BÀI DỰ THI<br />
TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT<br />
VIỆT NAM LÀO, LÀO VIỆT NAM NĂM 2017<br />
Người tham gia: <br />
Họ và tên: Lê Huy Cường Đơn vị: Chi đoàn Công an, Đoàn <br />
Ngày sinh: 1989 phường Phước Long, Nha Trang, <br />
Giới tính: Nam Khánh Hoà<br />
Nghề nghiệp: Công an Nơi thường trú: <br />
Dân tộc: Kinh Số điện thoại: 0914.166.177<br />
Tôn giáo: không<br />
NỘI DUNG BÀI DỰ THI<br />
Trong khuôn khổ bài dự thi, tôi xin trình bày một số vấn đề để góp phần lý <br />
giải nguyên nhân, cơ sở hai dân tộc Việt Nam Lào cần phải luôn yêu thương <br />
gắn bó chặt chẽ với nhau<br />
Trước hết, xin giới thiệu một chút về nước Lào anh em. Lào có diện tích <br />
236.800 km2, dân số ước lượng năm 2015 là 6.803.699 người. Quốc gia Lào hiện <br />
tại có nguồn gốc lịch sử và văn hoá từ Vương quốc Lan Xang tồn tại trong bốn <br />
thế kỷ, là một vương quốc có diện tích lớn tại Đông Nam Á. Sau một giai đoạn <br />
xung đột nội bộ, Lan Xang phân chia thành ba vươcg quốc riêng biệt: Luông <br />
Phabang, Viênchăn và Chămpasắk. Năm 1893, ba vương quốc hợp thành một <br />
lãnh thổ bảo hộ thuộc Pháp, tiền thân của quốc gia Lào hiện nay.<br />
Là hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và <br />
Lào đã chung tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Tình hữu <br />
nghị, đoàn kết giữa hai Đảng, hai nước Việt Lào và sự gắn bó keo sơn giữa <br />
dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và <br />
Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế hệ <br />
lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, <br />
nâng niu và dày công vun đắp.<br />
Sau khi Việt Nam hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước và nước <br />
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời vào năm 1975, quan hệ Việt Lào đã <br />
chuyển sang giai đoạn mới. Đó là mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và <br />
hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và hai Nhà nước mà bằng chứng sinh động là <br />
Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam Lào được ký ngày 18 tháng 7 năm <br />
1977.<br />
Hai nước Việt Nam Lào có lịch sử gắn bó rất lâu đời với nhau trong suốt <br />
chiều dài dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc. Trong chiều dài lịch sử ấy, <br />
nhân dân hai nước đã “chung lưng đấu cật” để xây dựng mỗi nước phát triển. <br />
Là hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và Lào <br />
đã chung tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Mối quan hệ hữu <br />
nghị truyền thống lâu đời Việt Nam Lào bắt nguồn từ tình cảm láng giềng thân <br />
thiết, sự gắn bó keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào đã <br />
trải qua muôn vàn thử thách, được nhiều thế hệ lãnh đạo hai Đảng và nhân dân <br />
hai nước, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phôm<br />
vihản kính mến trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục <br />
của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày công <br />
vun đắp, không ngừng phát triển và trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, <br />
trong sáng và là mẫu mực hiếm có trong quan hệ quốc tế hiện nay.<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau <br />
trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc <br />
chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau... Tình nghĩa láng giềng anh <br />
