BÀI DỰ THI<br />
TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT<br />
VIỆT NAM LÀO, LÀO VIỆT NAM NĂM 2017<br />
Người tham gia: <br />
Họ và tên: Lại Quang Huy Đơn vị: Chi đoàn Công an, Đoàn <br />
Ngày sinh: 04/9/1994 phường Phước Long, Nha Trang, <br />
Giới tính: Nam Khánh Hoà<br />
Nghề nghiệp: Công an Nơi thường trú: <br />
Dân tộc: Kinh Số điện thoại: 0994.14.994<br />
Tôn giáo: không<br />
NỘI DUNG BÀI DỰ THI<br />
Trong khuôn khổ bài viết tham gia cuộc thi “ Tìm hiểu lịch sử quan hệ <br />
đặc biệt Việt Nam Lào, Lào Việt Nam năm 2017 , tôi xin trình bày vai trò <br />
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch Xupha<br />
nuvông và các nhà lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai Nhà nước trong quá trình <br />
xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào Việt Nam.<br />
Trước hết, xin giới thiệu một chút về nước Lào anh em. Lào là quốc gia <br />
Đông Nam Á trong bán đảo Đông Dương có chung đường biên giới dài 2069 km <br />
trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào.<br />
Tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai Đảng, hai nước ViệtLào và sự gắn bó <br />
thủy chung, keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào được <br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phomvihản trực tiếp gây dựng, <br />
được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai <br />
nước quý trọng, nâng niu và dày công vun đắp. Trải qua nhiều giai đoạn và biến <br />
cố của lịch sử, mối quan hệ ViệtLào được tôi luyện và hun đúc bằng công sức <br />
và xương máu của biết bao anh hùng liệt sỹ, bằng sự hy sinh phấn đấu của <br />
nhiều thế hệ người Việt Nam và Lào và đã thực sự trở thành mối quan hệ <br />
truyền thống, rất đặc biệt, rất thủy chung và trong sáng. Chủ tịch Cayxỏn <br />
Phomvihản đã từng nói: “Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm <br />
gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao <br />
giờ có sự đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như vậy”.<br />
Nhìn lại chặng đường hào hùng lịch sử đã qua, chúng ta có thể tự hào về <br />
quá trình hình thành và phát triển của mối quan hệ đặc biệt, hiếm có giữa hai <br />
dân tộc. Trong thời kỳ đấu tranh chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ, <br />
hai nước đã thành lập Liên quân Việt – Lào để cùng chung sức chiến đấu chống <br />
kẻ thù chung. Những chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đầu tiên đã sang Lào <br />
cùng chiến đấu sát cánh bên lực lượng vũ trang Pathét Lào. Quyết tâm, hy sinh <br />
xương máu và sự phối hợp chặt chẽ giữa những người con ưu tú của hai dân <br />
tộc đã góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân cũ của hai nước đi <br />
đến thắng lợi vẻ vang, với việc ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông <br />
Dương.<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt <br />
Nam – Lào, Lào – Việt Nam.<br />
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc, với lòng yêu <br />
nước nồng nàn và nghị lực phi thường, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự <br />
mình khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát <br />
hiện chân lý cứu nước. Người tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – <br />
Lênin vào điều kiện cụ thể của Đông Dương để xác định con đường giải phóng <br />
các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con đường cách mạng vô sản.<br />
Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan <br />
tâm đến tình hình Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung <br />
mà còn tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào.<br />
Năm 1925 ngay tại Pháp, Hồ Chí Minh đã viết: “Ở Luông Phabang nhiều <br />
phụ nữ nghèo khổ thân thương phải mang xiềng đi quét đường chỉ vì một tội <br />
không đủ nộp thuế”. Đây là văn bản đầu tiên thể hiện sự quan tâm của Chủ tịch <br />
Hồ Chí Minh đối với nhân dân Lào. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ <br />
chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp <br />
sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), đến tháng 2 năm <br />
1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua hoạt động của Hội Việt <br />
Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy đây là điều kiện <br />
thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu nước tại Lào, <br />
vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết khăng khít giữa <br />
Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã lập <br />
Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách mạng trên <br />
đất Lào. Trên thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một đầu cầu <br />
trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của <br />
Nguyễn Ái Quốc vào Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức <br />
khảo sát thực địa tại Lào càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách <br />
mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng <br />
sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa <br />
nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.<br />
Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương <br />
của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác <br />
chính trị, tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba <br />
nước Đông Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc <br />
biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại <br />
sắp tới của cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.<br />
