng đất liền của bán <br />
đảo. Như vậy, dãy Trường Sơn có thể ví như cột sống của hai nước, tạo thành <br />
biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào. Với địa hình tự nhiên này, <br />
về đường bộ cả Việt Nam và Lào đều theo trục Bắc Nam. Còn về đường <br />
biển, con đường gần nhất để Lào có thể thông thương ra biển đó là từ Sầm <br />
Nưa thuộc tỉnh Hủa Phăn (Lào) qua Thanh Hoá; Xiêng khoảng (Lào) qua Nghệ <br />
An; Khăm Muộn (Lào) qua Hà Tĩnh; Xavannakhẹt (Lào) qua Quảng Trị và <br />
Khăm Muộn (Lào) qua Quảng Bình. Do điều kiện tự nhiên nên sự phát triển <br />
kinh tế xã hội của Việt Nam và Lào có nhiều điểm tương đồng, lại vừa có <br />
những nét khác biệt. Dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào <br />
<br />
2<br />
được ví như bức tường thành hiểm yếu, để hai nước tựa lưng vào nhau, phối <br />
hợp giúp đỡ lẫn nhau tạo ra thế chiến lược khống chế những địa bàn then chốt <br />
về kinh tế và quốc phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và Lào <br />
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.<br />
Về các nhân tố dân cư, xã hội: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa <br />
dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia <br />
của hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người <br />
ở khu vực Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này, <br />
đến nay vẫn tiếp tục chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên <br />
giới quốc gia Việt NamLào. Chính quá trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài <br />
của những cư dân Việt Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nước <br />
đã dẫn đến việc cùng khai thác và chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn <br />
lợi sinh thuỷ. Điều này, thêm một lần nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và <br />
quan hệ tiếp xúc chính là những điều kiện lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra <br />
những mối dây liên hệ và sự giao thoa văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư dân hai <br />
nước.<br />
Về nhân tố văn hoá và lịch sử, do quan hệ gần gũi và lâu đời nên người <br />
Việt và người Lào đặc biệt là người dân ở vùng biên giới am hiểu về nhau khá <br />
tường tận. Trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi đã mô tả khá ấn tượng về <br />
nền văn hoá độc đáo và phong tục thuần phác của dân tộc Lào, cũng như hiện <br />
tượng giao thoa văn hoá nở rộ giữa Đại Việt với các nước láng giềng Đông <br />
Nam Á, trong đó có Lào Lạn Xạng. Sự giao thương của người dân Lào với <br />
người dân Việt nhất là với người dân các tỉnh biên giới của Việt Nam cũng khá <br />
nhộn nhịp. Điều đáng chú ý là trong quan hệ giao thương với Đại Việt, Lào Lạn <br />
Xạng đã không ít lần bộc lộ mối quan tâm của mình muốn hướng ra biển, trong <br />
khi Đại Việt lại tìm cơ hội để mở rộng buôn bán vào sâu lục địa. Mặc dầu Việt <br />
Nam và Lào có tiếng nói, văn tự không giống nhau, sáng tạo và lựa chọn các nền <br />
văn hóa cũng như các hình thức tổ chức chính trị xã hội khác nhau, nhưng <br />
những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt đời sống hàng <br />
ngày của cư dân Việt Nam và Lào. Sự tương đồng giữa văn hóa làng – nước của <br />
<br />
3<br />
người Việt và văn hóa bản mường của người Lào xuất phát từ cội nguồn cùng <br />
nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở Đông Nam Á. Đồng thời, lòng nhân ái bao <br />
la và đời sống tâm linh phong phú, trong đó có những ảnh hưởng sâu đậm của <br />
đạo Phật mà trong cách đối nhân xử thế của mình, nhân dân Việt Nam và nhân <br />
dân Lào bao giờ cũng nêu cao những phẩm chất yêu thương và hướng <br />
thiện. Trong tiến trình lịch sử cả hai dân tộc đều phải ngoan cường chống ngoại <br />
xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trải qua những biến cố thăng trầm của <br />
lịch sử, hai nước Đại Việt Lạn Xạng, Lạn Xạng Đại Việt mặc dù không <br />
phải không có những thời khắc gặp nguy nan nhưng với tinh thần lấy hoà hiếu <br />
làm trọng nên đã sáng suốt và công bằng, có ý thức đề cao không thù hận, quan <br />
hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng, <br />
đồng thời biết chủ động vun đắp tình thân ái và hữu nghị lâu dài giữa hai dân <br />
tộc.<br />
Từ đầu thế kỷ 20, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước LàoViệt <br />
Nam đã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Như vậy, trước 1930, hai <br />
dân tộc LàoViệt đã đoàn kết cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, nhưng lúc đó <br />
chỉ dừng lại ở tính chất tự phát do hạn chế về trình độ nhận thức và điều kiện <br />
lịch sử. <br />
Từ thực tế tình hình trong nước và các nước Đông Dương những năm đầu <br />
thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Muốn cứu nước và giải <br />
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô <br />
sản”. Người luôn đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam gắn bó mật <br />
thiết với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước trong đó có <br />
dân tộc Lào. Người cũng luôn quan tâm sâu sắc và coi việc giúp đỡ Lào vừa là <br />
trách nhiệm vừa là nghĩa vụ, là một nội dung quan trọng nhất của tình đoàn kết <br />
và liên minh chiến đấu Việt Lào. Người không chỉ đóng góp về lý luận, đường <br />
lối, phương hướng cách mạng mà Người còn quan tâm đến cả việc tổ chức, chỉ <br />
đạo thực tiễn cách mạng Lào.<br />
