intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài dự thi: Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017 - Lê Huy Cường

Chia sẻ: Đào Đức Mạnh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

68
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài dự thi "Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017" do Lê Huy Cường trình bày một số vấn đề để góp phần lý giải nguyên nhân, cơ sở hai dân tộc Việt Nam - Lào cần phải luôn yêu thương gắn bó chặt chẽ với nhau.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài dự thi: Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017 - Lê Huy Cường

BÀI DỰ THI<br /> TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT<br /> VIỆT NAM ­ LÀO, LÀO ­ VIỆT NAM NĂM 2017<br /> Người tham gia: <br /> Họ và tên: Lê Huy Cường Đơn   vị:  Chi   đoàn  Công   an,   Đoàn <br /> Ngày sinh: 1989 phường   Phước   Long,   Nha   Trang, <br /> Giới tính: Nam Khánh Hoà<br /> Nghề nghiệp: Công an Nơi thường trú: <br /> Dân tộc: Kinh Số điện thoại: 0914.166.177<br /> Tôn giáo: không<br /> NỘI DUNG BÀI DỰ THI<br /> Trong khuôn khổ bài dự thi, tôi xin trình bày một số vấn đề để góp phần lý <br /> giải nguyên nhân, cơ  sở  hai dân tộc Việt Nam ­ Lào cần phải luôn yêu thương  <br /> gắn bó chặt chẽ với nhau<br /> Trước hết, xin giới thiệu một chút về  nước Lào anh em. Lào có diện tích <br /> 236.800 km2, dân số ước lượng năm 2015 là 6.803.699 người. Quốc gia Lào hiện <br /> tại có nguồn gốc lịch sử và văn hoá từ Vương quốc  Lan Xang tồn tại trong bốn <br /> thế kỷ, là một vương quốc có diện tích lớn tại Đông Nam Á. Sau một giai đoạn <br /> xung đột nội bộ, Lan Xang phân chia thành ba vươcg quốc riêng biệt: Luông <br /> Pha­bang, Viên­chăn và Chăm­pa­sắk. Năm 1893, ba vương quốc hợp thành một <br /> lãnh thổ bảo hộ thuộc Pháp, tiền thân của quốc gia Lào hiện nay.<br /> Là hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và <br /> Lào đã chung tay viết nên những trang sử  hào hùng của hai dân tộc. Tình hữu <br /> nghị, đoàn kết giữa hai Đảng, hai nước Việt ­ Lào và sự  gắn bó keo sơn giữa  <br /> dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ  tộc Lào được Chủ  tịch Hồ  Chí Minh và  <br /> Chủ tịch Cay­xỏn Phôm­vi­hản trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế  hệ <br /> lãnh đạo kế  tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, <br /> nâng niu và dày công vun đắp.<br /> Sau khi Việt Nam hoàn thành sự  nghiệp thống nhất  đất nước và nước <br /> Cộng hòa Dân chủ  Nhân dân Lào ra đời vào năm 1975, quan hệ  Việt ­ Lào đã <br /> chuyển sang giai đoạn mới. Đó là mối quan hệ  hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và <br /> hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và hai Nhà nước mà bằng chứng sinh động là <br /> Hiệp  ước Hữu nghị  và Hợp tác Việt Nam ­ Lào được ký ngày 18 tháng 7 năm <br /> 1977.