em Việt Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”. Chủ tịch Cay<br />
xỏn Phômvihản cũng nói: “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa <br />
Lào Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”. Tư tưởng lớn của hai nhà <br />
lãnh đạo đã trở thành kim chỉ nam soi đường, chỉ lối, được Đảng, Chính phủ và <br />
nhân dân hai nước thực hiện nhất quán trong suốt những năm tháng chiến đấu <br />
chống kẻ thù chung, giành độc lập, thống nhất đất nước đến hòa bình, xây <br />
dựng, đổi mới, hội nhập và phát triển.<br />
Đặc biệt, trong nhiều giai đoạn lịch sử, hai dân tộc Việt Nam Lào đều có <br />
chung một kẻ thù xâm lược. Vị trí địa lý và lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ <br />
nước của mỗi dân tộc đã gắn kết hai nước trở nên gần gũi, thân thiện. Theo đó, <br />
quá trình chiến đấu của mỗi nước phải dựa vào nhau để chống kẻ thù chung, <br />
bảo vệ dân tộc, bảo vệ đất nước. Vì vậy, quân và dân hai nước Việt Nam Lào <br />
luôn sát cánh bên nhau chống lại kẻ thù chung vì độc lập của mỗi nước, vì hạnh <br />
phúc của nhân dân và mỗi dân tộc. <br />
Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, hai nước Việt Nam Lào <br />
cùng tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, sát cánh bên nhau, xây đắp quan hệ <br />
đoàn kết đặc biệt Việt Nam Lào cao đẹp, mẫu mực, thủy chung, hiếm có trong <br />
lịch sử quan hệ quốc tế. Truyền thống quan hệ h ữu nghị, đoàn kết vĩ đại và sự <br />
hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào Việt <br />
Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản kính <br />
yêu đã sáng lập, gìn giữ và được kế tục, phát triển bởi các thế hệ lãnh đạo, các <br />
chiến sỹ cách mạng và nhân dân hai nước Lào Việt Nam. Trong suốt nhiều <br />
thập kỷ qua, hai nước đã cùng nhau lập những chiến công hiển hách, giành độc <br />
lập dân tộc cho cả hai dân tộc; Mọi thắng lợi của Cách mạng Lào đều gắn chặt <br />
với sự giúp đỡ, ủng hộ mạnh mẽ, hy sinh to lớn của nhân dân Việt Nam anh em <br />
với tinh thần đồng chí chung một chiến hào, “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ <br />
nửa” cùng đồng cam cộng khổ, từng bước đi tới thắng lợi cuối cùng, chiến <br />
thắng đế quốc xâm lược và phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã <br />
hội. Vì vậy, mối quan hệ đó trở thành di sản quý giá, thành quy luật tồn tại và <br />
phát triển của hai nước và cũng là mối quan hệ thủy chung, trong sáng, đặc biệt <br />
và hiếm có trong quan hệ quốc tế. <br />
Sau ngày Việt Nam hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước và nước <br />
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời vào năm 1975, quan hệ Việt Lào đã <br />
chuyển sang giai đoạn mới. Đó là mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và <br />
hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và hai Nhà nước theo Hiệp ước Hữu nghị và <br />
Hợp tác Việt Nam Lào được ký ngày 18/7/1977. Hiệp ước đã tạo khung pháp lý <br />
thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện. Hàng loạt các văn bản, hiệp định hợp tác <br />
được ký kết, tạo ra những bước chuyển to lớn về chất trong quan hệ đặc biệt <br />
giữa hai Chính phủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, an ninh, <br />
quốc phòng, giáo dục, y tế, văn hóa,... Sự hợp tác chặt chẽ giữa hai Chính phủ <br />
