intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thiếu men G6PD - 2 (Glucose 6 phosphate dehydrogenase)

Chia sẻ: Nguyen Phong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

78
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chẩn đoán cận lâm sàng Chẩn đoán các trường hợp thiếu G6PDH dựa vào lâm sàng chỉ khi có cơn tán huyết, đôi khi rất khó phát hiện vì tiềm ẩn, khi đó dựa vào các dấu hiệu trên lâm sàng là tình trạng thiếu máu cấp hoặc dựa vào các xét nghiệm gián tiếp như hemoglobine (Hb), hematocrite giảm nhanh. Nếu tan máu nặng, protein gắn Hb như là một haptoglobine và Hb tự do có thể xuất hiện trong huyết tương và nước tiểu, nếu soi hồng cầu không nhuộm thì có thể phát hiện thể Heinz....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thiếu men G6PD - 2 (Glucose 6 phosphate dehydrogenase)

  1. Thiếu men G6PD - 2 (Glucose 6 phosphate dehydrogenase) Chẩn đoán cận lâm sàng Chẩn đoán các trường hợp thiếu G6PDH dựa vào lâm sàng chỉ khi có cơn tán huyết, đôi khi rất khó phát hiện vì tiềm ẩn, khi đó dựa vào các dấu hiệu trên lâm sàng là tình trạng thiếu máu cấp hoặc dựa vào các xét nghiệm gián tiếp như hemoglobine (Hb), hematocrite giảm nhanh. Nếu tan máu nặng, protein gắn Hb như là một haptoglobine và Hb tự do có thể xuất hiện trong huyết tương và nước tiểu, nếu soi hồng cầu không nhuộm thì có thể phát hiện thể Heinz. Nhiều phương pháp và kỹ thuật được đề nghị để phát hiện thiếu men G6PDH đ ã hỗ trợ rất nhiều để xác định có hay không liên quan đến thiếu hụt G6PDH. Các phương pháp đó có thể là định tính hoặc định lượng. ·Phương pháp huỳnh quang Ernest Beutler (1966) Phương pháp này lần đầu tiên giới thiệu vào năm 1966, mang tính định tính và dựa trên nguyên lý glucose 6 phosphate (G6P) là một chất không phát quang khi có
  2. mặt của G6PDH và NAD+, nó sẽ chuyển thành 6 phospho gluconolactone (6PG) là một chất phát quang và có thể nhận biết dưới ánh sáng đèn cực tím. Phương pháp này hiện đang được hãng hóa chất Sigma đưa vào sản xuất thành các kit chuẩn dùng xét nghiệm sàng lọc. Tuy nhiên, phương pháp này có thể bỏ sót trường hợp nữ dị hợp thiếu men G6PDH thấp. ·Phương pháp tạo vòng Formazan của Fujii H (1984) Đây cũng là một phương pháp định tính, dựa trên nguyên lý chuyển màu của MTT từ một chất màu vàng nhạt sang màu xanh sẫm với sự có mặt của G6PDH. Phương pháp có ưu điểm là có thể tiến hành trên các mẫu máu khô (lấy vào giấy thấm Whatmann), sau đó các mảnh giấy thấm được đặt trên thạch chứa hóa chất. Các trường hợp thiếu men G6PDH không có vòng tròn sẫm màu xanh (formazan) được tạo thành. Đường kính của vòng màu xanh nói lên ho ạt độ G6PDH có trong mẫu máu. Tuy nhiên, kết quả có được từ phương pháp này cũng phải sau 8 giờ và phụ thuộc vào điều kiện và thời gian bảo quản mẫu máu. ·Phương pháp Akira Hirono (1998) Là phương pháp phát hiện định tính dựa trên nguyên lý như tạo vòng Formazan. Phương pháp này có ưu điểm là trả lời kết quả nhanh chỉ sau 30 phút và không cần các thiết bị đắt tiền. Về nguyên lý cụ thể, G6PDH xúc tác phản ứng chuyển G6P thành 6-GP, phản ứng này có sự tham gia của coenzyme NADP, qua đó NADP (dạng oxy hóa) sẽ chuyển thành NADPH (dạng khử). NADPH tạo ra sẽ khử MTT