<br /> Hai nước Việt Nam ­ Lào có lịch sử gắn bó rất lâu đời với nhau trong suốt  <br /> chiều dài dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc. Trong chiều dài lịch sử ấy, <br /> nhân dân hai nước đã “chung lưng đấu cật” để  xây dựng mỗi nước phát triển. <br /> Là hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về  văn hóa, Việt Nam và Lào <br /> đã chung tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Mối quan hệ hữu  <br /> nghị truyền thống lâu đời Việt Nam ­ Lào bắt nguồn từ tình cảm láng giềng thân  <br /> thiết, sự gắn bó keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ  tộc Lào đã <br /> trải qua muôn vàn thử thách, được nhiều thế hệ lãnh đạo hai Đảng và nhân dân <br /> hai nước, đặc biệt là Chủ  tịch Hồ  Chí Minh vĩ đại và Chủ  tịch Cay­xỏn Phôm­<br /> vi­hản kính mến trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục  <br /> của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày công  <br /> vun đắp, không ngừng phát triển và trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy chung,  <br /> trong sáng và là mẫu mực hiếm có trong quan hệ quốc tế hiện nay.<br /> Chủ  tịch Hồ  Chí Minh từng nói: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau  <br /> trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc  <br /> chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau... Tình nghĩa láng giềng anh  <br /> em Việt ­ Lào thật là thắm thiết không bao giờ  phai nhạt được”. Chủ  tịch Cay­<br /> xỏn Phôm­vi­hản cũng nói: “Núi có thể  mòn, sông có thể  cạn, song tình nghĩa  <br /> Lào ­ Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”. Tư tưởng lớn của hai nhà <br /> lãnh đạo đã trở thành kim chỉ nam soi đường, chỉ lối, được Đảng, Chính phủ và <br /> nhân dân hai nước thực hiện nhất quán trong suốt những năm tháng chiến đấu <br /> chống kẻ  thù chung, giành độc lập, thống nhất đất nước đến hòa bình, xây <br /> dựng, đổi mới, hội nhập và phát triển.<br /> Đặc biệt, trong nhiều giai đoạn lịch sử, hai dân tộc Việt Nam ­ Lào đều có  <br /> chung một kẻ  thù xâm lược. Vị  trí địa lý và lịch sử  đấu tranh dựng nước, giữ <br /> nước của mỗi dân tộc đã gắn kết hai nước trở nên gần gũi, thân thiện. Theo đó, <br /> quá trình chiến đấu của mỗi nước phải dựa vào nhau để  chống kẻ  thù chung,  <br /> bảo vệ dân tộc, bảo vệ đất nước. Vì vậy, quân và dân hai nước Việt Nam­ Lào <br /> luôn sát cánh bên nhau chống lại kẻ thù chung vì độc lập của mỗi nước, vì hạnh <br /> phúc của nhân dân và mỗi dân tộc. <br /> Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, hai nước Việt Nam ­ Lào <br /> cùng tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, sát cánh bên nhau, xây đắp quan hệ <br /> đoàn kết đặc biệt Việt Nam ­ Lào cao đẹp, mẫu mực, thủy chung, hiếm có trong  <br /> lịch sử quan hệ quốc tế. Truyền thống quan hệ h ữu nghị, đoàn kết vĩ đại và sự <br /> hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào ­ Việt <br /> Nam mà Chủ  tịch Hồ  Chí Minh vĩ đại và Chủ  tịch Cay­xỏn Phôm­vi­hản kính <br /> yêu đã sáng lập, gìn giữ và được kế tục, phát triển bởi các thế hệ lãnh đạo, các  <br /> chiến sỹ  cách mạng và nhân dân hai nước Lào ­ Việt Nam. Trong suốt nhiều  <br /> thập kỷ qua, hai nước đã cùng nhau lập những chiến công hiển hách, giành độc  <br /> lập dân tộc cho cả hai dân tộc; Mọi thắng lợi của Cách mạng Lào đều gắn chặt  <br /> với sự giúp đỡ, ủng hộ mạnh mẽ, hy sinh to lớn của nhân dân Việt Nam anh em <br /> với tinh thần đồng chí chung một chiến hào, “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ  <br /> nửa” cùng đồng cam cộng khổ, từng bước đi tới thắng lợi cuối cùng, chiến <br /> thắng đế  quốc xâm lược và phát triển đất nước theo con đường chủ  nghĩa xã <br /> hội. Vì vậy, mối quan hệ  đó trở thành di sản quý giá, thành quy luật tồn tại và  <br /> phát triển của hai nước và cũng là mối quan hệ thủy chung, trong sáng, đặc biệt  <br /> và hiếm có trong quan hệ quốc tế. <br /> Sau ngày Việt Nam hoàn thành sự  nghiệp thống nhất đất nước và nước <br /> Cộng hòa Dân chủ  Nhân dân Lào ra đời vào năm 1975, quan hệ  Việt ­ Lào đã <br /> chuyển sang giai đoạn mới. Đó là mối quan hệ  hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và <br /> hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và hai Nhà nước theo Hiệp  ước Hữu nghị  và  <br /> Hợp tác Việt Nam ­ Lào được ký ngày 18/7/1977. Hiệp ước đã tạo khung pháp lý <br /> thúc đẩy quan hệ  hợp tác toàn diện. Hàng loạt các văn bản, hiệp định hợp tác <br /> được ký kết, tạo ra những bước chuyển to lớn về chất trong quan hệ đặc biệt  <br /> giữa hai Chính phủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, an ninh,  <br /> quốc phòng, giáo dục, y tế, văn hóa,... Sự  hợp tác chặt chẽ  giữa hai Chính phủ <br /> đã tạo ra mối liên kết gắn bó hữu cơ, bổ trợ lẫn nhau và tạo môi trường thuận  <br /> lợi đối với sự nghiệp phát triển của cả Việt Nam và Lào.<br /> Bước vào thời kỳ  đổi mới với muôn vàn khó khăn, Chính phủ  hai nước <br /> phải đổi mới cả  về  nội dung, phương thức và cơ  chế  hợp tác để  giữ  vững và <br /> phát huy hiệu quả quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện, đặc biệt Việt Nam ­ <br /> Lào.<br /> Chiến lược hợp tác toàn diện Việt Nam ­ Lào, Lào ­ Việt Nam trong thời <br /> gian tới (2011 ­ 2015 và tầm nhìn đến 2020) được xây dựng và thực hiện trong <br /> bối cảnh quốc tế, khu vực và ở từng nước có những thuận lợi và khó khăn đan <br /> xen cùng những chuyển biến rất mau lẹ, tác động trực tiếp đến quan hệ hợp tác <br /> toàn diện giữa hai nước.<br /> Bối cảnh quốc tế và khu vực có những thuận lợi và khó khăn, nhiều cơ hội <br /> đang mở  ra cho quan hệ  hợp tác giữa hai nước, đồng thời cũng đang phải đối <br /> mặt với những thách thức rất lớn. Các nước lớn và các nước phát triển tăng  <br /> cường hợp tác với ASEAN và các tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) trong bối  <br /> cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra với tốc độ nhanh và ngày <br /> càng sâu sắc.