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí <br />
Minh sáng lapạ đã ra đời – tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương cũng là <br />
sự mở đâu nh<br />
̀ ưng trang s<br />
̃ ử ve vang cua quan h<br />
̉ ̉ ệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – <br />
Việt Nam.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hội nghị thành lập Đảng năm 1930<br />
Trên cơ sở sự phát triển của tổ chức Đảng ở Lào, tháng 9 năm 1934, Ban <br />
Chấp hành Đảng bộ lâm thời Ai Lao (tức Xứ uỷ lâm thời Ai Lao) được thành <br />
lập. Sự ra đời của Xứ uỷ Ai Lao là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử đấu <br />
tranh yêu nước của nhân dân các bộ tộc Lào, khẳng định trên thực tế vai trò lãnh <br />
đạo của Đảng bộ Lào đối với cách mạng Lào cũng như đánh dấu một bước <br />
phát triển mới trong quan hệ giữa phong trào cách mạng hai nước Việt Nam – <br />
Lào, Lào – Việt Nam.<br />
Trong suốt quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng, Đảng Cộng sản Đông <br />
Dương còn đề ra những chủ trương và giải pháp cụ thể chỉ đạo các cấp bộ <br />
Đảng và phong trào cách mạng Đông Dương cũng như tăng cường sự quan hệ <br />
mật thiết, nương dựa lẫn nhau của hai dân tộc Việt Nam và Lào trên hành trình <br />
đấu tranh giành tự do, độc lập cho mỗi dân tộc. Điều này thêm một lần nữa <br />
khẳng định: quá trình chuẩn bị công phu về mọi mặt chính trị, tư tưởng, và tổ <br />
chức cho cách mạng Việt Nam, đồng thời với việc quan tâm xây dựng nhân tố <br />
bên trong cho cách mạng Lào, cả về phương diện tổ chức lẫn chỉ đạo thực tiễn <br />
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thật sự tạo ra nền tảng hoàn toàn mới về chất <br />
cho lớp người cộng sản Đông Dương đầu tiên, bất luận họ là người Việt Nam, <br />
người Lào, hay là người Campuchia. Đây chính là nền móng vững chắc của <br />
quan hệ đặc biệt Việt NamLào, LàoViệt Nam mà Nguyễn Ái Quốc là kiến <br />
trúc sư vĩ đại của tình đoàn kết đặc biệt đó. Như cố Chủ tịch Cayxỏn Phômvi<br />
hản thường nói: “Tôi còn nhớ như in buổi làm việc thân tình trong căn nhà của <br />
Bác. Khi thảo luận về mối quan hệ hai Đảng và hai nhà nước và giữa nhân dân <br />
hai nước, Bác Hồ và chúng tôi đều thấy rằng, ngoài mối quan hệ giữa hai Đảng <br />
cùng chung lý tưởng cộng sản, giữa hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng, mối <br />
quan hệ giữa hai Đảng và nhân dân hai nước chúng ta còn có sự gắn bó thân <br />
thiết không giống bất cứ nước nào…”<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí <br />
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân <br />
hai nước dày công xây dựng, vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, <br />
Lào Việt Nam.<br />
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí <br />
Minh mời Hoàng thân Xuphanuvông đang ở Vinh ra Hà Nội trao đổi những <br />
vấn đề liên quan đến hai nước và khu vực. Như vậy muốn cứu nước, không có <br />
con đường nào khác là phải làm cách mạng vô sản. Khi đã xác định đường đi <br />
cho dân tộc mình thì đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận ra rằng trong <br />
sự nghiệp giải phóng dân tộc mình cần phải có những người bạn đồng minh. <br />
Trước hết đó là hai dân tộc láng giềng Miên và Lào.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Hoàng thân Xuphanuvông<br />
Cuộc gặp gỡ đã có tác động mạnh mẽ, quyết định đối với Hoàng thân trong <br />
việc chọn lựa con đường làm cách mạng và đã đặt những viên gạch đầu tiên <br />
xây dựng mối quan hệ Việt – Lào. Bị thu hút bởi nhân cách lớn, trí tuệ vĩ đại <br />
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hoàng thân Xuphanuvông đã đi theo cách mạng, là <br />
Hoàng đế duy nhất trên thế giới trở thành Chủ tịch Mặt trận Ítxala, rồi chủ <br />
tịch Mặt trận Lào yêu nước cùng vào sinh ra tử, nằm gai nếm mật, lãnh đạo <br />
cách mạng Lào đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hoàng thân cùng một số <br />
nhà lãnh đạo khác của Mặt trận Lào yêu nước vào Viêng Chăn tham gia Chính <br />
phủ Liên hiệp bị Phủi Xa Na Ni Kon do Mỹ giật dây bắt giam. Cũng chính Việt <br />
Nam đã cử đội quân đặc biệt giải cứu, đã thuyết phục được đội quan canh tù <br />
theo cách mạng, vượt tù và theo hướng Đông thẳng tiến. Sau khi cách mạng <br />
giành thắng lợi năm 1975, Hoàng thân là chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân <br />
dân Lào.<br />
Đồng chí Cayxỏn Phômvihản, với bầu nhiệt huyết tuổi trẻ đã sớm giác <br />
ngộ cách mạng, tích cực hoạt động trong phong trào sinh viên yêu nước tại hà <br />
Nội và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1949, Đồng chí <br />
Cayxỏn thành lập trung đội “Lạtxavông” tiền thân của Quân giải phóng Lào, <br />
(Quân đội Nhân dân Lào ngày nay). Năm 1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc <br />
lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí Cayxỏn là trưởng đoàn <br />
của Xứ ủy Lào, đã quyết định, để mỗi nước có Đảng riêng để lãnh đạo phong <br />
trào cách mạng phù hợp với thực tiễn tình hình của mỗi nước lúc bấy giờ cũng <br />
như sau này. Từ Đại hội II, đồng chí Cayxỏn cùng các đồng chí khác chuẩn bị, <br />
vận động đến năm 1955 đã thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, do đồng <br />
chí Cayxỏn làm Tổng bí thư, năm 1975 thành lập chính phủ đồng chí được bầu <br />
làm Thủ tướng.<br />
Chúng ta có thể thấy rằng, giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Chủ tịch Cay<br />
xỏn, Chủ tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo khác của Lào, giữa đồng chí <br />