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các phong trào đấu tranh ở Việt Nam diễn ra <br />
mạnh mẽ và lan rộng trong cả nước và có ảnh hưởng lớn đến Lào. Các phong <br />
<br />
4<br />
trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam cũng đã nhận được sự ủng hộ của nhân <br />
dân Lào. Trước vận mệnh của các dân tộc Đông Dương, Trung ương Đảng <br />
Cộng sản Đông Dương đã liên tiếp tổ chức các cuộc hội nghị quan trọng để bàn <br />
chủ trương và biện pháp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân đi đến <br />
thắng lợi. Đặc biệt, tháng 5 năm 1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội <br />
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII quyết định đặt nhiệm vụ <br />
giải phóng dân tộc lên hàng đầu của cách mạng Đông Dương, giải quyết vấn <br />
đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước và thành lập ở mỗi nước một Mặt trận <br />
Dân tộc Thống nhất rộng rãi. <br />
Từ khi có chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đặc <br />
biệt là từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng <br />
lập, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của hai dân tộc Lào Việt <br />
Nam tình đoàn kết đó đã được phát triển mạnh mẽ và liên tục. Chủ tịch Hồ Chí <br />
Minh vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự mình khám phá thế giới tư bản chủ <br />
nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện chân lý cứu nước. Người tiếp <br />
nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của <br />
Đông Dương để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào, <br />
Campuchia theo con đường cách mạng vô sản. Trong quá trình tìm đường cứu <br />
nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm đến tình hình Lào. Người không <br />
chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung mà còn tố cáo cụ thể sự tàn bạo của <br />
thực dân Pháp ở Lào. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên một trong những <br />
tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp <br />
sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), đến tháng 2 năm <br />
1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua hoạt động của Hội Việt <br />
Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy đây là điều kiện <br />
thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu nước tại Lào, <br />
vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết khăng khít giữa <br />
Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã lập <br />
Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách mạng trên <br />
đất Lào. Trên thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một đầu cầu <br />
<br />
5<br />
trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của <br />
Nguyễn Ái Quốc vào Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức <br />
khảo sát thực địa tại Lào càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách <br />
mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng <br />
sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa <br />
nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức. Vì vậy, mối quan hệ đặc biệt <br />
giữa hai nước Việt – Lào được khẳng định từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng <br />
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.<br />
Tháng 10 năm 1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản <br />
Việt Nam quyết định đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, đặt phong trào <br />
cách mạng hai nước Việt Nam và Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản <br />
Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Sự kiện này đánh dấu mốc <br />
quan trọng trong mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai quốc gia Việt Nam <br />
Lào.<br />
Trên hành trình trở về Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc, Lào cũng là địa <br />
bàn đầu tiên tnơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính trị, tư <br />
tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Đông <br />
Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt <br />
Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của <br />
cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.<br />
Việt Nam và Lào là 2 quốc gia láng giềng của nhau. Trong nhiều giai đoạn <br />
lịch sử Lào chịu sự chi phối giữa Xiêm và Đại Việt. Thời kỳ nhà Nguyễn coi các <br />
quốc gia Vương quốc Luông Phabang, vương quốc Viêng Chăn, vương quốc <br />
Phuan, vương quốc Chămphasắc, vương quốc Khơme là phiên bang của Việt <br />
Nam. Cho đến khi triều Nguyễn suy yếu, các vương quốc này lại chịu sự chi <br />
phối của Xiêm và sau đó là thực dân Pháp. Trong giai đoạn đấu tranh chống thực <br />
dân Pháp trong cuối thế kỷ 19, nhiều cuộc nổi dậy của người Việt Nam cũng <br />
lan sang và phát triển tại Lào, nhưng sau đó đều bị dập tắt. Năm 1930 , Đảng <br />
Cộng sản Đông Dương ra đời và nhiều đảng viên bí mật tại Lào và Campuchia <br />
<br />
<br />
6<br />
xuất hiện trong Đảng, người Việt Nam chiếm tuyệt đối trong Đảng chỉ có phần <br />
nhỏ là Lào và Campuchia.<br />
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân hai <br />
nước đã cùng sát cánh bên nhau viết nên những trang sử chói lọi và cùng nhau <br />
xây dựng mối quan hệ đoàn kết nghĩa tình đặc biệt mà tiên phong là Chủ tịch <br />
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản và Chủ tịch Xuphanuvông đã <br />
dày công vun đắp. Mối quan hệ được Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân <br />