<br /> Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là đang là xu thế phổ <br /> biến hiện nay và trụ lực chính của tiến trình này là tự do hoá thương mại. Khu  <br /> vực Đông Nam Á nói chung và tiểu vùng Mê Công nói riêng đang gia tăng mạnh  <br /> mẽ  các lộ  trình họi nhập trên nhiều cấp độ. Với vị  trí quan trọng của khu vực  <br /> Châu Á­ Thái Bình dương,, các nước lớn và phát triển ngày càng quan tâm và <br /> tăng cường mở rộng quan hệ, đặc biệt là hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư <br /> vào khu vực này, góp phần tạo nên diện mạo mới cho khu vực. Đây là điều kiện  <br /> thuận lợi cho sự phát triển của mỗi nước GMS, trong đó có Việt Nam và Lào. <br /> Tuy nhiên đây cũng sẽ  là tâm điểm của sự  tranh giành quyền lực và  ảnh <br /> hưởng của các nước lớn và các nền kinh tế  phát triển, tác động tiêu cực đén <br /> ASEAN và GMS, trong đó có Việt Nam và Lào. Mặt khác, vượt ra ngoài những <br /> nội dung hội nhập kinh tế, các vấn đề  về  chính trị và an ninh nãy sinh trong sự <br /> tương tácvề  quan hệ  lợi ích chiến lược giữa các nước lớn với nhau và những  <br /> tham vọng và các nước này đối với khu vực, rất có thể đẩy các nước trong khu  <br /> vực tới những bất ổn khó lường.<br /> Mặt khác, hợp tác giữa các nước Tiểu vùng Mê Công mở rộng(GMS) diễn  <br /> ra mạnh mẽ và ngày càng có hiệu quả. Công cuộc đổi mới đất nước Việt Nam  <br /> và Lào với tốc độ phát triển ngày càng nhanh và bền vững, cùng những kết quả <br /> hợp tác đạt được giữa Việt Nam và Lào đòi hỏi phải tăng cường toàn diện trong  <br /> giai đoạn mới. Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam và Lào phải có sự phối hợp  <br /> nhịp nhàng, đổi mới quan hệ hợp tác toàn diện phù hợp với bối cảnh mới.<br /> Việt Nam và Lào sống bên nhau tại hai triền Đông và Tây Trường Sơn  <br /> hùng vĩ, rất thuận lợi cho sự  phát triển phong phú của động vật, thực vật lại <br /> được bổ  sung bởi nhiều hang động, rừng nguyên sinh kỳ  thú, thuận lợi cho du <br /> lịch. Nơi đây có nhiều sông suối chảy dốc từ núi cao đổ xuống, tạo lợi thế cho  <br /> khai thác thủy điện.<br /> Trường sơn còn là một tường thành vững chắc cho quân dân hai nước  <br /> nương tựa nhau chống giặc ngoại xâm.<br /> Về kinh tế, hai nước có thể bổ sung cho nhau thế lợi về biển cả của Việt  <br /> Nam, đường bộ  của Lào đi sâu vào lục địa châu Á, cùng các nguồn tài nguyên <br /> phong phú do mỗi nước quản lý.<br /> Ngoài những điều kiện trên, hai nước Việt Nam, Lào có một  ưu thế  nổi  <br /> trội vô cùng quý giá là quan hệ đặc biệt Việt Nam ­ Lào, Lào ­ Việt Nam mà hai <br /> Đảng, hai dân tộc cần luôn luôn vun đắp, bảo vệ  và phát huy trong mọi hoạt <br /> động chính trị, tư tưởng, kinh tế, quốc phòng an ninh, ngoại giao, văn hoá, giáo <br /> dục đào tạo nhân lực, nhân tài.<br /> Tình đoàn kết đặc biệt giữa hai nước đã góp phần quan trọng vào việc <br /> củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa  <br /> Việt Nam và Lào trong thời kỳ  mới. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo hai <br /> nước, hai bên luôn khẳng định quan điểm nhất quán, tiếp tục coi trọng và dành <br /> mọi  ưu tiên cho việc củng cố  và tăng cường quan hệ  hữu nghị  truyền thống,  <br /> đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam ­ Lào, coi đây là tài sản vô giá <br /> cần gìn giữ và truyền lại cho muôn đời con cháu mai sau, đòi hỏi hai nước Việt  <br /> Nam­ Lào phải yêu thương gắn bó chặt chẽ với nhau, giữ cho quan hệ đặc biệt  <br /> Việt –Lào đời đời keo sơn, bền vững.