đã tạo ra mối liên kết gắn bó hữu cơ, bổ trợ lẫn nhau và tạo môi trường thuận <br />
lợi đối với sự nghiệp phát triển của cả Việt Nam và Lào.<br />
Bước vào thời kỳ đổi mới với muôn vàn khó khăn, Chính phủ hai nước <br />
phải đổi mới cả về nội dung, phương thức và cơ chế hợp tác để giữ vững và <br />
phát huy hiệu quả quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện, đặc biệt Việt Nam <br />
Lào.<br />
Chiến lược hợp tác toàn diện Việt Nam Lào, Lào Việt Nam trong thời <br />
gian tới (2011 2015 và tầm nhìn đến 2020) được xây dựng và thực hiện trong <br />
bối cảnh quốc tế, khu vực và ở từng nước có những thuận lợi và khó khăn đan <br />
xen cùng những chuyển biến rất mau lẹ, tác động trực tiếp đến quan hệ hợp tác <br />
toàn diện giữa hai nước.<br />
Bối cảnh quốc tế và khu vực có những thuận lợi và khó khăn, nhiều cơ hội <br />
đang mở ra cho quan hệ hợp tác giữa hai nước, đồng thời cũng đang phải đối <br />
mặt với những thách thức rất lớn. Các nước lớn và các nước phát triển tăng <br />
cường hợp tác với ASEAN và các tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) trong bối <br />
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra với tốc độ nhanh và ngày <br />
càng sâu sắc.<br />
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là đang là xu thế phổ <br />
biến hiện nay và trụ lực chính của tiến trình này là tự do hoá thương mại. Khu <br />
vực Đông Nam Á nói chung và tiểu vùng Mê Công nói riêng đang gia tăng mạnh <br />
mẽ các lộ trình họi nhập trên nhiều cấp độ. Với vị trí quan trọng của khu vực <br />
Châu Á Thái Bình dương,, các nước lớn và phát triển ngày càng quan tâm và <br />
tăng cường mở rộng quan hệ, đặc biệt là hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư <br />
vào khu vực này, góp phần tạo nên diện mạo mới cho khu vực. Đây là điều kiện <br />
thuận lợi cho sự phát triển của mỗi nước GMS, trong đó có Việt Nam và Lào. <br />
Tuy nhiên đây cũng sẽ là tâm điểm của sự tranh giành quyền lực và ảnh <br />
hưởng của các nước lớn và các nền kinh tế phát triển, tác động tiêu cực đén <br />
ASEAN và GMS, trong đó có Việt Nam và Lào. Mặt khác, vượt ra ngoài những <br />
nội dung hội nhập kinh tế, các vấn đề về chính trị và an ninh nãy sinh trong sự <br />
tương tácvề quan hệ lợi ích chiến lược giữa các nước lớn với nhau và những <br />
tham vọng và các nước này đối với khu vực, rất có thể đẩy các nước trong khu <br />
vực tới những bất ổn khó lường.<br />
Mặt khác, hợp tác giữa các nước Tiểu vùng Mê Công mở rộng(GMS) diễn <br />
ra mạnh mẽ và ngày càng có hiệu quả. Công cuộc đổi mới đất nước Việt Nam <br />
và Lào với tốc độ phát triển ngày càng nhanh và bền vững, cùng những kết quả <br />
hợp tác đạt được giữa Việt Nam và Lào đòi hỏi phải tăng cường toàn diện trong <br />
giai đoạn mới. Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam và Lào phải có sự phối hợp <br />
nhịp nhàng, đổi mới quan hệ hợp tác toàn diện phù hợp với bối cảnh mới.<br />
Việt Nam và Lào sống bên nhau tại hai triền Đông và Tây Trường Sơn <br />
hùng vĩ, rất thuận lợi cho sự phát triển phong phú của động vật, thực vật lại <br />
được bổ sung bởi nhiều hang động, rừng nguyên sinh kỳ thú, thuận lợi cho du <br />
lịch. Nơi đây có nhiều sông suối chảy dốc từ núi cao đổ xuống, tạo lợi thế cho <br />
khai thác thủy điện.<br />
Trường sơn còn là một tường thành vững chắc cho quân dân hai nước <br />
nương tựa nhau chống giặc ngoại xâm.<br />