dân Cách mạng Lào cũng như Nhà nước hai quốc gia coi là mối quan hệ đặc <br />
biệt với vai trò như đồng minh chiến lược của nhau mà không có bất kỳ bản <br />
cam kết đồng minh nào, chuyện hiếm trong lịch sử thế giới hiện đại. Trong lịch <br />
sử quan hệ quốc tế, quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam là một <br />
điển hình, một tấm gương mẫu mực, thuỷ chung, trong sáng, được bắt nguồn từ <br />
các điều kiện tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử, truyền thống <br />
chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước.<br />
Ngày 05 tháng 9 năm ấy đến năm 2017 đã là 55 năm kể từ ngày Việt Nam <br />
và Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (5/9/1962 5/9/2017) và tròn 40 <br />
năm tính từ thời điểm hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (18/7/1977 <br />
18/7/2017). Đây là những dấu mốc trọng đại trong quan hệ truyền thống, hữu <br />
nghị, láng giềng giữa hai quốc gia cùng dựa vào dải Trường Sơn và dòng sông <br />
Mêkông. Nhìn lại chặng đường lịch sử hào hùng, chúng ta có thể tự hào về quá <br />
trình hình thành và phát triển của mối quan hệ đặc biệt, hiếm có giữa hai dân <br />
tộc. tinh thần đoàn kết Việt Nam Lào tiếp tục được hun đúc và tôi luyện hơn <br />
khi hai nước không ngừng hỗ trợ nhau trên các mặt trận quân sự và đối ngoại, <br />
làm thất bại mọi âm mưu phá hoại và tiến hành chiến tranh của chủ nghĩa thực <br />
dân mới. Ngày 05 tháng 9 năm 1962, Việt Nam và Lào chính thức thiết lập quan <br />
hệ ngoại giao, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử quan hệ hai nước. Liên <br />
minh chiến đấu của quân và dân hai nước Việt Lào ngày càng được tăng <br />
cường. Dãy Trường Sơn hùng vĩ với hai nửa Trường Sơn Đông Trường Sơn <br />
Tây đã trở thành biểu tượng sinh động của mối quan hệ keo sơn “ hạt muối cắn <br />
đôi, cọng rau bẻ nửa” và sau này “mãi mãi keo sơn, đời đời bền vững” mà nhất <br />
<br />
7<br />
là câu chuyện rơi nước mắt về mẹ Lào chia sữa của con cứu bộ đội tình <br />
nguyện Việt Nam mà tôi đã đọc được và sẽ kể dưới đây trong những năm tháng <br />
gian khổ nhưng đầy vinh quang, cùng góp phần to lớn giúp nhân dân và các lực <br />
lượng vũ trang hai nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà đỉnh cao là <br />
Đại thắng Mùa Xuân 1975 tại Việt Nam và Chiến thắng ngày 2 tháng 12 năm <br />
1975 tại Lào.<br />
Trong lịch sử cùng đấu tranh giữ đấu tranh giữ nước, Hà Nội được coi là <br />
trung tâm đầu não của toàn bộ Đông Dương, đặt các trụ sở hành chính, giáo dục, <br />
văn hóa... vì vậy rất nhiều trí thức và người trong hoàng gia các vương quốc <br />
sang Hà Nội học tập. Khi Nhật tiến vào Đông Dương, và sau đó đảo chính Pháp <br />
và lập ra các quốc gia tự chủ theo danh nghĩa tại Lào và Việt Nam, nội các hai <br />
nước cũng có quan hệ nhỏ mang tính chất hai quốc gia thuộc khối Đại Đông Á.<br />
Ngày 4 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đã mời Hoàng thân Xuphanu<br />
vông đang ở Vinh ra Hà Nội, đã đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng mối <br />
quan hệ Việt Lào. Đến khi Pháp quay lại Đông Dương năm 1946, Lào được <br />
thống nhất thành quốc gia chung Vương quốc Lào do Pháp bảo hộ theo cách Lào <br />
là quốc gia thuộc khối Liên hiệp Pháp. Lào Ítxara bị Pháp tấn công tan rã, số <br />
nhỏ rút sang Thái và Việt Nam. Chiến tranh Đông Dương nổ ra, tháng 8 năm <br />
1950 hoàng thân Xuphanuvông đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương đổi <br />
tên nhóm lực lượng Lào Ítxara do ông lãnh đạo sang tổ chức vũ trang Phathét <br />
Lào, thành lập chính phủ kháng chiến Lào. Tháng 2 năm 1951 Đại hội Đảng <br />
Cộng sản Đông Dương lần thứ II được tổ chức, Cayxỏn Phômvihản tham dự <br />
với tư cách trưởng đoàn đại biểu Lào. Tình hình tại Đông Dương liên tục thất <br />
bại, thực dân Pháp quyết định trao trả độc lập cho Lào để tập trung bình định <br />
Việt Nam. Tại Lào trong năm 1953, lực lượng Phathét Lào cùng bộ đội tình <br />
nguyện Việt Nam liên tiếp đánh chiếm nhiều vùng do Pháp và chính quyền <br />
Vương quốc Lào nằm giữ. Đến cuối năm 1953, Phathét Lào kiểm soát được <br />
Thượng Lào, một số tỉnh tại Trung và Hạ Lào.<br />
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, lực lượng cộng sản Lào tập kết <br />
tại hai tỉnh Phôngxalỳ và Sầm Nưa cho tới khi có bầu cử thống nhất Lào vào <br />
<br />
8<br />
năm 1955. Năm 1955 Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được thành lập với tiền <br />
thân là Đảng Cộng sản Đông Dương, người gốc Việt chiếm đa số trong Đảng. <br />
Chính phủ Liên hiệp các đảng phái được thành lập và bầu cử năm 1958 diễn ra <br />
với sự thắng thế của Mặt Trận Lào Yêu Nước do hoàng thân Xuphanuvông <br />
lãnh đạo. <br />
Sau này, đến những năm 1959 1960 tại Lào liên tiếp xảy ra các cuộc đảo <br />
chính quân sự, Hoa Kỳ và Liên Xô ủng hộ 2 chính quyền khác nhau tại Lào. Do <br />
lo ngại sự can thiệp của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào Lào, Liên Xô và Hoa <br />
Kỳ thống nhất ủng hộ giải pháp liên hiệp. Chính phủ liên hiệp lần hai ra đời <br />
nhưng chỉ ổn định tới năm 1968. Sau năm 1968, phe Cộng sản và phái hữu tại <br />
Lào lại tiếp tục giao tranh. Xuphanuvông được Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Võ <br />
Nguyên Giáp ủng hộ, đào tạo cán bộ cho cách mạng Lào, người Việt Nam trở <br />
thành chuyên gia, bộ đội tình nguyện... cho Lào.<br />