<br /> Trong quan hệ hữu nghị ở tầm quốc gia đó cùng với bề dày lịch sử, 20 tỉnh <br /> chung nhau dãy Trường Sơn là những người bạn thủy chung son sắt từ  trong  <br /> cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung cho đến nay. Phát huy tình đoàn kết trong <br /> sáng, thuỷ chung giữa 2 dân tộc trong kháng chiến chống kẻ thù chung, ngày nay  <br /> các địa phương, nhất là thành phố  kết nghĩa và địa phương biên giới đã có mối  <br /> quan hệ  hợp tác với hai tỉnh Xa­van­na­khẹt và Xa­la­văn trên nhiều lĩnh vực,  <br /> đạt được những thành quả quan trọng, vun đắp cho tình đoàn kết hữu nghị Việt <br /> – Lào ngày càng tốt đẹp và bền vững.<br /> Để  chứng minh cho những tình cảm son sắt, sâu đậm, thủy chung mà hai <br /> dân tộc dành cho nhau, tôi xin chia sẻ câu chuyện cảm động về  Bộ  đội Cụ  Hồ <br /> với 2 em bé Lào thay lời kêt cho bài dự thi này.<br /> Chuyện xảy ra vào cuối năm 1973, tại chiến trường Nam Lào ác liệt đầy <br /> máu lửa, nằm ngoài mọi dự kiến, mọi tình huống thường xảy ra ở chiến trường <br /> hồi đó.<br /> Cán bộ chiến sĩ Đội điều trị Binh trạm 37, thuộc Đoàn 559 bộ đội Trường  <br /> Sơn đang chuẩn bị  ăn cơm trưa thì nhận được một ca cấp cứu, do một bộ  đội <br /> Pha thét Lào cùng mấy người dân chuyển đến. Bệnh nhân là một sản phụ đang  <br /> tím tái và thoi thóp thở. Với lời khẩn cầu gấp gáp: “Các đồng chí bộ  đội Việt  <br /> Nam ơi, xin các đồng chí cứu vợ con tôi”.<br /> Bỏ bữa cơm, rất khẩn trương các bác sĩ, y tá vội vàng bắt tay vào việc cấp  <br /> cứu. Mặc dù đã hết sức cố gắng chạy chữa nhưng người mẹ đã không qua khỏi, <br /> vì chị đã bị kiệt sức, các bác sĩ chỉ  kịp phẫu thuật cứu được hai bé trai từ  trong <br /> bụng mẹ.<br /> Anh bộ  đội Lào có tên là Bun­ma đau đớn, khóc ròng nói qua nước mắt:  <br /> “Cám ơn các đồng chí bộ đội Việt Nam đã rất nhiệt tình giúp đỡ, tuy không thể  <br /> cứu được mẹ, nhưng còn hai đứa bé, tuy cứu được nhưng bây giờ  biết nuôi  <br /> nấng chăm sóc làm sao đây, bố thì chinh chiến nay chiến trường này, mai chiến  <br /> trường khác, gia đình chẳng còn ai thân thích, nếu tôi đem các cháu về thì chúng  <br /> nó cũng chết mất thôi, trăm sự, vạn sự nhờ các đồng chí chăn sóc nuôi nấng hộ,  <br /> ơn này tôi không bao giờ quên”.<br /> Trước tình hình đó, ban chỉ  huy hội ý và điện báo cáo xin ý kiến cấp trên. <br /> Chỉ huy Đoàn điện xuống yêu cầu Binh trạm hãy nhận hai cháu bé và cử người <br /> chăm sóc các cháu thật chu đáo. Binh trạm đã phân công hai cô y tá giỏi trực tiếp  <br /> chăm sóc và nuôi dưỡng hai cháu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn của  <br /> chiến trường, nhưng các cháu đều được đơn vị dành cho những chế  độ  ưu tiên  <br /> đặc biệt với tinh thần cái gì tốt nhất đều dành cho các cháu.<br /> Với sự quan tâm chăm sóc tận tình của các y bác sĩ, của hai cô y tá và của  <br /> toàn đơn vị, ngày qua ngày các cháu đã cứng cáp hơn, nhìn các cháu ngoan, chúm <br /> chím cười, các cô chú trong binh trạm ai cũng như  nở  từng khúc ruột. Tên các <br /> cháu ban đầu được đặt là Ba và Bảy (Vì các cháu được sinh ra tại Binh trạm <br /> 37).