Cayxỏn với đồng chí Võ Nguyễn Giáp đã có mối quan hệ gắn bó keo sơn trong <br />
hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và đặc biệt là trong xây dựng đất nước <br />
theo con đường Chủ nghĩa Xã hội ngày nay.<br />
30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc của cả hai nước (1945 1975) là một <br />
cuộc trường chinh đầy khó khăn, gian khổ, song cũng rất đỗi hào hùng xây đắp <br />
nên tình đoàn kết chiến đấu, hữu nghị đặc biệt Việt Nam Lào.<br />
Ngày 3 tháng 10 năm 1945, tại cuộc mít tinh của hàng vạn nhân dân tỉnh Xa<br />
vannakhẹt đón chào Hoàng thân Xuphanuvông trở về tham gia chính phủ <br />
Lào, Hoàng thân tuyên bố: “Quan hệ Lào – Việt từ nay sẽ mở ra một kỷ nguyên <br />
mới…”. Hình ảnh, uy tín, quyết tâm làm cách mạng, cứu nước và những lời nói <br />
tốt đẹp của Hoàng thân về quan hệ Lào – Việt đã tác động lớn lao đến sự <br />
hưởng ứng, tham gia cách mạng của các tầng lớp nhân dân Lào, càng tạo thêm <br />
chất keo gắn kết tình cảm của nhân dân Lào với Việt kiều cũng như với Việt <br />
Nam. Chính phủ Lào Ítxalạ (Lào tự do) vừa được thành lập cũng đã chủ trương: <br />
“Nhân dân Lào thân thiện với nhân dân Việt Nam và quyết tâm cùng nhân dân <br />
Việt Nam đánh đuổi bọn thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương”. Thủ tướng <br />
Khăm Mạo tuyên bố với Việt kiều: “mong rằng ba nước Việt, Miên, Lào bắt <br />
tay nhau để kiến thiết quốc gia” . Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương <br />
trợ Lào – Việt và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào – Việt, đặt cơ sở pháp lý <br />
đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của <br />
hai dân tộc Việt – Lào.<br />
Sau khi giành được chính quyền, nhân dân hai nước Việt Nam, Lào hơn lúc <br />
nào hết, chỉ mong muốn được sống trong hòa bình, tiếp tục hợp tác, cùng nhau <br />
bảo vệ nền độc lập và xây dựng lại đất nước nhưng ngày 23 tháng 9 năm 1945, <br />
thực dân Pháp được sự đồng lõa của quân Anh, nổ súng đánh chiếm thành phố <br />
Sài Gòn. Tiếp đó, chúng mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ <br />
của Việt Nam, sang Campuchia, Hạ Lào, rồi toàn cõi Đông Dương.<br />
Trước nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước Việt Nam – Lào <br />
– Campuchia, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng <br />
Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp <br />
giải phóng dân tộc của ba nước Đông Dương. Chỉ thị chủ trương: “Thống <br />
nhất mặt trận Việt Miên Lào chống Pháp xâm lược ” và nêu rõ nhiệm vụ: <br />
“Tăng cường công tác vũ trang tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân ở <br />
thôn quê, làm cho mặt trận kháng Pháp của Lào – Việt lan rộng và chiến tranh <br />
du kích nảy nở ở thôn quê, đặng bao vây lại quân Pháp ở nơi sào huyệt của <br />
chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào”.<br />
Đảng và Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi <br />
nhiệm vụ giúp cách mạng Lào như mình tự giúp mình để cùng phối hợp chiến <br />
đấu, đánh đuổi kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho mỗi nước trên bán đảo <br />
Đông Dương. Thấm nhuần quan điểm quốc tế cao cả của Đảng Lao động Việt <br />
Nam và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam từ tiền tuyến đến hậu <br />
phương sẵn sàng chia sẻ những thuận lợi, cùng khắc phục khó khăn, cử nhiều <br />
người con yêu dấu của mình sang phối hợp cùng bạn Lào đẩy mạnh chiến tranh <br />
du kích, phát triển lực lượng kháng chiến.<br />
Nhân dịp giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện hoà hợp dân <br />
tộc, thống nhất quốc gia, thành lập Chính phủ Liên hiệp, ngày 10 tháng 1 năm <br />
1958, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và <br />
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: “Sở dĩ cách <br />
mạng Lào đạt được những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đoàn kết đấu <br />
tranh anh dũng kiên cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo <br />
của Đảng Nhân dân Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng <br />
chí và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lòng theo dõi, giúp đỡ chúng <br />
tôi trong mỗi giai đoạn của cách mạng”.<br />
Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách <br />
mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến <br />
đấu giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân <br />
thành nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như <br />
đồng chí Cayxỏn Phômvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân <br />
dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam tháng 12 năm 1968) đã nhấn mạnh: “Sự <br />
giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam <br />
đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã <br />
nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào… Sự giúp đỡ của <br />
Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là <br />
sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”.<br />
Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang trang mới: từ liên minh <br />
chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc <br />
lập chủ quyền. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão, <br />
đẩy nhanh xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên tất cả các lĩnh vực của đời <br />
sống xã hội. Do đó, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và Lào đều <br />
có cơ hội và điều kiện thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử dụng các <br />