Sau Chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng cộng sản tại Lào cũng phát triển <br />
mạnh mẽ và cuối cùng cũng đã giải phóng được Viêng Chăn tháng 12 tháng <br />
1975, thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Năm 1976, Việt Nam và <br />
Lào đã ký hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, khoa học và kỹ thuật, tiếp <br />
sau đó là ký hiệp ước 25 năm hữu nghị và hợp tác vào năm 1977, và Hiệp ước <br />
Hoạch định biên giới quốc gia, và hiệp ước này cũng gây nên sự căng thẳng <br />
trong quan hệ giữa Lào và Trung Quốc.<br />
Năm 1979 nổ ra Chiến tranh biên giới ViệtTrung, 1979, Đảng Nhân dân <br />
Cách mạng Lào đã ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc <br />
xâm lược cắt đứt quan hệ với Trung Quốc. Do lo ngại tình hình bất ổn tại biên <br />
giới Lào Thái, quân tình nguyện Việt Nam lại tiếp tục hỗ trợ xây dựng Quân <br />
đội Nhân dân Lào phát triển như ngày nay có khả năng đủ chống lại các cuộc <br />
ngoại xâm cũng như các phe phái thù địch.<br />
Kể từ năm 1980, Lào và Việt Nam chính thức thành lập Ủy ban hợp tác Lào <br />
Việt Nam sẽ thường xuyên gặp nhau để phát triển các kế hoạch. Các cấp độ <br />
hợp tác với nhau khác của Lào Việt Nam là các cuộc họp Đảng với Đảng, giao <br />
lưu tỉnh với tỉnh, cũng như các đoàn thể thành niên và phụ nữ khác.<br />
<br />
9<br />
Ngày 24 tháng 1 năm 1986, hai nước ký kết một nghị định thư về phân định <br />
biên giới và cắm mốc. Hai quốc gia dự kiến hoàn thành cắm mốc biên giới vào <br />
năm 2012.<br />
Sau khi Liên Xô tan rã, Lào và Việt Nam tích cực hợp tác với các quốc gia <br />
khác, nhưng quan hệ LàoViệt Nam vẫn là mối quan hệ đặc biệt.<br />
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng đất nước trong hòa bình và quá độ <br />
đi lên shủ nghĩa cộng sản, quan hệ hai nước chuyển từ quan hệ đoàn kết trong <br />
chiến đấu chống kẻ thù chung sang quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp <br />
tác toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân <br />
dân Cách mạng Lào. Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị <br />
và Hợp tác. Hiệp ước có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là cơ sở pháp lý vững chắc <br />
cho việc tăng cường và mở rộng mối quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào trong <br />
thời kỳ mới; tạo cơ sở để hai nước thúc đẩy ký kết hàng loạt các thỏa thuận <br />
hợp tác sau này. Trong quá trình hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau sau chiến tranh, <br />
Việt Nam đã cử nhiều đoàn chuyên gia sang giúp Lào bảo đảm an ninh, ổn định <br />
đời sống, khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế. Quan hệ hợp tác đó được <br />
thực hiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của <br />
nhau; đề cao ý chí tự lực, tự cường, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi.<br />
Bản chất của quan hệ đặc biệt đó bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn <br />
kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; tình đoàn kết thủy chung và niềm tin <br />
về lòng chân thành, trong sáng mà hai dân tộc Việt Nam, Lào dành cho nhau; sự <br />
giúp đỡ đến mức cao nhất nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng <br />
và tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển tương lai của hai dân tộc. Quan hệ <br />
Việt Lào được xây đắp, nuôi dưỡng bằng công sức, của cải, xương máu của <br />
nhiều thế hệ cách mạng người Việt Nam và Lào. Trải qua rất nhiều gian nan, <br />
thử thách khắc nghiệt, quan hệ đó vẫn vẹn nguyên, không hề bị rạn nứt và phá <br />
vỡ cho dù các thế lực thù địch dùng nhiều thủ đoạn chống phá, chia rẽ. Bản <br />
chất của quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào Việt Nam, được nuôi dưỡng, <br />
phát triển bằng sức cảm hóa sâu sắc của quan điểm “giúp bạn là mình tự giúp <br />
mình” do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Đây là câu nói cô đọng, giàu ý nghĩa <br />
<br />
10<br />
chính trị, nhân văn, mở ra phương hướng xử lý hài hòa lợi ích của hai dân tộc; là <br />
vũ khí sắc bén chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ban ơn. Dựa trên luận điểm về <br />
quyền dân tộc tự quyết, cơ quan lãnh đạo cấp cao Việt Nam, Lào đã nhất trí <br />
tiến hành liên minh, hợp tác theo nguyên tắc tôn trọng độc lập tự chủ của bạn <br />
như Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Cán bộ Việt Nam sang công tác ở Lào <br />
phải hoàn toàn ở dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Trung ương Lào, nhất là của <br />
Thủ tướng Xuphanuvông. Tuyệt đối không được tự cao, tự đại, không được <br />
bao biện...”<br />
Tôi nhớ mãi một câu chuyện cảm động rơi nước mắt mẹ Lào chia sữa của <br />
con mình cứu bộ đội tình nguyện Việt Nam như là hiến dâng máu của mình. <br />
Câu chuyện tôi đọc được đã được kể lại rằng có một cô gái m ười tám tuổi có <br />
đứa con đầu lòng, nhưng trước hoàn cảnh người lính tình nguyện Việt Nam bị <br />
kiệt sức vì sốt rét, thiếu dinh dưỡng và có thể mất mạng, người mẹ trẻ đó đã <br />
vượt qua sự xấu hổ, vượt qua những điều cấm kỵ của phong tục dân tộc, <br />
nhường một phần sữa của con cho người lính tình nguyện Việt Nam.<br />
Những giọt sữa quý giá của người mẹ trẻ đã giúp người lính hồi phục, <br />
góp thêm vào kho tàng những câu chuyện, những hành động cao cả của tinh thần <br />
“sẵn sàng xả thân vì nhau” một trong những yếu tố quan trọng, góp phần tạo <br />
nên mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước Lào và Việt Nam. <br />