  3. với sự có mặt của PMS tạo th ành sản phẩm có màu xanh sẫm. Những trường hợp thiếu men G6PDH hoàn toàn, thì phản ứng tạo 6-GP sẽ không xảy ra và khi đó NADPH cũng không có để tham gia vào phản ứng chuyển màu nên sản phẩm chỉ có màu hồng (màu của hemoglobine); trường hợp bán thiếu chỉ có một lượng nhỏ NADPH tạo ra nên sản phảm sẽ có màu xanh nhạt. ·Phương pháp định lượng theo kít của hãng Roche Là một trong những phương pháp định lượng được sử dụng để định lượng hoạt độ G6PDH hiện nay. Phương pháp dựa trên nguyên lý nồng độ NADPH được xác định thông qua mật độ quang học đo được ở bước sóng 340nm tại các thời điểm 1 phút, 2 phút và 3 phút. Từ đó xác định được hoạt độ G6PDH. ·Phương pháp sinh học phân tử Gần đây, các kỹ thuật sinh học ph ân tử đã được áp dụng vào mảng G6PDH và một số enyme khác, đối với phân tích trên G6PDH là xác định các đột biến và dạng biến thể của thiếu hụt men G6PDH Thái độ xử trí Trong những trường hợp tan máu do dùng thuốc hoặc hóa chất, ngay lập tức dừng thuốc, nếu tan máu nặng cần truyền máu. Với những bệnh nhân thiếu G6PDH đ ã được biết trước thì nên chủ động phòng tránh thức ăn và thuốc có tính oxy hóa,
  4. nếu có thể, các bệnh nhân dự định chỉ định thuốc có tính oxy hóa nghi ngờ gây tan máu thì nen sàng lọc G6pDH trước khi dùng. Ý nghĩa thiếu G6PDH về mặt di truyền và lâm sàng ·Về mặt di truyền:G6PDH ở nhiễm sắc thể X, vị trí q28. Sự bất thường của G6PDH được di truyền do một gen bán trội trên nhiễm sắc thể X, do đó gây n ên tình trạng di truyền liên kết giới tính. Nghiên cứu về sự đột biến gen, người ta thấy có sự khác nhau giữa các vùng và nhóm dân tộc. Việc nghiên cứu về thiếu hụt G6PDH trong quần thể cho phép phân tích về mức độ thuần khiết của nòi giống, sự lai tạp và sự di cư của các dân tộc. Một vấn đề có thể đặt ra giữa sự thiếu hụt G6PDH với các điều kiện của môi trường, vấn đề ngoại cảnh (nhiễm KSTSR) sẽ có thể gợi lên vai trò của sự cân bằng đa dạng.
  5. ·Với lâm sàng:G6PDH được sử dụng trong một số trường hợp ở lâm sàng như trong nhồi máu cơ tim, hoạt độ của G6PDH huyết thanh tăng nhưng mức độ thấp hơn so với LDH và GOT,…Trong nhồi máu cơ tim, G6PDH tăng cao nhất vào khoảng ngày thứ 4 của bệnh và trở về mức bình thường ngày thứ 10. Men này cũng tăng trong trường hợp nhồi máu phổi nhưng trong các bệnh về gan mật thì men vẫn bình thường. Trong thiếu máu tan huyết, đặc biệt giai đoạn cấp có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như thuốc, phơi nhiễm với hoá chất có tính oxy hoá, ăn đậu favae, dùng một số thuốc sốt rét đã được ghi nhận ở người Caucase. Hoặc vàng da tán huyếtở trẻ sơ sinh cũng do có gen đột biến và thiếu men nên không khử được MetHb tạo thành và dẫn đến huỷ huyết. Trong bệnh sốt rét, G6PDH được chú ý về 2 mặt: vấn đề miễn dịch đối với sốt rét, có sựthiếu hụt men G6PDH. Vấn đề huỷ huyết do mẫn cảm với thuốc sốt rét như primaquine, giải thích vấn đề liên quan còn nhiều tranh cãi và có sự ngẫu nhiên của những gen đột biến (gây tình trạng thiếu G6PDH) có tần số cao hơn ở vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới, có khuynh hướng đi cùng với gặp ngẫu nhiên sốt rét do P.falciparum. Thiếu men G6PDH sẽ hạn chế sự phát triển KSTSR trong hồng cầu. Bệnh hay gặp ở châu Phi, Địa Trung Hải, Tây Nam Á và Ấn Độ. KSTSR ở những hồng cầu bị thiếu men G6PDH dễ bị phá huỷ hơn do ảnh hưởng của oxy hoá. Phụ nữ thiếu men G6PDH ít nhiễm sốt rét hơn nam giới thiếu men. Những yếu tố đề kháng tự nhiên bên trong hồng cầu ở người chủ yếu là những thay đổi cấu trúc huyết cầu tố như HbS, C, E, F, thay đổi về số lượng chuỗi trong tổng hợp Hb trong bệnh Thalassemie, hoặc thiếu hụt men G6PDH.