thành tựu khoa học công nghệ của thế giới để đẩy nhanh quá trình phát triển <br />
kinh tế, xây dựng đất nước…<br />
Năm 1976, ngay sau thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lào <br />
và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận quan trọng trong vòng hai tháng rút toàn bộ <br />
quân đội và chuyên gia Việt Nam về nước và bắt đầu xúc tiến việc hoạch định <br />
biên giới quốc gia giữa hai nước. Tuy nhiên, lợi dụng cơ hội này, bọn phản <br />
động trong nước Lào, với sự hỗ trợ của các thế lực thù địch quốc tế, đã hoạt <br />
động nổi dậy ở nhiều nơi. Do vận mệnh của hai nước liên đới lẫn nhau nên <br />
mối quan tâm hàng đầu về an ninh chính trị của Lào cũng là mối quan tâm <br />
thường trực của Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương <br />
Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với <br />
cách mạng Lào trong giai đoạn mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp <br />
đỡ, hợp tác đối với Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của <br />
Đảng và nhân dân Việt Nam, cũng là vì lợi ích thiết thân của cách mạng Việt <br />
Nam.<br />
Đặc biệt, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 7 năm 1977, Đoàn đại biểu cao cấp <br />
Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm <br />
Văn Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý <br />
kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng mà hai bên cùng quan tâm, cũng như các <br />
vấn đề nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ <br />
và nhân dân hai nước, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống <br />
còn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ <br />
nghĩa xã hội. Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp <br />
ước: Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam <br />
và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia <br />
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ <br />
Nhân dân Lào; và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài <br />
giữa hai nước.<br />
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam <br />
và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là Hiệp ước toàn diện, mang tính chiến <br />
lược lâu dài, tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường <br />
lâu dài tình đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. <br />
Hiệp ước có giá trị trong 25 năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng 10 <br />
năm nếu một trong hai bên không thông báo cho bên kia muốn hủy bỏ Hiệp ước <br />
ít nhất là một năm trước khi hết hạn. Hiệp ước nêu rõ: Hai bên cam kết ra sức <br />
bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, <br />
không ngừng tăng cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và <br />
giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và <br />
theo nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn <br />
lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào <br />
công việc nội bộ của nhau. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt <br />
mới trong quan hệ giữa hai nước. Việc ký kết hiệp ước đó còn có ý nghĩa quốc <br />
tế quan trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng <br />
hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu <br />
vực.<br />
Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một biểu hiện tốt đẹp của việc <br />
giải quyết vấn đề lợi ích dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ <br />
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, là mẫu mực <br />
về chính sách láng giềng hữu nghị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt <br />
Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.<br />
Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986, lãnh đạo cấp cao hai <br />
Đảng hai Nhà nước càng tăng cường cũng cố quan hệ hợp tác toàn diện <br />
Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam.<br />
Ngày 3 tháng 7 năm 1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt <br />
Nam chỉ thị: “Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn <br />
quốc lần thứ VI, các Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn <br />
kết, hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các <br />
cuộc hội đàm lần này, các bộ ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp <br />
tác với bạn cần kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp <br />
chấm dứt các hiện tượng tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai <br />
trái gây phương hại cho quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”. Về phía Lào, Ban Bí <br />
thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “ Xuất phát từ <br />
truyền thống lịch sử và tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, <br />
sự tăng cường liên minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào – Việt <br />
Nam – Campuchia mới trở thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc <br />
cách mạng bất di bất dịch của mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước ”. <br />
Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ: “ hai bên <br />
nhất trí phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ <br />
quan hệ đoàn kết sống còn và lâu dài, quán triệt quan điểm, phương châm <br />
nguyên tắc của mối quan hệ trong giai đoạn cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng <br />
và tác phong làm việc mới, tránh những bảo thủ, chủ quan, chống mọi hiện <br />
tượng lơ là mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi”.<br />
Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng <br />
Nhân dân Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng <br />
Lào thăm chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như <br />
một tăng cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt <br />
Nam, Việt Nam – Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ <br />
trưởng Ngoại giao giữa hai nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại <br />
giao trên các diễn đàn quốc tế.<br />
Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp Trung <br />
ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định <br />
hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Quan <br />
hệ giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết <br />
nghĩa đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều <br />
sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên <br />
cứu, biên soạn công trìnhLịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt <br />
Nam từ 1930 – 2007 nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác <br />
toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm <br />
phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – <br />
Lào, Lào – Việt Nam lên một tầm cao mới.<br />
Tháng 6 năm 2011, Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã <br />
thăm hữu nghị chính thức Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, tiếp tục khẳng định <br />
mong muốn và quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong việc <br />
gìn giữ, phát huy quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào như một tài sản chung vô giá <br />
của hai dân tộc. Cũng trong năm 2011, hai bên đã trao đổi nhiều đoàn lãnh đạo <br />
Quốc hội và đại biểu Quốc hội của hai nước, phối hợp tổ chức thành công <br />
nhiều hoạt động giao lưu giữa các cơ quan của hai Quốc hội như: Hội thảo giao <br />
lưu giữa Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam – Lào tại Hội An (Quảng Nam) <br />
vào tháng 6 năm 2011; Hội thảo giữa ba Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam – <br />
Lào – Campuchia tại Chămpaxắc vào tháng 7 năm 2011; Hội thảo giao lưu <br />
giữa Văn phòng Quốc hội Việt Nam – Lào tại Xavannakhẹt vào tháng 7 năm <br />
2011; Hội thảo giữa hai Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và <br />
Nhi đồng của hai Quốc hội tháng 2 năm 2011 tại Lào, qua đó tăng cường hiểu <br />
biết, tin cậy và quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Quốc hội nói riêng, hai Đảng, <br />
Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào nói chung.<br />
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào Việt Nam quý báu và thiêng <br />
liêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ chứa <br />
chan nghiwax tình khi tiễn nhà vua Lào Xa Vàng Vát Tha Na sang thăm Việt <br />
Nam:<br />
“Thương nhau mấy núi cũng trèo,<br />
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.<br />
Việt – Lào, hai nước chúng ta,<br />
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.<br />
Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: “Trong lịch sử cách <br />
mạng thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vô sản, <br />
nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đoàn kết liên minh chiến đấu <br />
đặc biệt, lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào – Việt Nam ”; “Núi có thể mòn, <br />
sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào – Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn <br />
sông”.<br />
Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện các âm mưu “diễn biến hòa <br />
bình” với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại, chia rẽ tình đòan kết hữu nghị đặc <br />
biệt Việt Lào và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. Hai Đảng, <br />
hai Nhà nước Việt Nam Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết tâm tăng cường <br />
quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm <br />
vụ cách mạng ở mỗi nước, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị láng giềng gắn bó <br />
keo sơn này.<br />
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng mối quan hệ đoàn kết, hữu <br />
nghị giữa ba nước Đông Dương, đặc biệt là quan hệ hữu nghị Việt – Lào, Lào – <br />
Việt coi đây là tài sản vô giá của hai Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước.<br />
Dày công xây dựng và vun đắp, mối quan hệ hữu nghị đặc biệt này ngày <br />
càng được củng cố và phát triển trong triến trình đấu tranh cách mạng và xây <br />
dựng đất nước: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, <br />
cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào <br />
nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em. Trải qua nhiều năm đấu tranh gian khổ và <br />
anh dũng, nhân dân hai nước chúng ta đã giành được độc lập, đã làm chủ đất <br />
nước của mình. Ngày nay chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc <br />
sống mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt Lào thật là thắm thiết không bao <br />
giờ phai nhạt được”.<br />
Thấu hiểu sâu sắc rằng, có vị thế địa chính trị quan trọng ở Đông Dương; <br />
đều bị thực dân Pháp thống trị, áp bức và đế quốc Mỹ xâm lược, ba dân tộc <br />
Đông Dương, trong đó Việt Nam và Lào muốn giành được độc lập, tự do và xây <br />
dựng, phát triển đất nước ắt không thể không đoàn kết, cùng đấu tranh chống <br />
kẻ thù. Vì vậy, ngay từ khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ <br />
nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị để xây dựng một chính Đảng cách <br />