Người trải nghiệm, hôm ấy, vượt qua chặng đường gần 900km từ thủ đô <br />
Vientiane về Xekong trong những cơn mưa đầu mùa của Lào vào những ngày <br />
cuối tháng Sáu vừa qua, nhờ sự giúp đỡ của Sở Ngoại vụ tỉnh Xêkông, đã đến <br />
được nhà mẹ Kanchia, ở bản Phông, huyện Lamam, tỉnh Xêkông, Nam Lào. <br />
Nhưng mẹ đã đi trông chắt cho cháu gái ở cách nhà gần 190km. Nghĩ tới con <br />
đường đã qua, nghĩ tới cảnh mẹ đang ở cái tuổi xưa nay hiếm và thời gian <br />
chẳng chờ ai, họ quyết định nhờ cô con gái của mẹ dẫn đường đến nhà cô cháu <br />
gái. Cô con gái của mẹ cũng chưa bao giờ đến nhà cô cháu gái và trong suy nghĩ <br />
của cô, chỉ cần chạy xe ôtô vài tiếng là tới. Và phải mất gần 3 tiếng vừa đi vừa <br />
gọi điện thoại hỏi đường, họ cũng đã gặp được Mẹ. Ông kể lại rằng: “Trái với <br />
sự hình dung của chúng tôi, mặc dù không còn khỏe nhưng nhìn mẹ vẫn còn khá <br />
<br />
11<br />
trẻ, lúc chúng tôi đến, mẹ vẫn đang tất tả vừa chăm sóc cho chắt, vừa tranh thủ <br />
giúp việc bếp núc cho các cháu.<br />
Khi chúng tôi hỏi tuổi của mẹ, mẹ trả lời chịu vì thực tế mẹ không biết <br />
mình sinh năm bao nhiêu. Tuy nhiên, khi chúng tôi hỏi về việc từng chia sẻ một <br />
phần sữa của con mình để cứu mạng một bộ đội tình nguyện Việt Nam bị sốt <br />
rét kiệt sức trong những năm tháng hai nước cùng chung chiến hào chống lại kẻ <br />
thù chung trước đây, mẹ bỗng chốc trở nên hoạt bát hơn hẳn và cho biết mẹ <br />
không thể nào quên được câu chuyện đó. <br />
Giải thích cho việc này, mẹ cho biết theo phong tục của người Lào, sữa <br />
chính là dòng máu và chỉ có thể chia sẻ cho con, việc cho người khác là điều <br />
kiêng kỵ, đặc biệt với một cô gái trẻ mới ở tuổi 18 như mẹ vào thời điểm đó, <br />
điều này còn khó hơn nhiều, do vậy mẹ làm sao có thể quên được<br />
Theo lời kể của mẹ, quê mẹ nằm gần vùng có tuyến đường Hồ Chí Minh <br />
huyền thoại đi qua, thời điểm đó, mẹ đang là cô du kích 18 tuổi, trong khi đứa <br />
con đầu của lòng của mẹ mới biết bò.<br />
Chồng của mẹ lúc đó đang là cán bộ trong một đơn vị giải phóng của Lào <br />
(không nhớ đơn vị nào), có nhiệm vụ giúp quân đội Việt Nam bảo vệ tuyến <br />
đường hành quân, vận chuyển từ miền Bắc vào miền Nam. <br />
Theo lời mẹ, khi đó (mẹ cũng không nhớ rõ năm nào), nhằm chặn tuyến <br />
đường vận tải huyết mạch của Việt Nam, giặc Mỹ ngày đêm cho máy bay B52 <br />
và các loại máy bay khác bắn pháo sáng, thả bom Napal và rải chất độc hóa <br />
học… vào nhà dân và các khu vực rừng núi xung quanh khiến gia đình mẹ và <br />
dân bản phải liên tục di chuyển, lẩn trốn. <br />
Khi đó, đơn vị của mẹ đang đóng ở Huoi Dua (Suối Đừa), sâu trong rừng <br />
Trường Sơn, phía trên là một đơn vị quân đội Việt Nam, một buổi sáng, mẹ <br />
đang cho con bú, một chú bộ đội Việt Nam đến xin mẹ sữa cho một đồng đội bị <br />
ốm rất nặng trong đơn vị. <br />
Vì khi đó các kho lương thực của đơn vị bị bom Mỹ phá hỏng, đường vận <br />
chuyển bị gián đoạn nên không còn lương thực bồi dưỡng cho thương bệnh <br />
binh.<br />
<br />
12<br />
Mẹ cho biết, ban đầu mẹ xấu hổ quá, không dám trả lời, tuy nhiên, khi nhìn <br />
người lính xanh rớt, kiệt sức nằm thiêm thiếp được đồng đội khiêng tới, mẹ đã <br />
quyết định không có ngại ngần gì nữa. <br />
Mẹ nói: “Tôi nghĩ người Việt cũng như người Lào, tôi thương đồng chí đó <br />
vì sợ nếu chết đi sẽ bỏ lại bố, mẹ, vợ, con ở quê nhà. Tôi thương vì họ đều là <br />
bộ đội tình nguyện Việt Nam sang giúp Lào chiến đấu. Trước đó, tôi cũng chưa <br />
từng biết đất nước Việt Nam ở chỗ nào, nhưng khi thấy anh em Việt Nam sang <br />
giúp đất nước mình, tôi thương và yêu quý nên tôi quyết định vượt qua mọi ái <br />
ngại và cho sữa. Có người hỏi tôi tại sao lại cho sữa như vậy, tôi kệ, tôi chỉ <br />
nghĩ rằng anh em Việt Nam đến ở làng mình, chiến đấu cho mình, hy sinh <br />
xương máu vì mình, nếu mình không chăm sóc sẽ như thế nào, còn gì là đoàn <br />
kết nữa”.<br />
Từ những giọt sữa đầy nghĩa tình này, anh bộ đội tình nguyện Việt Nam đã <br />
dần hồi phục và đến gặp mẹ Kanchia để cảm ơn ân nhân cứu mạng và xin <br />
nhận làm con.<br />
Sau khi bình phục, anh bộ đội tình nguyện Việt Nam đó đã quay trở lại đơn <br />
vị và tiếp tục di chuyển sang địa bàn khác chiến đấu.<br />
Kể từ đó, anh không còn dịp để trở lại bản xưa tìm lại “người mẹ” đã cứu <br />
mình ngày nào, có lẽ vì chiến tranh ác liệt, anh đã nằm lại ở một bản làng nào <br />
đó của Lào, cũng có thể vì một hoàn cảnh hoặc vì nhiều lý do khác không cho <br />
anh cơ hội. <br />
Trong quá trình tìm hiểu câu chuyện, tôi được biết Phó Chủ tịch, Tổng Thư <br />
ký Trung ương Hội Hữu nghị Lào Việt Nam trong nhiều năm qua, ông Xai<br />
kông Xayaxin từng nghe rất nhiều về những hành động, những câu chuyện <br />
đẹp về quan hệ hữu nghị Lào Việt Nam, nhưng với ông, câu chuyện về người <br />
mẹ trẻ mới 18 tuổi, lại đang nuôi đứa con đầu lòng mà dám vượt qua sự ngại <br />
ngùng, xấu hổ, vượt qua những rào cản kiêng kỵ của phong tục, tập quán của <br />
dân tộc, để nhường sữa cho bộ đội tình nguyện Việt Nam vẫn là một câu <br />
chuyện đặc biệt, có lẽ chỉ có trong quan hệ giữa hai nước Lào và Việt Nam.<br />
<br />
<br />
13<br />
Ông nói: “Tôi hết sức xúc động khi được nghe về câu chuyện này, đây là <br />
tấm lòng của một người mẹ. Chỉ có mẹ mới chia sẻ dòng sữa cho chính con của <br />
mình. Tôi nghĩ rằng chỉ có Việt Nam với Lào mới làm được như vậy”.<br />