  6. Phân loại type thiếu hụt men G6PDH Gen quy định cho G6PDH nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X vị trí q28, thông thường các trường hợp thiếu nặng men này ở nam giới và hiếm gặp ở nữ. Trên 200 biến thể được xác định, trong quân đội Mỹ, phát hiện có 2 loại thiếu men G6PDH hay gặp nhất là G6PDHA chiếm khoảng 16% ở người nam giới người Mỹ gốc Phi và loại hiếm hơn G6PDMed hay gặp ở người Hy Lạp, Sardinian, Sephardic Jews, Ả Rập và một số ở vùng Địa Trung Hải. Theo tiến triển bình thường, đời sống hồng cầu khoảng 120 ngày, nhưng men G6PDH hoạt động sẽ yếu dần từ thời gian 60 (50%) ngày trở đi, dù vậy nhưng tế bào hồng cầu vẫn duy trì hoạt động bình thường đủ để hồng cầu tránh khỏi các chất oxy hoá tấn công. Sự suy yếu dần của men G6PDH là nói lên ý nghiã của suy yếu cá nhân. G6PDA giảm đến mức 50% so với chuẩn là 13 ngày trong khi đó G6PDMed giảm đến mức 50% hoạt động chuẩn là chỉ 1-2 ngày. Loại thiếu men G6PDA thường trên hồng cầu non có enzym hoạt động b ình thường, trong khi những tế bào hồng cầu già thiếu trầm trọng. Loại thiếu men G6PDMed th ì nguy kịch hơn vì sự thiếu hoạt động men xảy ra ở tất cả các loại hồng cầu. Chính v ì vậy mà sự tan máu của loại thiếu G6PDA thường tự giới hạn được không cần điều trị, loại thiếu G6PDMed tan máu nặng h ơn vì tất cả các tế bào hồng cầu đều có nguy cơ và đôi khi phải truyền máu. Bảng 3. So sánh về lâm sàng của thiếu men G6PDA và G6PDMed
  7. Đặc điểm.................................G6PDA ................................G6PDMed Tần suất.....................................Quần thể người Mỹ gốc Phi...........Quần thể dân địa Trung Hải Mức độ tan máu........................................Trung b ình...............................Nặng Tan máu do thuốc/ nhiễm trùng..........Không thường/thường.....................Thường/ Thường Nhu cầu truyền máu...................................Không......................................Đôi khi Tan máu mãn tính......................................Không......................................Không Hầu hết những trường hợp phản ứng tan máu do thuốc có liên quan đến thiếu men G6PDA đều biểu hiện dạng nhẹ hay ẩn lâm sàng. Trong một nghiên cứu trước đây, khoảng 20 người có phản ứng với thuốc nặng có liên quan đến thiếu men G6PDH. Thời gian đó, chloroquine, primaquin được cho hằng tuần cho các quân nhân phục vụ quân đội để phòng bệnh sốt rét mà test kiểm tra men G6PDH thì không thực hiện thường qui, song có thể phản ứng xảy ra đó là do thiếu men G6PDMed, chứ không phải G6PDA. Lý do tại sao vẫn chưa biết rõ. Một số nghiên cứu Brice Weinberg, trung tâm y khoa Duke, Mỹ xác định ở trẻ em Tanzania v à Kenya một đột biến gen liên quan đến chất chống oxy hoá có thể giúp bảo vệ được 90% các em chống lại P. falciparum. Đột biến này liên quan đến enzyme tăng sinh NO. Tuy nhiên, NO không giết được P. falciparum mà tác động bằng cách ngăn
  8. chặn hồng cầu nhiễm bám vào nhau gây tắc nghẽn một số mạch máu, dẫn đến sốt rét ác tính thể não. Những nghiên cứu liên quan giữa thiếu men G6PDH với bệnh sốt rét Một số nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy tỷ lệ thiếu hụt men G6PDH khác nhau theo các vùng và nhóm dân tộc. Phần lớn tỷ lệ thiếu men G6PDH cao ở các nhóm dân tộc đang sống trong vùng sốt rét lưu hành. Trong điều kiện bình thường, các quá trình chuyển hoá trong hồng cầu đều nhằm hướng bảo vệ cho hồng cầu khỏi bị ảnh hưởng của tác nhân oxy hoá bằng nhiều phản ứng khử. Tuy nhiên, vẫn có khoảng 1% Hb (Fe++) ở dưới dạng Met Hemoglobine (Fe+++) và sự cân bằng được duy trì bởi 2 quá trình oxy hoá Hb thành MetHb và khử MetHb thành Hb.Các phản ứng khử được thực hiện bởi sự vận chuyển H+ tới các chất cần đ ược khử dưới tác dụng của các men đặc hiệu. H+ chủ yếu do thoái biến yếm khí glucose và vòng pentose cung cấp. Có 2 quá trình khử để chuyển MetHb thành Hb. Một quá trình hoạt động trong điều kiện sinh lý b ình thường là do NADH2 nhưng chậm: NADH2 MetHemoglobine Diaphorase Methemoglobine + NADH2 Hb + NAD