<br /> Sau đó hai cháu được chuyển ra Viện 45, thuộc Đoàn 559 lại được đổi  <br /> thành Quang và Trung. Quang và Trung là tên của Đoàn vận tải Quang Trung, <br /> mật danh của Đoàn 559 hồi đó. Do khí hậu núi rừng ẩm thấp, các cháu hay ốm  <br /> đau, nhiều khi bị  bệnh mà thuốc tây chữa mãi không khỏi, phải tìm thuốc nam <br /> trong rừng chữa cho các cháu. Tuy vất vả gian khổ nhưng các cô, các chú trong  <br /> Viện 45 luôn dành cho các cháu tình thương yêu trìu mến nhất.<br /> Cô y tá Hoàng Thị  Cúc, quê Hoàng Hóa, Thanh Hóa được phân công chăm  <br /> sóc cháu Quang và cô Nguyễn Thị  Thập, quê Đan Phượng, Hà Tây chăm sóc <br /> cháu Trung. Cả hai cô tuy chưa có gia đình, chưa có kinh nghiệm chăm nuôi trẻ,  <br /> nhưng với tấm lòng của người phụ nữ Việt Nam, các cô đã là những người mẹ <br /> tuyệt vời và đã dành trọn tình thương yêu với hai cháu.<br /> Sau hơn một năm trời dằng dặc, các cháu đã chập chững tập bước những <br /> bước đi đầu tiên, nhìn các cháu tập đi, cả đơn vị đều vui mừng. Các bác, các cô,  <br /> các chú tranh nhau bồng bế  nâng niu, ai cũng xem các cháu như  là ruột thịt của  <br /> mình vậy, kể  cả  các thương bệnh binh mới vào điều trị  tại Binh trạm. Giữa <br /> rừng già Trường Sơn, trong khói lửa đạn bom được nghe tiếng trẻ  thơ  sao mà <br /> thân thương làm vậy. Các cháu đã trở  thành những đứa con cưng, là niềm vui <br /> chung của cả đơn vị.<br /> Nhưng đến đầu năm 1975, cục diện chiến trường thay đổi, Binh trạm 37 đã <br /> di chuyển vào sâu hơn, Viện 45 cũng di chuyển, bom đạn càng nhiều. Ta chuẩn  <br /> bị  mở  chiến dịch lớn, tình thế  khẩn trương không thể  cùng mang các cháu đi  <br /> theo được nữa.<br /> Trước tình hình đó Ban chỉ  huy Viện điện báo cáo cấp trên xin ý kiên chỉ <br /> đạo, cấp trên chỉ thị nếu tình huống khó khăn quá thì trả các cháu cho phía bạn.  <br /> Thời gian quá gấp, và điều quan trọng hơn các cháu còn quá bé, mới chưa đầy <br /> tuổi rưỡi, nếu chăm sóc không khéo thì có thể  nguy đến tính mạng các cháu, <br /> phải xa các cháu ai cũng thương xót, nhất là hai bà mẹ nuôi, các cô nghẹn ngào <br /> nói các cháu đã hai lần mất mẹ, bây giờ  lại mất mẹ  lần nữa, thương và tội <br /> nghiệp các cháu quá, trả về Lào rồi sau này làm sao tìm gặp lại được các cháu. <br /> Các cô và chỉ huy đơn vị đã đề nghị chuyển các cháu ra Bắc.<br /> Cấp trên nhất trí, nhưng vấn đề là ai bảo lãnh các cháu, ra Bắc rồi giao cho  <br /> ai. Sau một đêm suy nghĩ, Chính  ủy Đỗ  Thế  Nhung xin nhận cháu Quang làm <br /> con nuôi, và bàn với Chủ  nhiệm khoa Nội, bác sĩ Lâm Văn Chiến cũng nhận  <br /> cháu Trung làm con nuôi. Đồng chí Lâm Văn Chiến đồng ý. Chỉ  huy đơn vị <br /> mừng quá, liền điện báo cáo lên cấp trên, chỉ huy Binh đoàn phấn khởi cho phép  <br /> điều động ngay một xe ô tô chở hai ông bố nuôi, cùng hai cô y tá, một quân y sĩ <br /> đi kèm để  chăm sóc và giải quyết mọi tình huống bất trắc có thể  xẩy ra trên  <br /> suốt cả chặng đường dài ra Bắc.