mạng chân chính, một đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn nêu cao đạo đức cách <br />
mạng, xứng đáng với vai trò tiền phong để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành <br />
độc lập dân tộc.<br />
Bằng niềm tin, sự quan tâm và những hành động cụ thể, trong những năm <br />
sau đó, Hồ Chí Minh đã cùng Hoàng thân và các vị lãnh đạo của nhân dân Lào <br />
như Cayxỏn Phômvihản, Khămtày Xiphănđon… hết lòng chăm chăm lo, <br />
xây dựng tình đoàn kết hữu nghị, đặc biệt giữa Việt Nam và Lào. Cùng kiên <br />
cường, sát cánh bên nhau chống kẻ thù chung, một nước Lào “ cách mạng”, <br />
“láng giềng”, “thân thiết” – một trong ba chân kiềng của mối liên minh chiến <br />
lược đoàn kết Việt – Miên Lào từ đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các <br />
đồng chí lãnh tụ của nhân dân các bộ tộc Lào đặc biệt quan tâm trong cuộc đấu <br />
tranh chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và xây dựng đất nước.<br />
Mừng ngày thành lập Chính phủ Lào độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng <br />
định với Hoàng thân Xuphanuvông: “Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Chính <br />
phủ Pathét Lào, tôi trân trọng chúc Ngài và chúc nhân dân Lào đạt được nhiều <br />
thành công lớn lao trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và bọn can thiệp <br />
Mỹ. Tôi xin thay mặt nhân dân Việt Nam tỏ tình đoàn kết với nhân dân Lào; tình <br />
đoàn kết thân ái đó sẽ mỗi ngày một tăng cường trong cuộc đấu tranh chống kẻ <br />
thù chung và là điều kiện căn bản cho cuộc thắng lợi chắc chắn của chúng ta”.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Ảnh tư liệu: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xuphanuvông tại <br />
chiến khu Việt Bắc năm 1951.<br />
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, <br />
Hoàng thân, đồng chí Cayxỏn Phômvihản và các vị lãnh tụ của cách mạng Lào <br />
đã nhiều lần sang Việt Nam gặp và làm việc cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên <br />
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia, lãnh thổ, hết sức giúp đỡ <br />
nhau về mọi mặt để đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương <br />
nói chung và hai nước Việt Nam – Lào nói riêng đi đến thắng lợi hoàn toàn, công <br />
việc chuẩn bị cho sự ra đời của Mặt trận liên minh đoàn kết Việt – Miên Lào <br />
đã được xúc tiến.<br />
Cùng hướng đến một mục tiêu xây dựng liên minh, đoàn kết trong cuộc <br />
chiến đấu chung của hai nước, để cùng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Đông <br />
Dương, Hoàng thân khẳng định nhiệm vụ cấp bách đoàn kết toàn thể nhân dân <br />
Lào và đoàn kết nhân dân Việt – Khme – Lào là hai điều kiện không thể thiếu <br />
để giành thắng lợi hoàn toàn chống thực dân và đồng minh của chúng là đế quốc <br />
Mỹ xâm lược.<br />
Tháng 2 năm 1951, nhằm giải quyết những yêu cầu cách mạng trong tình <br />
hình mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương <br />
được tiến hành tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Trong <br />
số các đại biểu quốc tế, đoàn đại biểu Đảng bộ Lào do đồng chí Cayxỏn <br />
Phômvihản làm trưởng đoàn đã tham dự Đại hội.<br />
Tại Đại hội, Nghị quyết “Về Báo cáo chính trị của đồng chí Hồ Chí <br />
Minh” được thông qua, trong đó, nêu rõ: Vì điều kiện mới của Đông Dương và <br />
thế giới, ở Việt Nam đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao <br />
động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) có Chính cương, Điều lệ <br />
thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Ở Cao Miên và Ai Lao, thành lập ở mỗi <br />
nước một chính đảng riêng lấy tên là Đảng Nhân dân Khơme và Đảng Nhân <br />
dân Lào (nay là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào). Đảng Lao động Việt Nam có <br />
nghĩa vụ giúp đỡ các đồng chí và những tổ chức cách mạng Miên, Lào để lãnh <br />
đạo cuộc kháng chiến của hai dân tộc ấy giành lấy thắng lợi cuối cùng.<br />
Nội dung của Nghị quyết thể hiện rõ: Tính tất yếu phải thành lập ở mỗi <br />
nước một chính đảng có tính chất nhân dân, gồm những người yêu nước tiến <br />
bộ nhất, hăng hái chiến đấu nhất trong hàng ngũ những người kháng chiến ở <br />
Lào, Miên để lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở mỗi nước, phù <br />
hợp với tình hình của hai nước và tình hình trên thế giới. Việc tổ chức chính <br />
đảng của Lào và Miên do các đồng chí người Lào, Miên thực hiện với sự giúp <br />
đỡ của Đảng Lao động Việt Nam, mà trực tiếp là các đảng viên hoạt động ở <br />
Miên, Lào…<br />
Từ khi mỗi nước có một Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng, trên tinh <br />
thần đoàn kết, quốc tế vô sản thủy chung, trong sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh <br />
luôn đề ra những chủ trương và giải pháp cụ thể, chỉ đạo các cấp bộ Đảng hoạt <br />
động, khẳng định vai trò lãnh đạo của mình tại mỗi nước; đồng thời tăng cường <br />
mối quan hệ mật thiết, nương tựa lẫn nhau của ba dân tộc Việt Nam – Lào – <br />
Campuchia trên nguyên tắc bình đẳng và tự quyết, cùng đấu tranh giành tự do, <br />
độc lập và góp phần gìn giữ hòa bình trên thế giới.<br />
Là kiến trúc sư vĩ đại của quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào và <br />
tình nghĩa giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, <br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng, đặc biệt của mối quan hệ <br />
hữu nghị ấy luôn được xây dựng, vun đắp trong tiến trình lịch sử và ngày càng <br />