  9. Quá trình thứ 2 do NADPH2 hoạt động nhờ có các men G-6-PD và 6 Phosphogluconate dehydrogenase trong điều kiện có sự thúc đẩy của một số thuốc như xanh methylen hoặc sản phẩm phân hủy của primaquine… NADPH2MetHb reductase MetHb + NADPH2 Hb + NADP Khi hồng cầu già các men khử MetHb giảm và làm cho hồng cầu dễ bị tác dụng bởi một số thuốc có tính oxy hoá Hb thành MetHb và gây ứ đọng MetHb. Với các HC non giàu men có sức bền vững, khử được MetHb tạo thành. Như vậy, khi thiếu G6PDH dẫn đến thiếu NADPH2 và MetHb được tạo thành sẽ không được khử trở lại thành Hb. Mặt khác, Glutathion (GS-SG) cũng không được khử thành Glutathion–SH và thiếu G-SH thì HbH2 O2 bị tích lại trong lòng hồng cầu và trở thành một tác nhân oxy hoá Hb thành MetHb và Coleglobine. Sau đó Coleglobine kết tinh lại thành thể Heinz và làm vỡ HC theo cơ chế cơ học. Một lý giải khác cho quá trình vỡ HC là do thiếu NADPH2 nên HC phải sử dụng NADH2 để thay thế trong các phản ứng khử bảo vệ HC, nhưng sự chuyển hoá glucose cung cấp NADH2 thiếu, dẫn đến thiếu năng lượng cần thiết cho đời sống HC, cho bơm natri nên natri bị ứ đọng, nước vào nhiều và làm hu ỷ hoại hồng cầu. Nghiên cứu trên thế giới
  10. Theo Ernest Beutler, hiện trên thế giới có khoảng 400 triệu người thiếu men G6PDH, bệnh có thể gặp ở tất cả dân tộc. Tỷ lệ thiếu hụt G6PDH khác nhau tùy theo vùng và tùy từng vùng địa lý khác nhau, nhưng cao nhất vẫn là Địa Trung Hải, châu Phi và nam Á, ít nhất là ở bắc Âu. Tại khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ thiếu men G6PDH cho biết một số quốc gia như ở Lào là 7.2%, Thái Lan 11.5%, Indonesia là 3.7% và Myanmar là 5.4%, Việt Nam khoảng dao động 3% (Matsuoka H và Kuni Iwai., 2000; T.T.Tĩnh và cs., 2007), tại Pakistan tỷ lệ thiếu men G6PDH khác nhau giữa các dân tộc, thiếu men ở dân tộc Pathan 15.8%, Uzbak là 9.1%, Tajik là 2.9% và Tukoman là 2.1% (Bouma và cs., 1995). T ỷ lệ thiếu men chung ở khu vực Đông Nam Á, Địa Trung Hải và New Papue Gunea là 3-5%. Tỷ lệ này ở nam giới ở các nước Ý, Hy Lạp, Ả Rập cao hơn so với ở nữ, tại Iran tỷ lệ thiếu men G6PDH khoảng từ 10-14,9%. Tỷ lệ thiếu G6PDH trong cộng đồng người da trắng ở Bắc Âu: cứ 1000 người sẽ có một người mắc bệnh thiếu men G6PDH.Trong cộng đồng người Kurd, tỷ lệ thiếu xuất hiện nhiều ở nam giới (50%). Thiếu men G6PDH dạng A cũng rất phổ biến tại Tây Châu Phi; ở Mỹ tỷ lệ mắc phải trong cộng đồng nam giới da đen khoảng 11% và cũng có khoảng 16% nam giới người da đen mắc bệnh thiếu G6PDH không điển hình. Tỷ lệ thiếu men G6PDH tại các vùng SRLH nặng và rất nặng ở những người Mỹ gốc Nam Phi là 13%, đặc biệt ở vùng sa mạc Sahara, tỷ lệ này lên đến 24%. Thiếu hụt men ở vùng dịch tễ châu Phi lên đến 5 – 25%, Trung Đông là 10%
  11. Các điều tra với số mẫu lớn cũng cho thấy tần suất thiếu men G6PDH cao hay gặp tại các vùng sốt rét lưu hành trên thế giới. Điều tra tại Vanuatu cho tỷ lệ thiếu men G6PDH là 6.8%, mức độ khác nhau tùy theo từng vùng lưu hành 0-39% và có tương quan thuận với tình hình sốt rét tại đây (Ganczakowski M và cs., 2001); nghiên cứu tại Ấn Độ của tác giả Devi ST cho thấy vùng sốt rét lưu hành nặng, tỷ lệ thiếu men G6PDH là 14.13%, trong khi đó tại vùng sốt rét lưu hành nhẹ thì tỷ lệ thiếu men chỉ 5.5%; Theo Laundry khi nghiên cứu điều tra tại Gabon thì chỉ có bệnh nhân nữ thiếu hụt men G6PDH dạng dị hợp tử mới có khả năng bảo vệ đối với sốt rét. Một số tác giả khác lại cho rằng tất cả trường hợp đồng hợp tử, dị hợp tử hay bệnh nhân nam bán hợp tử đều có khả năng bảo vệ chống lại sốt rét. Beutler cùng cộng sự tiến hành điều tra sàng lọc và nghiên cứu phân tích