<br /> Sau mấy ngày đêm vật lộn trên các cung đường, đoàn hộ  tống cũng đã về <br /> được đến Ninh Bình và Thái Bình, quê hương của hai ông bố nuôi, làm mọi thủ <br /> tục giấy tờ, khai sinh lại cho các cháu, bàn giao với hai gia đình và chính quyền <br /> địa phương, để  lại một ít đường sữa, thuốc men cho các cháu. Sau mấy ngày <br /> thăm nhà, thăm người thân, đoàn cán bộ lại lên đường trở lại chiến trường tiếp  <br /> tục nhiệm vụ.<br /> Trong suốt quá trình 37 năm ấy, các cháu luôn được sống trong tình thương  <br /> yêu chăm sóc của các ông bố, các bà mẹ Việt Nam, sống trong tình thương yêu <br /> đùm bọc của các bác, các cô, các chú cựu chiến binh Binh trạm 37, cựu chiến  <br /> binh Viện 45, Đoàn vận tải Quang Trung ­ Binh đoàn Trường Sơn, của bà con  <br /> nhân dân, họ hàng làng xóm. Các cháu ngày một khôn lớn trưởng thành và luôn <br /> luôn tự hào về đất nước Việt Nam, tự hào về những người lính Cụ Hồ đã chăm <br /> sóc nuôi dạy các cháu, luôn tự răn mình sống sao cho xứng đáng với tình thương  <br /> yêu chăm sóc vô bờ ấy.<br /> Cách đây mấy năm, qua sự  chỉ  dẫn của bác Nguyễn Phương Thoan, Cựu <br /> chiến binh bộ đội Trường Sơn, là nhân chứng lịch sử quê ở Nghệ An, đài truyền  <br /> hình Việt Nam đã phối hợp với đài Truyền hình quốc gia Lào lập chương trình  <br /> cầu truyền hình trực tiếp về cuộc hội ngộ đầy cảm động giữa hai cháu, hai gia <br /> đình và các đồng đội, các nhân chứng lịch sử  của hai đất nước Việt Lào và đã  <br /> cho xe chở hai gia đình Quang và Trung cùng một số cựu chiến binh sang Lào để <br /> gặp lại gia đình và người thân của hai em mà các em chưa hề một lần biết mặt.<br /> Hai em bé Lào, cặp song sinh ngày  ấy giữa núi rừng Trường Sơn hùng vĩ <br /> nay đã là hai người đàn ông trưởng thành có vợ  và có con hiện đang sống tại <br /> Việt Nam, Tổ quốc thứ hai vô vàn yêu quý của các em. Người anh tên là Quang,  <br /> làm con nuôi của ông Đỗ Thế Nhung, cựu chiến binh, nguyên Chính ủy Viện 48, <br /> Binh đoàn Trường Sơn, quê  ở  Thái Bình. Người em tên là Trung, làm con nuôi <br /> của ông Lâm Văn Chiến, cựu chiến binh, nguyên Chủ  nghiệm khoa Nội, Viện  <br /> 48, Binh đoàn Trường Sơn, quê ở Ninh Bình.<br /> Câu chuyên cảm động trên là một trong rất nhiều câu chuyện cảm động về <br /> hình  ảnh anh Bộ  đội Cụ  Hồ, là hình  ảnh sinh động trong những hình  ảnh sinh <br /> động nhất về  tình đoàn kết chiến đấu Việt Lào, tình hữu nghị  thủy chung son <br /> sắt hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ  nửa cùng sát cánh bên nhau chiến đấu đánh <br /> đuổi kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho mỗi dân tộc trước đây cũng như mối  <br /> quan hệ gắn bó đặc biệt Việt Lào trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay.  <br /> Tình cảm thiêng liêng và tình hữu nghị keo sơn gắn bó ấy sẽ được giữ gìn, phát <br /> huy và nhân lên mãi mãi qua những việc làm tình nghĩa của các cấp  ủy đảng,  <br /> chính quyền, của cán bộ chiến sĩ và nhân dân hai nước.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0