được củng cố, phát huy.<br />
Nghĩa tình và son sắt, sự sát cánh và giúp đỡ lẫn nhau của hai Đảng, hai dân <br />
tộc Việt – Lào trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, giành độc lập tự do <br />
của các dân tộc Đông Dương và cùng nhau xây dựng hòa bình, tương lai hạnh <br />
phúc được Người nhấn mạnh: “Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với dân <br />
tộc anh em Miên, Lào thì sức mạnh đó đủ đánh tan thực dân Pháp và bọn can <br />
thiệp Mỹ” và “với sự đồng tâm nhất trí của ba dân tộc anh em, với sức đại đoàn <br />
kết của ba dân tộc anh em, chúng ta nhất định đánh tan lũ thực dân Pháp và bọn <br />
can thiệp Mỹ, chúng ta nhất định làm cho ba nước độc lập và thống nhất thật <br />
sự”.<br />
Khi nói về môi quan hê nghia tinh gi<br />
́ ̣ ̃ ̀ ữa hai Đảng, hai nước, hai dân tộc Việt <br />
Nam và Lào, Bác Hồ kính yêu của chúng ta – Ngươi đa day công vun đăp cho<br />
̀ ̃ ̀ ́ <br />
̣ ̣ ̣<br />
môi quan hê Viêt – Lao đã nhân manh, đo la môi “<br />
́ ̀ ́ ̣ ̣ ̣ ”. Va đung nh<br />
́ ̀ ́ quan hê đăc biêt ̀ ́ ư <br />
̣ ̉ ́<br />
vây, đê noi cho hêt vê môi “ ̣ ̣ ̣ ” ây cân phai ng<br />
́ ̀ ́ quan hê đăc biêt ́ ̀ ̉ ược dong lich s<br />
̀ ̣ ử, để <br />
̣<br />
lich s ử chưng minh cai nghia, cai tinh va tâm long thuy chung, son săt, sat canh<br />
́ ́ ̃ ́ ̀ ̀ ́ ̀ ̉ ́ ́ ́ <br />
̉ ̉ ̣ ̣ ̀ ̣ ́ ́ ̉<br />
bên nhau cua hai Đang, hai dân tôc Viêt – Lao trong cuôc đâu tranh chông ke thu ̀ <br />
̣ ̣ ̣<br />
chung, gianh đôc lâp cho dân tôc va cung nhau xây d<br />
̀ ̀ ̀ ựng hoa binh, h<br />
̀ ̀ ương t<br />
́ ơí <br />
tương lai hanh phuc.<br />
̣ ́<br />
̀ ̉ ̉ ̣ ệt – Lào xuât phat t<br />
Nên tang cua quan hê Vi ́ ́ ừ quan hê truy<br />
̣ ền thống lâu đời <br />
giưa hai n<br />
̃ ước láng giềng gần gũi, cùng chung sống trên bán đảo Đông Dương. <br />
̣ ́ ở nên “đăc biêt” t<br />
Môi quan hê truyên thông ây tr<br />
́ ̀ ́ ̣ ̣ ừ khi Đảng Cộng sản Đông <br />
Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện (sau này là Đảng Cộng <br />
sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào) trở thành lực lượng lãnh đạo <br />
cách mạng của hai dân tộc Việt Nam và Lào, cung sát cánh bên nhau chi<br />
̀ ến đấu <br />
chống kẻ thù chung, xây đắp nên tình đoàn kết keo sơn, thuỷ chung, son sắt Việt <br />
– Lao.<br />
̀<br />
Trong nhưng năm đâu thanh lâp Đang va trong suôt cu<br />
̃ ̀ ̀ ̣ ̉ ̀ ́ ộc đấu tranh giải <br />
phóng dân tộc cua cach mang hai n<br />
̉ ́ ̣ ươc Vi<br />
́ ệt – Lào, Chu tich Hô Chi Minh luôn<br />
̉ ̣ ̀ ́ <br />
̣ ̣ ̀ vừa là nghĩa vụ quốc tế, vừa là lợi ích sống <br />
coi môi quan hê đoan kêt Viêt – Lao<br />
́ ̀ ́<br />
còn của mỗi nước. Tai H<br />
̣ ội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930, Chu tich Hô Chi<br />
̉ ̣ ̀ ́ <br />
̀ ảng Cộng sản Đông Dương đã xác định đường lối cách mạng của ba <br />
Minh va Đ<br />
nước Đông Dương va khăng đinh: Ba n<br />
̀ ̉ ̣ ước Đông Dương cần phai đoàn k<br />
̉ ết <br />
chống ách thống trị của bọn thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc… Sau Hội <br />
nghị, thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số đảng viên <br />
của Đảng từ Việt Nam và Thái Lan đã sang hoạt động xây dựng cơ sở cách <br />
mạng ở Lào, cac Chi b<br />
́ ộ cộng sản sau đo đã đ<br />
́ ược thành lập ở Xavanakhet, <br />
Thakhek va Viêng Chăn. Tháng 9 năm 1934, Đ<br />
̀ ảng bộ Đảng Cộng sản Đông <br />
Dương đã được thành lập tại Lào, chịu trách nhiệm lãnh đạo phong trào cách <br />
mạng Lào. Kê t<br />
̉ ừ đo, cu<br />
́ ộc đấu tranh cách mạng của nhân dân hai nước ngày <br />
càng phát triển trong tình đoàn kết chiến đấu, tạo nên sức mạnh chung để cùng <br />
tiến hành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám (Cach mang Lào cũng đông th<br />
́ ̣ ̀ ời <br />
thắng lợi vao tháng 8 năm 1945), giành đ<br />
̀ ộc lập cho nhân dân.<br />
̉ ̣ ̉ ̣ ̣<br />
Hiêu ro vê tâm quan trong cua môi quan hê Viêt – Lao trong s<br />
̃ ̀ ̀ ́ ̀ ự nghiệp cách <br />
mạng của hai nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn: “Cách mạng <br />
Lào không thể thiếu sự giúp đỡ của cách mạng Việt Nam và cách mạng Việt <br />
Nam cũng không thể thiếu sự giúp đỡ của cách mạng Lào” va “<br />
̀ Ta phải nhận <br />
thưc rõ r<br />
́ ằng, hai dân tộc anh em Miên, Lào được giải phóng, thì nước ta mới <br />
được giải phóng thực sự và hoàn toàn”. Đê t ́ ới tinh thần “giúp bạn là tự <br />
̉ ừ đo, v<br />
giúp mình”, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã cử hàng chục vạn con <br />
em yêu quý của mình sang công tác và phối hợp với quân và dân Lào chiến đấu <br />
tại các chiến trường của Lào, máu của biết bao anh hùng, liệt sỹ Việt Nam hòa <br />
quyện với máu của quân và dân Lào để đem lại thắng lợi vẻ vang cho hai dân <br />
tộc. Cũng với tình cảm đặc biệt ây, Đ<br />
́ ảng, Chính phủ và nhân dân Lào đã dành <br />
phần đất của mình cho Viêt Nam m<br />
̣ ở tuyên đ<br />
́ ường vân tai chiên l<br />
̣ ̉ ́ ược cho chiên<br />
́ <br />
trương miên Nam (Đ<br />
̀ ̀ ường Hồ Chí Minh) va v<br />
̀ ới ý chí “ xẻ dọc Trường Sơn đi <br />
cứu nước”, lơp l<br />
́ ơp cac đoan quân lên đ<br />
́ ́ ̀ ường ra trận cùng nhân dân chiến đấu <br />
́ ợi cuôi cung băng chiên dich Hô Chi Minh lich s<br />
đên thăng l<br />
́ ́ ̀ ̀ ́ ̣ ̀ ́ ̣ ử mua Xuân 1975, giai<br />
̀ ̉ <br />
phong miên Nam th<br />
́ ̀ ống nhất đất nước. Khi nhân đinh vê y nghia thăng l<br />
̣ ̣ ̀ ́ ̃ ́ ợi cuả <br />
̣ ̣<br />
cach mang Viêt Nam năm 1975, đông chi Cayx<br />
́ ̀ ́ ỏn Phômvihản, Tông Bi th<br />
̉ ́ ư <br />
̉ ̣<br />
Đang Nhân dân cach mang Lao kh<br />