các trường hợp thiếu G6PDH dạng dị hợp tử ở 2 quần thể hồng cầu th ì hồng cầu bình thường có nhiều ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) ký sinh h ơn hồng cầu thiếu men G6PDH. Tương tự, Luzzatto và cộng sựcũng đã nhận định như thế khi tiến hành điều tra tại một cộng đồng tại châu Phi. Đặc biệt, nghiên cứu trên in vitro người ta nhìn nhận KSTSR ít phát triển hơn so với trong HC bình thường. Để giải thích cơ chế này, nhiều giả thuyết đưa ra cho rằng KSTSR cần NADPH cho sự xâm nhập và tồn tại nên ở bệnh nhân thiếu men G6PDH, lượng NADPH tại HC thấp sẽ không thích hợp cho quá trình xâm nhập và phát triển của chúng. Một nghiên cứu trên in vitro khác, các nhà khoa học nhận định các HC thiếu hụt G6PDH thì khi nhiễm P. falciparum bị thực bào mạnh hơn gấp 2-3 lần so với các
  12. HC bình thường cũng bị nhiễm P. falciparum. Có sự tăng nồng độ của IgG và bổ thể C3 ở bệnh nhân thiếu hụt men G6PDH, tạo điều kiện thuận lợi h ơn cho quá trình thực bào những HC mang KSTSR P.falciparum vì vậy sẽ kìm hãm sự phát triển của loại KSTSR này. Có hay chăng việc nên sử dụng primaquine khi điều trị sốt rét, đặc biệt là sốt rét do Plasmodium vivax (P.vivax ) dùng primaquine rất dài ngày? Một nghiên cứu do nhóm tác giả Silva M.C.M và cộng sự (2006) tiến h ành điều trị cho 11 bệnh nhân (gồm cả 3 bệnh nhân xét nghiệm có thiếu G6PDH) nhiễm P.vivax với liều primaquine 0.5mg/kg/ngày, kết quả coh thấy cơn tán huyết cấp chỉ xảy ra trên những đối tượng thiếu G6PDH và họ đề nghị tất cả trường hợp sốt rét do P.vivax cũng nên sàng lọc G6PDH trước khi điều trị bằng thuốc primaquine để tránh các biến chứng có thể xảy ra như tan huyết cấp. Nghiên cứu trong nước Năm 1969, Đặng Hanh Phức và cộng sự đã xét nghiệm sàng lọc đơn giản của Brewer cho kết quả tỷ lệ thiếu G6PDH ở Hà Nội là 5.3%, Hải Phòng là 7.5%; năm 1978, Hoàng Văn Sơn cùng cộng sự nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thiếu men G6PDH từ 2-6% trên cộng đồng đang sống trong vùng không lưu hành sốt rét, nhưng vùng có sốt rét lưu hành nặng thì tỷ lệ thiếu hụt lên đến 20-24%; Nghiên cứu của Đoàn Hạnh Nhân và Tạ Thị Tĩnh cùng cộng sự (1997) tiến hành sàng lọc trên 1676 nam học sinh phổ thông, tuổi từ 6 -15, tại 8 huyện thuộc 4 tỉnh
  13. Hòa Bình, Hà Giang, Sơn La, Thanh Hóa từ 1996-1997. Kết quả cho thấy, thiếu men G6PDH trên hồng cầu có tỷ lệ cao tại một số vùng sốt rét lưu hành nhẹ như Kim Bôi là 34.1%, Mai Châu là 20.4%, Như Xuân là 19.7%, Mư ờng La 17.8% và thấp hơn là tại một số vùng sốt rét ít lưu hành như Mèo Vạc là 0.3% và Nga Sơn là 0.5%. Tỷ lệ thiếu enzyme G6PDH ở các nhóm dân tộc khác nhau cho kết quả khác nhau, cao nhất là dân tộc Mường (31%), dân tộc Thổ (22.6%) và dân tộc Thái (19.3%) và thấp hơn là dân tộc Kinh (0.5%) và dân tộc Mông (0.3%). Đến năm 1999, nhóm nghiên cứu trên tiến hành điều tra tại các vùng sốt rét lưu hành rất nặng của Gia Lai, Bình Phước, kết quả cho thấy tỷ lệ thiếu G6PDH của từng dân tộc Jia Rai, Bana, Xtieng tương ứng là 2.3%; 1.7% và 3.4%. Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Ho àng Hạnh Phúc khi điều tra tỷ lệ thiếu G6PDH ở các trường phổ thông cơ sở cho thấy tỷ lệ thiếu enzyme G6PDH trong học sinh dân tộc Kinh tại Hà Nội là 0.86% và tại Hòa Bình là 4.53%, học sinh dân tộc Mường tại Hòa Bình là 11.36%. Nghiên cứu của Trần Thị Chính và cộng sự trên nhóm người Kinh tại Hà Nội và khu vực quanh Hà Nội, kết quả cho tỷ lệ thiếu G6PDH là 1.75%. Một nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thọ Viễn và cộng sự trên nhóm bệnh nhân sốt rét có KSTSR, tỷ lệ thiếu G6PDH là 60.71%, trong đó thiếu hoàn toàn là 25%, trong khi nhóm đối chứng không có KSTSR lại cho tỷ lệ thiếu là 37.04% và thiếu hoàn toàn là 6.97%, nên nhóm nghiên cứu có nghĩ đến hiện tượng thiếu G6PDH có liên quan đến mắc sốt rét (!).