Về kinh tế, hai nước có thể bổ sung cho nhau thế lợi về biển cả của Việt <br />
Nam, đường bộ của Lào đi sâu vào lục địa châu Á, cùng các nguồn tài nguyên <br />
phong phú do mỗi nước quản lý.<br />
Ngoài những điều kiện trên, hai nước Việt Nam, Lào có một ưu thế nổi <br />
trội vô cùng quý giá là quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào Việt Nam mà hai <br />
Đảng, hai dân tộc cần luôn luôn vun đắp, bảo vệ và phát huy trong mọi hoạt <br />
động chính trị, tư tưởng, kinh tế, quốc phòng an ninh, ngoại giao, văn hoá, giáo <br />
dục đào tạo nhân lực, nhân tài.<br />
Tình đoàn kết đặc biệt giữa hai nước đã góp phần quan trọng vào việc <br />
củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa <br />
Việt Nam và Lào trong thời kỳ mới. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo hai <br />
nước, hai bên luôn khẳng định quan điểm nhất quán, tiếp tục coi trọng và dành <br />
mọi ưu tiên cho việc củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, <br />
đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam Lào, coi đây là tài sản vô giá <br />
cần gìn giữ và truyền lại cho muôn đời con cháu mai sau, đòi hỏi hai nước Việt <br />
Nam Lào phải yêu thương gắn bó chặt chẽ với nhau, giữ cho quan hệ đặc biệt <br />
Việt –Lào đời đời keo sơn, bền vững.<br />
Trong quan hệ hữu nghị ở tầm quốc gia đó cùng với bề dày lịch sử, 20 tỉnh <br />
chung nhau dãy Trường Sơn là những người bạn thủy chung son sắt từ trong <br />
cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung cho đến nay. Phát huy tình đoàn kết trong <br />
sáng, thuỷ chung giữa 2 dân tộc trong kháng chiến chống kẻ thù chung, ngày nay <br />
các địa phương, nhất là thành phố kết nghĩa và địa phương biên giới đã có mối <br />
quan hệ hợp tác với hai tỉnh Xavannakhẹt và Xalavăn trên nhiều lĩnh vực, <br />
đạt được những thành quả quan trọng, vun đắp cho tình đoàn kết hữu nghị Việt <br />
– Lào ngày càng tốt đẹp và bền vững.<br />
Để chứng minh cho những tình cảm son sắt, sâu đậm, thủy chung mà hai <br />
dân tộc dành cho nhau, tôi xin chia sẻ câu chuyện cảm động về Bộ đội Cụ Hồ <br />
với 2 em bé Lào thay lời kêt cho bài dự thi này.<br />
Chuyện xảy ra vào cuối năm 1973, tại chiến trường Nam Lào ác liệt đầy <br />
máu lửa, nằm ngoài mọi dự kiến, mọi tình huống thường xảy ra ở chiến trường <br />
hồi đó.<br />
Cán bộ chiến sĩ Đội điều trị Binh trạm 37, thuộc Đoàn 559 bộ đội Trường <br />
Sơn đang chuẩn bị ăn cơm trưa thì nhận được một ca cấp cứu, do một bộ đội <br />
Pha thét Lào cùng mấy người dân chuyển đến. Bệnh nhân là một sản phụ đang <br />
tím tái và thoi thóp thở. Với lời khẩn cầu gấp gáp: “Các đồng chí bộ đội Việt <br />
Nam ơi, xin các đồng chí cứu vợ con tôi”.<br />
Bỏ bữa cơm, rất khẩn trương các bác sĩ, y tá vội vàng bắt tay vào việc cấp <br />
cứu. Mặc dù đã hết sức cố gắng chạy chữa nhưng người mẹ đã không qua khỏi, <br />
vì chị đã bị kiệt sức, các bác sĩ chỉ kịp phẫu thuật cứu được hai bé trai từ trong <br />
bụng mẹ.<br />
Anh bộ đội Lào có tên là Bunma đau đớn, khóc ròng nói qua nước mắt: <br />
“Cám ơn các đồng chí bộ đội Việt Nam đã rất nhiệt tình giúp đỡ, tuy không thể <br />
cứu được mẹ, nhưng còn hai đứa bé, tuy cứu được nhưng bây giờ biết nuôi <br />
nấng chăm sóc làm sao đây, bố thì chinh chiến nay chiến trường này, mai chiến <br />
trường khác, gia đình chẳng còn ai thân thích, nếu tôi đem các cháu về thì chúng <br />