́ ̀ ẳng định “Do mối quan hệ khăng khít giữa <br />
cách mạng ba nước Lào, Việt Nam, Cămpuchia và với tính chất Đông Dương <br />
là một chiến trường, thời cơ khách quan do thắng lợi hoàn toàn của nhân dân <br />
hai nước anh em đem lại, nhất là của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa cực kỳ <br />
quan trọng đối với cách mạng nước ta (Lào)”. Điều thần kỳ lịch sử đó con ph<br />
̀ ải <br />
kể đến một trong những nguyên nhân cơ bản là hai Đảng đã lãnh đạo nhân dân <br />
hai nước luôn trân trong va biêt phát huy m<br />
̣ ̀ ́ ối quan hệ đặc biệt Việt – Lào.<br />
Thực tế lịch sử cho thấy, quan hệ đặc biệt Việt – Lào là kết quả của việc <br />
vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào hoàn <br />
cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam và Lào, là sản phẩm của việc kết hợp <br />
đúng đắn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong khi giải quyết <br />
đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, đề cao <br />
tình đoàn kết, sự ủng hộ và tương trợ lẫn nhau giữa các dân tộc bị áp bức trong <br />
cuộc đâu tranh gianh đôc lâp dân tôc, Chu tich Hô Chi Minh luôn coi tr<br />
́ ̀ ̣ ̣ ̣ ̉ ̣ ̀ ́ ọng quyền <br />
dân tộc tự quyết cũng như tính độc lập, tự chủ cách mạng của mỗi nước. Theo <br />
Người “kháng chiến Việt – Miên – Lào là chung của chúng ta, là bổn phận của <br />
chúng ta. Việt Nam kháng chiến có thành công thì kháng chiến Miên, Lào mới <br />
thắng lợi và kháng chiến Miên, Lào có thắng lợi thì kháng chiến Việt Nam mới <br />
hoàn toàn thắng lợi”. Người khẳng định “Chính phủ, mặt trận và nhân dân Việt <br />
Nam ra sức hết lòng, thành thực giúp đỡ mặt trận nhân dân Lào, Miên một cách <br />
không có điều kiện”; “Mà giúp nước bạn tức là tự giúp mình” nên “phải ra sức <br />
giúp đỡ một cách tích cực, thiết thực hơn”. Trong quá trình giúp cách mạng Lào, <br />
Người chỉ rõ, khi giúp bạn, phải nắm vững nguyên tắc dân tộc tự quyết. Việc gì <br />
cũng phải đựơc Đảng và nhân dân Lào đồng ý rồi mới làm. Bởi vì, người làm <br />
nên lịch sử Lào không ai khác chính là nhân dân Lào, cách mạng Lào phải do <br />
nhân dân Lào tự làm lấy, sự nghiệp cách mạng Lào phải do Đảng Nhân dân cách <br />
mạng Lào lãnh đạo. Tại Hội nghị Trung ương III (khóa II), Hồ Chủ tịch nêu rõ: <br />
“cho đến nay chúng ta phải cố gắng giúp đỡ hơn nữa” và cũng từ đó, nhiệm vụ <br />
giúp đỡ cách mạng Lào ngày càng được tăng cường, quan hệ đoàn kết Việt – <br />
Lào càng thêm gắn bó, mật thiết.<br />
Theo thơi gian, m<br />
̀ ối “quan hệ đặc biệt” Việt – Lào được Chủ tịch Hồ Chí <br />
Minh xây dựng va day công vun đ<br />
̀ ̀ ắp ngày càng được tăng cương và phat triên,<br />
̀ ́ ̉ <br />
trở thành động lực thúc đẩy quan hệ hợp tác toan diên gi<br />
̀ ̣ ữa hai nước. Đăc biêt t<br />
̣ ̣ ừ <br />
khi hai nước thực hiện công cuộc đổi mới vơi nhi<br />
́ ều khó khăn và thách thức, <br />
nhưng với truyền thống tốt đẹp của mối “quan hệ đặc biệt” và dưới sự lãnh <br />
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam va Đ<br />
̀ ảng Nhân dân cách mạng Lào, quan hệ <br />
giữa hai nước ngày càng được tăng cường, mở rộng và giành được những thắng <br />
lợi to lớn. Đo cung la thanh qua đ<br />
́ ̃ ̀ ̀ ̉ ược kêt tinh t<br />
́ ừ lich s<br />
̣ ử, từ sứ mênh ma hai<br />
̣ ̀ <br />
̉ ̣<br />
Đang, hai dân tôc đa chung s<br />
̃ ức, chung long, chung vai ganh vac qua nh<br />
̀ ́ ́ ưng chăng<br />
̃ ̣ <br />
đương đây kho khăn, gian khô cua cuôc đâu tranh gianh đôc lâp va giai phong đât<br />
̀ ̀ ́ ̉ ̉ ̣ ́ ̀ ̣ ̣ ̀ ̉ ́ ́ <br />
nươc.<br />
́<br />
Những năm làm phóng viên thường trú tại Thủ đô Viêng Chăn, tôi có nhiều <br />
dịp gặp nhà văn lão thành Lào Xuvănthon Buphanuvông. Ông kể cho tôi nghe <br />
chuyện Bác Hồ đến thăm lớp học chính trị của Lào sơ tán tại Phu La, Tuyên <br />
Quang sau sự kiện thành lập Neo Lào Ítxala và Chính phủ kháng chiến của Pa<br />
thét Lào năm 1950. Sau khi hỏi thăm sức khỏe, tình hình học tập của mọi người, <br />
Bác Hồ nói: “Tôi biết tiếng Thái và tiếng Lào, nhưng lâu rồi không nói. Tôi cũng <br />
đã từng nhiều lần ngủ qua đêm ở chùa Inpông, thủ đô Viêng Chăn …”. Trong <br />
cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ từng bôn ba đến rất nhiều nước trên <br />
thế giới, nhưng trước đó tôi chưa một lần nghe nói Bác đã hoạt động ở Lào.<br />
Tôi trao đổi câu chuyện của nhà văn Xuvănthon với ông Xixanạ Xixán, <br />
một lão thành cách mạng, tác giả của Quốc ca Lào, người có nhiều năm gần gũi <br />
với Chủ tịch Xuphanuvông và Tổng bí thư Cayxỏn Phômvihản. Ông cho <br />
biết: Những năm đồng chí Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Thái Lan, Người đã <br />
nhiều lần triệu tập các đồng chí Lào ở Viêng Chăn tới Noỏng Khai (Thái Lan) <br />
để nghe báo cáo tình hình ở Lào. Người đã chỉ đạo các đồng chí Lào đẩy mạnh <br />
tuyên truyền, giác ngộ nhân dân về tinh thần yêu nước và xây dựng cơ sở. <br />
Người đã từ Thái Lan sang Pắc Xế, rồi lên Xavẳnnakhệt, đến Xiềng Vang, <br />
phía nam thị xã Thà Khẹt, tỉnh Khăm Muộn để trực tiếp tìm hiểu thực tế tình <br />
hình đời sống nhân dân Lào.<br />
Đọc hai tác phẩm Cayxỏn Phômvihản Tiểu sử và sự nghiệp và Hồ Chí <br />
Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài của PGS, TS Đức Vượng, nguyên <br />
Chánh Văn phòng Hội đồng lý luận Trung ương, hiện là Viện trưởng Viện khoa <br />
học nghiên cứu nhân tài, nhân lực, có nhiều chi tiết giúp tôi sáng tỏ điều ấp ủ <br />
tìm hiểu trong nhiều năm qua. Ngày 25 tháng 4 năm 1928, Ban chấp hành Quốc <br />
tế Cộng sản mới có quyết định