  14. Tại Việt Nam, một nghiên cứu đánh giá quy mô lớn về tình hình thiếu G6PDH 16 dân tộc khác nhau thuộc 10 tỉnhtừ năm 1995 – 2005 của Tạ Thị Tĩnh và cộng sự cho thấy tỷ lệ thiếu G6PDH ở các vùngkhác nhau: thấp nhất là tại huyện Lak tỉnh Đak Lak (0,8%) và cao nh ất là Hoà Bình (23.5%). Về nhóm dân tộc, thì dân tộc Mường có tỷ lệ thiếu G6PDH cao nhất (28,6%) và thấp nhất là ở nhóm dân tộc H’mông (0,3%). Tỷ lệ thiếu men G6PDH ở một số dân tộc sống trong vùng sốt rét lưu hành tại 3 tỉnh Khánh Hoà, Gia Lai, Bình Phước qua điều tra trong 2 năm 1999-2000, Đoàn Hạnh Nhân và cộng sựcũng ghi nhận thấy tỷ lệ thiếu men G6PDH hồng cầu ở các dân tộc có tỷ lệ rất khác nhau giữa hai nhóm dân tộc: nhóm dân tộc ở ngoài Bắc di cư vào như dân tộc Tày (17.1%) dân tộc Nùng, Dao (11.1%) cao hơn so với các nhóm dân tộc tại địa phương như Ragley, Jiarai, Bana, X’tiêng có tỷ lệ thiếu men thấp ( 1.7 -3.4%). Tại Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình khi điều tra hồi cứu những người bị đái huyết cầu tố, Tạ Thị Tĩnh và cộng sự cho kết quả tỷ lệ đái huyết sắc tố ở nam là 92.9%, còn ở Than Uyên tỷ lệ nam mắc là 73.7%. Tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên,nhóm nghiên cứu của Huỳnh Hồng Quang và
  15. cộng sự xác định được tỷ lệ thiếu G6PDH chung ở cả hai giới là 2.59%, song ở nam giới cao hơn gấp 2.5 lần so với ở nữ (1,84% so với 0,74%). Việc xác định thiếu menG6PDH là một kết quả trực tiếp của điều tra hậu quả tan máu do thuốc primaquine gây ra vào những năm 1950. G6PDH là enzym đầu tiên của shunt hexose monophosphate, theo con đường sinh hoá trong quá trình bảo vệ tế bào hồng cầu. Sự phá huỷ phân tử Hb do những thuốc, hóa chất có tính chất oxy hoá. Primaquine là thuốc sốt rét duy nhất hiện nay đang sử dụng rộng rãi trong điều trị thể ngủ trong gan, ngừa tái phát do P.vivax và P.ovale. Tiếc thay đây lại là chất oxy hoá mạnh có thể gây ra thiếu máu nặng do tan máu ở những cá nhân thiếu men G6PDH. Thiếu hụt G6PDH là một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu máu tan máu di truyền, thông thường trên lâm sàng hay gặp dạng thiếu máu do tan máu mạn tính. Các trường hợp tan máu cấp xảy ra khi có tác động của một số tác nhân gây oxy hóa, đặc biệt thuốc sốt rét primaquine, quinine,…Tsiu A Sane cùng cộng sự khi điều trị cho 15 bệnh nhân sốt rét thiếu G6PDH bằng primaquine liều 1.5 viên (loại 13.2mg)/ngày tại bệnh viện E thì xuất hiện 2 trường hợp tán huyết phải dừng thuốc và xử trí cấp cứu. Nguy cơ cơn tán huyết cấp sẽ giảm nếu biết được tiền sử gia đình về thiếu máu tan máu, bệnh hồng cầu hình cầu hoặc làm test trước khi dùng thuốc nếu nghi ngờ. Người thiếu men G6PDH bắt buộc tránh tuyệt đối những thuốc có tính oxy hoá, hoá chất; sự tham vấn về di truyền rất cần thiết cho những người phụ nữ mang dị hợp tử và nam giới mang gen bệnh.