Năm 1975, đất nước Lào được giải phóng, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân <br />
dân Lào ra đời trong khi Việt Nam cũng đã thống nhất đất nước, bộ đội tình <br />
nguyện Việt Nam sau đó trở về nước, chỉ còn lại con đường Hồ Chí Minh đầy <br />
vết tích của chiến tranh. Mẹ Kanchia cùng bà con trong bản cũng bắt tay vào <br />
xây dựng cuộc sống mới, cuộc sống với muôn bề gian khó sau chiến tranh khiến <br />
mẹ không có nhiều thời gian để nghĩ về câu chuyện cũ, mãi cách đây 5 7 năm, <br />
có người nhắc lại thì mẹ mới kể lại. Nhắc lại việc này, mẹ có chút hơi buồn.”<br />
Nhường cơm sẻ áo, nhường sữa của con, thậm chí nhường cho nhau được <br />
sống, trong lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, có vô vàn, vô vàn những <br />
câu chuyện, những hành động, những nghĩa cử cao đẹp như vậy, tất cả những <br />
nghĩa cử, những hành động cao đẹp đó đã hun đúc lên mối quan hệ thủy chung, <br />
trong sáng, có một không hai trên thế giới giữa Việt NamLào, LàoViệt Nam <br />
ngày nay”.<br />
Trong quá trình tìm hiểu để viết bài này, tôi biết rằng Mẹ Kan chia có tổng <br />
cộng 12 người con; trong đó có 5 người con với người chồng đã hy sinh trong <br />
chiến tranh. Sau này mẹ đi bước nữa và có thêm 7 người con với người chồng <br />
mới, tuy nhiên, do cuộc sống khó khăn, nghèo đói, thiếu thuốc men, đến nay chỉ <br />
còn 3 người con với người chồng mới còn sống. Hiện mẹ đang sống cùng con <br />
cháu tại bản Phon, huyện Lamam, tỉnh Xekông, Nam Lào.<br />
Tôi mạn phép kể câu chuyện thứ hai trong rất nhiều câu chuyện về tình <br />
cảm Việt Nam – Lào trong những câu chuyện diễn ra 55 năm qua, câu chuyện có <br />
thật, những kỷ vật của mối tình này như đang lớn mạnh, rạng ngời bởi lớp lớp <br />
cháu con của cả hai dân tộc mãi nguyện giữ gìn, vun đắp cho muôn đời sau…<br />
Chiều thu, cánh đồng lúa chín ở Gò Chùa, thôn Đề An, xã Hành Phước <br />
(huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi) ánh lên một màu vàng ruộm. Con đường <br />
bê tông thẳng tắp dẫn về làng tấp nập bước chân người qua lại. Giữa con <br />
đường ấy, là quần thể “Khu lưu niệm lễ xuất quân tình nguyện Việt – <br />
<br />
14<br />
Lào”. Cờ và những hàng chữ đỏ khắc trên nền vàng đặt giữa khu lưu niệm làm <br />
nổi bật quần thể kiến trúc, tạo điểm nhấn thu hút mọi ánh nhìn khi ai đó có dịp <br />
qua đây…<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nhà trưng bày trong Khu lưu niệm<br />
<br />
Chúng tôi về Đề An đúng vào thời khắc nhân dân nơi đây vui mừng đón <br />
nhận bằng di tích lịch sử cấp tỉnh Khu lưu niệm làm lễ xuất quân tình nguyện <br />
Việt – Lào. Long trọng, trang nghiêm, nhưng ấm cúng lạ thường. Những người <br />
lính Việt Nam trong đoàn quân tình nguyện năm xưa; những sinh viên Lào – là <br />
con cháu của những “lính bạn Lào” trong lễ xuất quân năm ấy cũng có mặt.<br />
Họ đến không chỉ để chứng kiến buổi lễ. Sự có mặt của họ là để cùng với <br />
nhân dân Đề An nói riêng, Quảng Ngãi nói chung và cả đất nước Việt Nam này <br />
viết tiếp bản trường ca về tinh thần quốc tế cao cả, tình hữu nghị Việt – Lào <br />
thủy chung.<br />
Khu lưu niệm lễ xuất quân nằm trên khuôn viên rộng khoảng 1.000 m2, <br />
được xây dựng hoàn thành vào đầu năm 2012. Trước đó, vào năm 2009, khi chưa <br />
xây dựng thành khu lưu niệm thì Ban liên lạc quân tình nguyện Việt – Lào và <br />
các chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào đã đóng góp xây dựng Bia di tích <br />
quân tình nguyện Việt – Lào.<br />
<br />
<br />
<br />
15<br />
Việc xây dựng bia di tích, rồi sau đó là Khu lưu niệm lễ xuất quân tình <br />
nguyện Việt – Lào và việc trao bằng di tích lịch sử cấp tỉnh nhằm đưa di tích <br />
này trở thành tài sản chung vô giá của hai dân tộc, xây đắp tình đoàn kết truyền <br />
thống đặc biệt và toàn diện Việt – Lào mãi mãi sắt son.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Du khách thăm quan Khu lưu niệm.<br />
<br />
Biểu hiện sinh động của tình hữu nghị vĩ đại này, không chỉ có sử sách mà <br />
dường đã được khắc vào tâm khảm mỗi người dân Đề An. Ông Dương Mạnh – <br />
một cán bộ đã nghỉ hưu ở thôn Đề An cho chúng tôi biết: “Dù vinh dự có mặt <br />
trong buổi lễ xuất quân năm ấy hay chỉ nghe người làng kể lại, thì chúng tôi <br />
đều nhớ về ngày làm lễ xuất quân tình nguyện Việt – Lào. Đó là ngày 19 tháng <br />
8 năm 1948 – cách nay đã 64 năm. Có cả bác Phạm Văn Đồng đại diện Trung <br />
ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ; ông Xổm – ma – nô – vông đặc <br />
phái viên của Hoàng thân Xuphanuvông đến dự”.<br />
Bộ đội Việt – Lào lên đường làm nhiệm vụ trong ba lô thơm mùi cơm nắm <br />
muối vừng của các bà, các mẹ, các chị thôn Đề An chuẩn bị gói ghém để các <br />
anh mang theo trong bước quân hành.<br />
Trong khuôn viên khu lưu niệm, có nhà bia, nhà trưng bày. Bia di tích lịch <br />
sử này ghi rõ: “Nơi đây, ngày 19 tháng 8 năm 1948 liên quân Việt – Lào làm lễ <br />
xuất quân đi làm nhiệm vụ quốc tế ở Hạ Lào Đông Bắc Campuchia… Tại lễ <br />
<br />
16<br />
xuất quân, đồng chí Phạm Văn Đồng đã căn dặn: Chỉ có vận động nhân dân <br />
Lào đứng lên kháng chiến, thì mới đánh thắng được giặc Pháp. Các đồng chí <br />
phải thương yêu đất nước, núi sông, cây cỏ và nhân dân Lào như thương yêu <br />
đất nước, núi sông, cây cỏ và nhân dân Việt Nam ta vậy. Chúc các đồng chí lên <br />
đường chân cứng, đá mềm, hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế vẻ vang”.<br />
Ngay sau lễ xuất quân, Đội quân liên quân Việt – Lào gồm 240 người, <br />