nó cũng chết mất thôi, trăm sự, vạn sự nhờ các đồng chí chăn sóc nuôi nấng hộ, <br />
ơn này tôi không bao giờ quên”.<br />
Trước tình hình đó, ban chỉ huy hội ý và điện báo cáo xin ý kiến cấp trên. <br />
Chỉ huy Đoàn điện xuống yêu cầu Binh trạm hãy nhận hai cháu bé và cử người <br />
chăm sóc các cháu thật chu đáo. Binh trạm đã phân công hai cô y tá giỏi trực tiếp <br />
chăm sóc và nuôi dưỡng hai cháu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn của <br />
chiến trường, nhưng các cháu đều được đơn vị dành cho những chế độ ưu tiên <br />
đặc biệt với tinh thần cái gì tốt nhất đều dành cho các cháu.<br />
Với sự quan tâm chăm sóc tận tình của các y bác sĩ, của hai cô y tá và của <br />
toàn đơn vị, ngày qua ngày các cháu đã cứng cáp hơn, nhìn các cháu ngoan, chúm <br />
chím cười, các cô chú trong binh trạm ai cũng như nở từng khúc ruột. Tên các <br />
cháu ban đầu được đặt là Ba và Bảy (Vì các cháu được sinh ra tại Binh trạm <br />
37).<br />
Sau đó hai cháu được chuyển ra Viện 45, thuộc Đoàn 559 lại được đổi <br />
thành Quang và Trung. Quang và Trung là tên của Đoàn vận tải Quang Trung, <br />
mật danh của Đoàn 559 hồi đó. Do khí hậu núi rừng ẩm thấp, các cháu hay ốm <br />
đau, nhiều khi bị bệnh mà thuốc tây chữa mãi không khỏi, phải tìm thuốc nam <br />
trong rừng chữa cho các cháu. Tuy vất vả gian khổ nhưng các cô, các chú trong <br />
Viện 45 luôn dành cho các cháu tình thương yêu trìu mến nhất.<br />
Cô y tá Hoàng Thị Cúc, quê Hoàng Hóa, Thanh Hóa được phân công chăm <br />
sóc cháu Quang và cô Nguyễn Thị Thập, quê Đan Phượng, Hà Tây chăm sóc <br />
cháu Trung. Cả hai cô tuy chưa có gia đình, chưa có kinh nghiệm chăm nuôi trẻ, <br />
nhưng với tấm lòng của người phụ nữ Việt Nam, các cô đã là những người mẹ <br />
tuyệt vời và đã dành trọn tình thương yêu với hai cháu.<br />
Sau hơn một năm trời dằng dặc, các cháu đã chập chững tập bước những <br />
bước đi đầu tiên, nhìn các cháu tập đi, cả đơn vị đều vui mừng. Các bác, các cô, <br />
các chú tranh nhau bồng bế nâng niu, ai cũng xem các cháu như là ruột thịt của <br />
mình vậy, kể cả các thương bệnh binh mới vào điều trị tại Binh trạm. Giữa <br />
rừng già Trường Sơn, trong khói lửa đạn bom được nghe tiếng trẻ thơ sao mà <br />
thân thương làm vậy. Các cháu đã trở thành những đứa con cưng, là niềm vui <br />
chung của cả đơn vị.<br />
Nhưng đến đầu năm 1975, cục diện chiến trường thay đổi, Binh trạm 37 đã <br />
di chuyển vào sâu hơn, Viện 45 cũng di chuyển, bom đạn càng nhiều. Ta chuẩn <br />
bị mở chiến dịch lớn, tình thế khẩn trương không thể cùng mang các cháu đi <br />
theo được nữa.<br />
Trước tình hình đó Ban chỉ huy Viện điện báo cáo cấp trên xin ý kiên chỉ <br />
đạo, cấp trên chỉ thị nếu tình huống khó khăn quá thì trả các cháu cho phía bạn. <br />
Thời gian quá gấp, và điều quan trọng hơn các cháu còn quá bé, mới chưa đầy <br />
tuổi rưỡi, nếu chăm sóc không khéo thì có thể nguy đến tính mạng các cháu, <br />
phải xa các cháu ai cũng thương xót, nhất là hai bà mẹ nuôi, các cô nghẹn ngào <br />
nói các cháu đã hai lần mất mẹ, bây giờ lại mất mẹ lần nữa, thương và tội <br />
nghiệp các cháu quá, trả về Lào rồi sau này làm sao tìm gặp lại được các cháu. <br />
Các cô và chỉ huy đơn vị đã đề nghị chuyển các cháu ra Bắc.<br />
Cấp trên nhất trí, nhưng vấn đề là ai bảo lãnh các cháu, ra Bắc rồi giao cho <br />
ai. Sau một đêm suy nghĩ, Chính ủy Đỗ Thế Nhung xin nhận cháu Quang làm <br />