  16. Nếu một đứa trẻ sơ sinh bị thiếu hụt G6PDH, không b iết trước để có hướng xử trí, khi bệnh phát có thể dẫn đến bệnh lý n ão, biến chứng thần kinh, chậm phát triển tâm thần vận động và có thể tử vong. Bệnh không điều trị được chỉ có thể phòng ngừa để tránh bộc phát. Công trình “sàng lọc thiếu men G6PDH ở trẻ sơ sinh” tại bệnh viên phụ sản Từ Dũ, 2006 qua xét nghiệm sàng lọc ở 500 trẻ sơ sinh cho thấy 5.5% trẻ bị thiếu men G6PDH, trong đó 100% bé trai bị thiếu ho àn toàn, 58.8% bé trai và 42.2% bé gái bị bán thiếu, giống với kết quả sàng lọc của các nước châu Á lân cận, mục đích của đợt sàng lọc là đưa ra một loạt danh sách thuốc, thức ăn...m à những bé thiếu men G6PDH không được dùng trong suốt cả cuộc đời. Đây là một xét nghiệm rất quan trọng cho tất cả các bé từ khi sinh ra cho đến khi truởng thành, nếu thiếu, sẽ can thiệp kịp thời, cũng như cung cấp những thông tin cần thiết có liên quan đến căn bệnh này, để cha mẹ các bé biết mà phòng ngừa, không có cơ hội tái phát và cả việc lập gia đình cho những người thiếu men G6PDH về sau. Cha mẹ của trẻ bị thiếu G6PDH nên nắm rõ danh sách một số thuốc dùng thông thường không nên dùng như thuốc Aspirine, vitamine K, chloroquine, primaquine,… Ngoài ra, trong chương trình sàng lọc sơ sinh đã được thử nghiệm tại Việt Nam từ năm 1998 đến 2008 với dự án RAS/6/032do c ơ quan Nguyên tử năng lượng quốc tế tài trợ. Tổng kết chương trình, trung bình trên cả nước chỉ có khoảng 8% trẻ em được sàng lọc, chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, đạt khoảng 20% – 25% cho thấy tỷ lệ trẻ em nam thiếu men G6PDH là khoảng 2%.
  17. Với các bệnh nhân nhập viện có tiểu huyết sắc tố ở Trung tâm bệnh nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh thì có đến 56% trong số đó bị thiếu men G6PDH trong khi tần xuất thiếu men G6PDH chung của quần thể người Việt Nam là 9,7% (T.T.Hiền và Jeremy F., 2000) Vấn đề sử dụng primaquine khi người thiếu hụt G6PDH bị mắc sốt rét Hiện nay, Chương trình PCSRQG các nước, phần lớn đều sử dụng thuốc primaquine trong phác đồ điều trị sốt rét theo các mục đích khác nhau, hoặc là diệt giao bào chống lây lan, hoặc diệt thể ngủ trong gan chống tái ph át. Thời gian sử dụng thay đổi có thể 1 hoặc 14 ngày. Song, primaquine là thuốc nằm trong danh mục thuốc có tính oxy hoá, dễ gây tán huyết cho bệnh nhân bị thiếu G6PDH, liệu việc sử dụng thuốc này có an toàn không khi chúng ta đưa ra quyết định dùng primaquine hay không cần phải suy xét. Gần đây, một nghiên cứu từ Trung tâm y tế Navy, đại học Iowa, Mỹ báo cáo và khẳng định vẫn có thể sử dụng thuốc primaquine cho bệnh nhân mắc sốt rét m à bản thân họ có thiếu men G6PDH bẩm sinh (qua xét nghiệm và phân loại thiếu men G6PDH). Hiện thử nghiệm đánh giá thiếu men G6PDH phần lớn là xét nghiệm định tính, bán định tính, một số thử nghiệm có đo nồng độ G6PDH, n ên có khả năng xác định mức độ trầm trọng cũng như phân loại thiếu men G6PDH. Những đối tượng có test G6PDH dương tính thì phải được thông báo về dấu chứng và triệu chứng và nguyên do dẫn đến (nếu có). Những thuốc có tính oxy hoá cao,
  18. bản thân họ nên được tư vấn về chuyên khoa, kết quả sàng lọc đối tượng có thiếu men G6PDH nên ghi rõ ràng vào hồ sơ bệnh án cho từng cá nhân, nên có kế hoạch khám kiểm tra định kỳ để xác định tình trạng G6PDH, nhóm máu, tình trạng miễn dịch. Hiện tại một số vùng không có chỉ định dùng primaquine cho người thiếu men G6PDH, nếu tương lai, cá nhân thiếu men G6PDH được cho phép dùng thuốc này thì nên khuyến cáo phải xét nghiệm men G6PDH. Khi dùng thì liều thuốc được cho dựa vào nhiều dữ liệu và yếu tố cơ địa,…và tùy thuộc phân loại thiếu men. Primaquine vẫn là thuốc duy nhất điều trị sốt rét tái phát. Nó có thể sử dụng an toàn ở người thiếu men G6PDH nếu dưới sự giám sát chặt chẽ của nhân viên y tế, liều lượng cho thấp hơn liều bình thường và thời gian kéo dài để tránh tình trạng tan máu. Phác đồ điều trị primaquine gồm 24 liều trong thời gian hơn 8 tuần ở những người thiếu men G6PDHA và 60 liều trong thời gian hơn 30 tuần ở người thiếumen G6PDHMed theo một nghiên cứu ở Trung tâm y tế Navy, đại học Iowa, Mỹ có thấy vẫn an toàn và hiệu quả. Nếu primaquine được phép dùng để điều trị cho những đối tượng thiếu men G6PDH, thì thuốc nên dùng dưới sự giám sát của thầy thuốc. Sử dụng que thử nước tiểu để kiểm tra đánh giá, Hct, hồng cầu và Hb thực hiện 3 - 4 ngày ngay sau khi dùng thuốc liều đầu tiên. Nếu hiện tượng tan máu xảy ra nên dừng thuốc, truyền máu toàn phần hay hồng cầu khối, bổ sung thêm acide folic có thể có ích do giúp hoạt động tuỷ xương trở lại.