trong đó có 44 người Lào và 196 người Việt Nam đã tiến thẳng đến Bến Giằng <br />
(miền tây Quảng Nam), qua biên giới Việt Lào vào vùng Hạ Lào Đông Bắc <br />
Campuchia.<br />
Trong vòng 6 – 7 năm, đội quân liên quân Việt – Lào với tinh thần mưu trí, <br />
dũng cảm, linh hoạt, sáng tạo đã vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, kể cả <br />
hy sinh tính mạng, chiến đấu và tuyên truyền vận động xây dựng lực lượng, góp <br />
phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng đấu trang giải phóng dân tộc hai nước <br />
Việt – Lào…<br />
Hiện nay, nhà trưng bày Khu lưu niệm còn lưu giữ nhiều bức ảnh chụp đội <br />
quân tình nguyện Việt – Lào lúc chiến đấu cũng như trong sinh hoạt nơi vùng <br />
Hạ Lào Đông Bắc Campuchia những năm tháng đó. Những bức chân dung lãnh <br />
đạo hai đảng cộng sản Việt – Lào. Màu sắc, đường nét đã phai dần theo thời <br />
gian, nhưng tình hữu nghị, thủy chung Việt – Lào vẫn ngày càng son sắt.<br />
Hai bức thư chúc mừng, một của đồng chí Phạm Văn Đồng (viết vào năm <br />
1995) và một của đồng chí Khăm–tày–xi–phăn–đon (viết vào năm 2004) viết ở <br />
hai đất nước khác nhau nhưng cùng gửi cho một địa chỉ: Các đồng chí quân <br />
tình nguyện Việt – Lào. Nội dung ca ngợi tinh thần quốc tế vô sản, sự đồng <br />
cam cộng khổ, kề vai sát cánh giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và <br />
nhân dân hai nước giao phó…<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
17<br />
Hai câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân <br />
Xuphanuvông trong Khu lưu niệm Biểu tượng đẹp của <br />
tình hưu nghị Việt – Lào.<br />
<br />
Đặc biệt, trong khu lưu niệm còn có bức trướng xây bằng bê tông với hai <br />
dòng chữ vàng trên nền đỏ thắm, một của bác Hồ Chí Minh “Việt Lào hai nước <br />
chúng ta. Tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long” và một của Hoàng thân Xu<br />
phanuvông “Tình đoàn kết đặc biệt Việt – Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền <br />
vững”. Đó không chỉ là lời nhắc nhở mà còn là “kim chỉ nam” cho việc xây <br />
dựng, vun đắp tình hữu nghị Việt – Lào.<br />
Tình Việt Lào sâu đậm thế đấy, có thể kiếm được ở đâu chăng, trong <br />
khuôn khổ có hạn của bài viết, tôi chỉ trình bày sơ lược vể cơ sở của quan hệ <br />
Việt Nam Lào và sự phát triển trong lích sử cùng những kỷ niệm sâu sắc, cảm <br />
động về tình đoàn kết, hữu nghị của hai dân tộc. Hy vọng có nhiều hơn những <br />
cuộc thi, diễn đàn bổ ích như thể này để chúng ta có thể trải lòng mình, cùng sẻ <br />
chia, nhìn về tình đồng chí trong lịch sử mà hướng đến tương lai tốt đẹp với <br />
những thắng lợi rực rỡ mới.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
18<br />
Ảnh tư liệu: <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />
(Ảnh của phóng viên Phạm Kiên và Xuân Tú, đăng trên báo Vietnamplus)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
20<br />
21<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
22<br />
Ảnh: Bản đồ Việt Nam trong bán đảo Đông Dương (Nguồn: Internet)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
23<br />
Ảnh tư liệu: Thượng tá Phan Văn Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam nâng <br />
niu bằng khen do Nhà nước Lào trao tặng (nguồn: Phóng viên Quốc Khải, báo <br />
Đà Nẵng Online).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
24<br />
Ảnh: Bản đồ hành chính nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: Nguyễn Tiến Triển, violet.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
25<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và nói chuyện thân mật với Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản, Trưởng đoàn đại<br />
biểu Đảng và Mặt trận Lào yêu nước sang thăm hữu nghị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hà Nội,<br />
năm 1966.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
26<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Quốc vương Lào Xỉ Xạ Vàng Vắt Thạ Na múa lăm vông với các diễn viên<br />
Lào trong buổi lễ mừng Quốc vương thăm hữu nghị Việt Nam tại Hà Nội, ngày 12/3/1963.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình ảnh cảm động khi bộ đội tình nguyện Việt Nam chia tay các bạn Lào trước lúc trở về nước, năm<br />
1961.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Công nhân Việt Nam cùng bộ đội và nhân dân Lào thi công đoạn đường Mương Liệt từ Na Mèo (Thanh<br />
Hóa - Việt Nam) đi Sầm Nưa (Lào) năm 1963.<br />
<br />
<br />
27<br />
Nhân dân Lào ở Sầm Nưa mít tinh ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt<br />
Nam vào tháng 8/1964<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chiến sỹ Quân đội Giải phóng nhân dân Lào trong chiến dịch Đường 9 Nam Lào,<br />
tháng 3/1971.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
28<br />
Bộ đội công binh Việt Nam (Đại đội 5, Trung đoàn 217) nhanh chóng khắc phục<br />
hậu quả bom Mỹ phá hủy cống ngầm sân bay Sầm Nưa, năm 1972.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Cay Xỏn Phôm Vi<br />
Hản (bên phải) và Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt<br />
Nam Phạm Văn Đồng, ký Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác giữa hai nước tại Viêng<br />
<br />
<br />
29<br />
Chăn, ngày 18/7/1977.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào thăm<br />
Trường Sỹ quan Lục quân 1 (Việt Nam) tháng 1/1981.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
30<br />