con nuôi, và bàn với Chủ nhiệm khoa Nội, bác sĩ Lâm Văn Chiến cũng nhận <br />
cháu Trung làm con nuôi. Đồng chí Lâm Văn Chiến đồng ý. Chỉ huy đơn vị <br />
mừng quá, liền điện báo cáo lên cấp trên, chỉ huy Binh đoàn phấn khởi cho phép <br />
điều động ngay một xe ô tô chở hai ông bố nuôi, cùng hai cô y tá, một quân y sĩ <br />
đi kèm để chăm sóc và giải quyết mọi tình huống bất trắc có thể xẩy ra trên <br />
suốt cả chặng đường dài ra Bắc.<br />
Sau mấy ngày đêm vật lộn trên các cung đường, đoàn hộ tống cũng đã về <br />
được đến Ninh Bình và Thái Bình, quê hương của hai ông bố nuôi, làm mọi thủ <br />
tục giấy tờ, khai sinh lại cho các cháu, bàn giao với hai gia đình và chính quyền <br />
địa phương, để lại một ít đường sữa, thuốc men cho các cháu. Sau mấy ngày <br />
thăm nhà, thăm người thân, đoàn cán bộ lại lên đường trở lại chiến trường tiếp <br />
tục nhiệm vụ.<br />
Trong suốt quá trình 37 năm ấy, các cháu luôn được sống trong tình thương <br />
yêu chăm sóc của các ông bố, các bà mẹ Việt Nam, sống trong tình thương yêu <br />
đùm bọc của các bác, các cô, các chú cựu chiến binh Binh trạm 37, cựu chiến <br />
binh Viện 45, Đoàn vận tải Quang Trung Binh đoàn Trường Sơn, của bà con <br />
nhân dân, họ hàng làng xóm. Các cháu ngày một khôn lớn trưởng thành và luôn <br />
luôn tự hào về đất nước Việt Nam, tự hào về những người lính Cụ Hồ đã chăm <br />
sóc nuôi dạy các cháu, luôn tự răn mình sống sao cho xứng đáng với tình thương <br />
yêu chăm sóc vô bờ ấy.<br />
Cách đây mấy năm, qua sự chỉ dẫn của bác Nguyễn Phương Thoan, Cựu <br />
chiến binh bộ đội Trường Sơn, là nhân chứng lịch sử quê ở Nghệ An, đài truyền <br />
hình Việt Nam đã phối hợp với đài Truyền hình quốc gia Lào lập chương trình <br />
cầu truyền hình trực tiếp về cuộc hội ngộ đầy cảm động giữa hai cháu, hai gia <br />
đình và các đồng đội, các nhân chứng lịch sử của hai đất nước Việt Lào và đã <br />
cho xe chở hai gia đình Quang và Trung cùng một số cựu chiến binh sang Lào để <br />
gặp lại gia đình và người thân của hai em mà các em chưa hề một lần biết mặt.<br />
Hai em bé Lào, cặp song sinh ngày ấy giữa núi rừng Trường Sơn hùng vĩ <br />
nay đã là hai người đàn ông trưởng thành có vợ và có con hiện đang sống tại <br />
Việt Nam, Tổ quốc thứ hai vô vàn yêu quý của các em. Người anh tên là Quang, <br />
làm con nuôi của ông Đỗ Thế Nhung, cựu chiến binh, nguyên Chính ủy Viện 48, <br />
Binh đoàn Trường Sơn, quê ở Thái Bình. Người em tên là Trung, làm con nuôi <br />
của ông Lâm Văn Chiến, cựu chiến binh, nguyên Chủ nghiệm khoa Nội, Viện <br />
48, Binh đoàn Trường Sơn, quê ở Ninh Bình.<br />
Câu chuyên cảm động trên là một trong rất nhiều câu chuyện cảm động về <br />
hình ảnh anh Bộ đội Cụ Hồ, là hình ảnh sinh động trong những hình ảnh sinh <br />
động nhất về tình đoàn kết chiến đấu Việt Lào, tình hữu nghị thủy chung son <br />
sắt hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa cùng sát cánh bên nhau chiến đấu đánh <br />
đuổi kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho mỗi dân tộc trước đây cũng như mối <br />
quan hệ gắn bó đặc biệt Việt Lào trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay. <br />
Tình cảm thiêng liêng và tình hữu nghị keo sơn gắn bó ấy sẽ được giữ gìn, phát <br />
huy và nhân lên mãi mãi qua những việc làm tình nghĩa của các cấp ủy đảng, <br />
chính quyền, của cán bộ chiến sĩ và nhân dân hai nước.<br />