  19. Tan máu thiếu men G6PDH có liên quan đến các vùng sốt rét lưu hành? Một lý do đến nay chưa lý giải được rõ ràng là tại sao trẻ em bị Thalassemia có hồng cầu nhiễm KSTSR ít h ơn trẻ em không bị Thalassemia, thiếu men G6PDH có hồng cầu nhiễm KSTSR ít h ơn người bình thường không thiếu enzyme. Phải chăng đây là cơ chế “Bệnh chống bệnh”. Do vậy, thiếu men G6PDH không phải là một yếu tố nguy cơ trong sốt rét ác tính mà ngược lại. Suy thận cấp có thể là suy thận thực thể hay suy thận chức năng (suy thận cấp chức năng khi vô niệu có áp lực tĩnh mạch trung tâm giảm, huyết áp hạ, truyền lại dịch bệnh nhân tiểu được và huyết áp lên; trong khi đó suy thận cấp thực thể khi vô niệu có áp lực tĩnh mạch trung tâm tăng, nghiệm pháp Furosemide ít đạt kết quả, huyết áp b ình thường hoặc tăng). Suy thận cấp thực thể do rối loạn vi tuần hoàn thận cũng như ở não và thường xảy ra cùng lúc, có thể thấy lắng đọng các phức hợp miễn dịch ở cầu thận, nhưng chỉ thoáng qua mà tổn thương chủ yếu vẫn là tổn thương vi tuần hoàn. Mối liên quan có thể giữa các vùng sốt rét lưu hành ở Vanuatu với thiếu men G6PDH đã rõ qua một vài nghiên cứu. Yếu tố di truyền con người có thể ảnh hưởng đến sự phân bố sốt rét theo nhiều cách khác nhau (Haldane, 1949) cho biết sự phân bố địa lý của Thalassemie là do hiệu quả lựa chọn của bệnh sốt rét. Giả thuyết này được củng cố nhờ vào dữ liệu dịch tể học của Liberia (Willcox và cs., 1983). Trong những vùng sốt rét lưu hành, yếu tố dị hơp tử chẳng hạn mang gen Thalassemie, tính đa hình của hồng cầu giờ đây là bằng chứng phù hợp cho giả thuyết sốt rét, bao gồm thiếu máu h ình liềm, thiếu máu do tan máu thiếu G6PDH,
  20. nhóm máu Duffy và bệnh lý hồng cầu hình ô van cũng như hồng cầu bị biến dạng thì thoái hoá kháng lại sự xâm nhập của KSTSR P.falciparum. Việc giám sát những đối tượng thiếu men G6PDH tương đối khó vì không phải bao giờ cũng biết hết các nguyên nhân gây ra tán huyết trên bệnh nhân. Hơn 300 biến thể của G6PDH được báo cáo trên thế giới, thường gặp tán huyết nặng trên những bệnh nhân dùng primaquine ở Vanuatu vào đầu những năm 1920 (Buxton và Hopkins., 1927). Gần đây, một số báo cáo tán huyết trong lòng mạch cấp sau điều trị sốt rét với phác đồ chuẩn có primaquine (Reeve và cs., 1992). Một giả thuyết có thể xem là hợp lý ở trong vùng lưu hành sốt rét là di truyền và đến nay tỷ lệ thiếu men G6PDH có thể hoặc là ổn định, “ngủ đông” hoặc tiếp tục gia tăng tuỳ vùng địa lý. Về tính đa hình cũng như di truyền gen G6PDH, đột biến gen của những người thiếu men này với tiểu huyết sắc tố và những người thiếu men này nhưng không tiểu huyết sắc tố để xem đột biến mới trên gen G6PDH trên quần thể người Việt Nam là một alen hay một nhóm alen đột biến thông qua kỹ thuật sinh học phân tử là PCR, sau đó xác đ ịnh tínhđa hình bằng cấu trúc mạch đơn DNA qua phương pháp SSCP (Single strand Conformation polymorphisme) đ ể sàng lọc tính đa hình của gen G6PDH, những đoạn DNA có chứa đột biến sau đó xác định trình tự chuỗi DNA khi đó mới có thể hiểu hết vấn đề đột biến gen G6PDH. Thiếu men G6PDH và sốt rét tiểu huyết cầu tố
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2