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam thay mặt Đảng, Nhà nước Việt Nam tặng huân chương<br />
Sao Vàng cho Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Cay Xỏn Phôm Vi<br />
Hản tại Viêng Chăn, ngày 1/5/1981.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chiếc đài - tặng phẩm của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa dân chủ<br />
nhân dân Lào Khăm Tày Xi-Phan-Đon tặng Phó Chính ủy Đoàn chuyên gia quân<br />
sự Việt Nam tại Lào Phạm Nghiêm.<br />
<br />
<br />
Nguồn: Nguyễn Hoan, Báo điện tử Hội Dầu khí Việt Nam<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
31<br />
Người dân thôn Đá Bàn, xã Mỹ Bằng (Yên Sơn) thăm Khu di tích lịch sử cách mạng Lào tại thôn Đá Bàn.<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: Báo Tuyên Quang Online<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
32<br />
Lãnh đạo BĐBP tỉnh và UBND huyện A Lưới cắt băng khánh thành bàn giao nhà hữu nghị cho dân bản Sê <br />
<br />
Xáp, tỉnh Sêkông (Lào). Nguồn: Báo Thừa Thiên – Huế Online<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
33<br />
Biểu tượng tình hữu nghị Việt Lào trong Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam Lào tại bản Lao Khô.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bộ đội Biên phòng hai nước Việt Nam Lào tại khu vực cửa khẩu Nà Cài, xã Chiềng On, huyện Yên Châu <br />
(Sơn La).<br />
Nguồn: Báo Nhân Dân Online<br />
<br />
34<br />
<br />
Chương trình nghệ thuật khai mạc những ngày văn hoá Lào tại Việt Nam . Ảnh: <br />
Dương Giang TTXVN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Toàn cảnh Khóa họp lần thứ 4 Ủy ban Hợp tác KH&CN Việt Nam – Lào tại Nghệ An<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
35<br />
Lễ ký Biên bản ghi nhớ giữa Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia Việt Nam và Quỹ Phát triển KH&CN Lào<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Thủ tướng Nguyễn <br />
<br />
Tấn Dũng và Thủ tướng Thongsinh Thammavong chứng kiến lễ ký hai văn kiện quan trọng giữa <br />
<br />
hai nước. Ảnh: VGP/Nhật Bắc)<br />
<br />
<br />
36<br />
Dự và cắt băng khai mạc Triển lãm có các đồng chí lãnh đạo cấp cao hai nước Việt Nam – Lào. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Các đồng chí đại biểu hai nước Việt Nam Lào tham quan Triển lãm. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
37<br />
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh và đồng chí Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch <br />
nước Lào Phankham Viphavan ghi sổ cảm tưởng tại Triển lãm. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Khu trưng bày các kỷ vật, tài liệu và hình ảnh phản ánh quá trình xây dựng và phát triển mối quan hệ đặc biệt <br />
giữa 2 nước qua các thời kỳ lịch sử, tập trung từ năm 1962, trong đó có một số hiện vật, hình ảnh lần đầu tiên <br />
được công bố.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
38<br />
Trát của Đặc sai Phụ quốc đại tổng quản thượng tướng quân triều Vua Quang Trung năm thứ tư (1791) về việc <br />
chiêu mộ nghĩa binh giúp Lào. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xuphanuvông, Thủ tướng chính phủ Lào Ítxala tại chiến khu Việt Bắc <br />
(Việt Nam), năm 1951. <br />
<br />
<br />
<br />
39<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh với gia đình Hoàng thân Xuphanuvông nhân dịp Hoàng thân thăm Việt Nam, Hà Nội, ngày <br />
15/8/1962. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Các hình ảnh tư liệu qua các thời kỳ lịch sử (1977 1986). <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
40<br />
Đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam <br />
trao tặng Trung ương Đảng và chính phủ Lào bức trướng thêu bốn câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thương <br />
nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua/ Việt Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước <br />
Hồng Hà, Cửu Long”, Viêng Chăn, ngày 16/7/1977. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
41<br />
Những kỷ vật được trưng bày tại Triển lãm. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
42<br />
Một số tài liệu về quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt Việt Nam Lào qua 30 năm đổi mới (1987 <br />
2017). <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Văn bản gốc ký kết hợp tác giữa hai nước Việt Nam Lào trong đó có các điều khoản thực hiện các chương <br />
trình hợp tác giáo dục đào tạo; hợp tác phát triển thương mại; hợp tác thông tin văn hóa; hợp tác kết nối hạ tầng, <br />
du lịch, dịch vụ và duy trì hoạt động, nâng cao năng lực các chương trình dự án phục vụ hợp tác giữa hai <br />
nước… <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
43<br />
Hình ảnh về mối quan hệ hợp tác toàn diện Việt Lào. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chủ tịch Quốc hội <br />
Nguyễn Thị Kim Ngân và Chủ tịch Quốc hội Lào Pany Yathotou <br />
ký thỏa thuận hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và Lào. Ảnh: Trọng Đức – TTXVN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
44<br />
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đồng chí Phankham Viphavan tại lễ kỷ niệm. Ảnh: Hải <br />
Nguyễn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
45<br />
Lễ kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (5.9.19625.9.2017) và <br />
40 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt NamLào (18.7.1977<br />
18.7.2017) đã được tổ chức trọng thể tại Hà Nội ngày 18.7. Ảnh: Hải Nguyễn<br />
46<br />