intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực hiện công bằng xã hội - nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị trường ở Việt Nam

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

101
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mô hình phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam được xác định là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường là sự can thiệp của nhà nước và xã hội theo hướng nhằm tới sự phát triển không chỉ về kinh tế, mà cả về xã hội, văn hóa và môi trường. Thực hiện công bằng xã hội là một nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa đó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực hiện công bằng xã hội - nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị trường ở Việt Nam

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI - NỘI DUNG CƠ BẢN<br /> CỦA ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI<br /> KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM<br /> NGUYỄN NGỌC HÀ*<br /> PHẠM QUỐC THỚI**<br /> <br /> Trên thế giới hiện nay có hai mô hình cơ<br /> bản về kinh tế thị trường. Mô hình thứ nhất<br /> chỉ coi trọng phát triển kinh tế mà không coi<br /> trọng phát triển xã hội, văn hóa và môi<br /> trường. Mô hình thứ hai vừa coi trọng phát<br /> triển kinh tế vừa coi trọng phát triển xã hội,<br /> văn hóa và môi trường. Một số quốc gia đi<br /> theo mô hình thứ nhất tuy có sự phát triển<br /> nhanh về kinh tế nhưng lại phải đối mặt với<br /> nhiều vấn đề nan giải về xã hội, văn hóa, môi<br /> trường và do đó không có sự phát triển bền<br /> vững về kinh tế. Mô hình phát triển kinh tế thị<br /> trường của Việt Nam được xác định là kinh tế<br /> thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định<br /> hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường<br /> là sự can thiệp của nhà nước và xã hội theo<br /> hướng nhằm tới sự phát triển không chỉ về<br /> kinh tế, mà cả về xã hội, văn hóa và môi<br /> trường. Thực hiện công bằng xã hội là một<br /> nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ<br /> nghĩa đó.*<br /> 1. Nội dung công bằng xã hội trong định<br /> hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế<br /> thị trường<br /> Phát triển về kinh tế và thực hiện công<br /> bằng xã hội là mục đích nhất quán và xuyên<br /> suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa<br /> xã hội là xã hội lý tưởng mà Đảng Cộng sản<br /> Việt Nam phấn đấu xây dựng ngay từ khi<br /> thành lập. Ngay từ khi đó (chứ không phải chỉ<br /> đến bay giờ), chủ nghĩa xã hội đã được hiểu<br /> là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công<br /> bằng, tự do, văn minh, hạnh phúc. Công bằng<br /> *<br /> <br /> PGS.TS. Viện Triết học<br /> NCS. Học viện Khoa học xã hội<br /> <br /> **<br /> <br /> là nội dung quan trọng trong mục tiêu chung<br /> của chủ nghĩa xã hội.<br /> Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội<br /> trước đổi mới (1954-1986), Đảng Cộng sản<br /> Việt Nam chủ trương xoá bỏ kinh tế thị<br /> trường vì theo quan niệm của Đảng lúc đó và<br /> cũng là quan niệm chung của nhiều Đảng<br /> Cộng sản khác thì kinh tế thị trường hàng<br /> ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản, chủ<br /> nghĩa tư bản là xã hội bất công, xóa bỏ kinh<br /> tế thị trường là điều kiện cần để có được công<br /> bằng xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế việc xóa<br /> bỏ kinh tế thị trường đã làm cho sản xuất trì<br /> trệ, đời sống nhân dân thấp kém, đất nước<br /> lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội.<br /> Đây là một căn bệnh chung của tất cả các<br /> nước xã hội chủ nghĩa.<br /> Trước tình hình đó, từ năm 1986 Đảng<br /> Cộng sản Việt Nam chủ trương khôi phục<br /> kinh tế thị trường, nhờ vậy kinh tế tăng<br /> trưởng nhanh, đời sống nhân dân không<br /> ngừng được cải thiện, đất nước thoát khỏi<br /> cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội. Cùng với<br /> thành tựu đạt được về kinh tế trong quá trình<br /> phát triển kinh tế thị trường, khoảng cách<br /> giàu nghèo tăng hơn so với thời kỳ xóa bỏ<br /> kinh tế thị trường. Thực tế này đã làm nảy<br /> sinh nhiều ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất<br /> cho rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường<br /> không thể có công bằng xã hội và do đó cần<br /> trở lại con đường cũ là xóa bỏ kinh tế thị<br /> trường để khôi phục sự công bằng xã hội. Ý<br /> kiến thứ hai cho rằng, tuy trong điều kiện<br /> kinh tế thị trường không thể có được công<br /> bằng xã hội nhưng vẫn cần phải phát triển<br /> <br /> 34<br /> <br /> kinh tế thị trường, phải chấp nhận hy sinh<br /> công bằng xã hội để đổi lấy sự tăng trưởng<br /> kinh tế. Ý kiến thứ ba cho rằng, trong điều<br /> kiện kinh tế thị trường có thể và cần phải thực<br /> hiện được công bằng xã hội. Quan điểm của<br /> Đảng Cộng sản Việt Nam thuộc ý kiến thứ<br /> ba. Về điều này Văn kiện của Đảng viết như<br /> sau: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội<br /> ngay trong từng bước và từng chính sách phát<br /> triển: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển<br /> văn hoá, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các<br /> vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con<br /> người”1, “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã<br /> hội ngay trong từng bước và từng chính sách<br /> phát triển là một chủ trương lớn, nhất quán<br /> của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện bản chất<br /> tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa”2; “Chính<br /> sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người<br /> là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực<br /> sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây<br /> dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng,<br /> bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân;<br /> kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với<br /> phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ<br /> và công bằng xã hội trong từng bước và từng<br /> chính sách”3. Thực hiện công bằng xã hội<br /> ngay (chứ không phải đợi đến khi xóa bỏ<br /> kinh tế thị trường mới thực hiện công bằng xã<br /> hội) là quan điểm rất quan trọng của Đảng ta<br /> được thể hiện ở các đoạn trích trên.<br /> Như vậy, nếu trong giai đoạn trước đổi<br /> mới, con đường để đạt được công bằng xã hội<br /> là xóa bỏ kinh tế thị trường, thì trong giai<br /> đoạn từ đổi mới đến nay, con đường để đạt<br /> được công bằng xã hội là phát triển kinh tế thị<br /> trường. Mục tiêu công bằng xã hội thì không<br /> thay đổi, nhưng con đường đi đến mục tiêu đó<br /> thì thay đổi. Với mục tiêu vừa chú trọng phát<br /> triển về kinh tế vừa chú trọng thực hiện công<br /> bằng xã hội, Nhà nước Việt Nam muốn định<br /> hướng sự phát triển kinh tế thị trường một<br /> cách bền vững (phát triển không chỉ về kinh<br /> tế, mà cả về xã hội, văn hóa và môi trường).<br /> Công bằng xã hội rõ ràng là nội dung cơ bản<br /> trong sự định hướng xã hội chủ nghĩa của<br /> Nhà nước.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2012<br /> <br /> 2. Quan niệm mới của Đảng Cộng sản<br /> Việt Nam về công bằng xã hội<br /> Thực hiện công bằng xã hội là mục đích<br /> nhất quán và xuyên suốt của Đảng Cộng sản<br /> Việt Nam. Tuy nhiên, quan niệm về công<br /> bằng xã hội ở giai đoạn hiện nay khác với ở<br /> giai đoạn trước đổi mới. Trong giai đoạn<br /> trước đổi mới, khoảng cách giàu nghèo càng<br /> thu hẹp thì càng được coi là công bằng xã hội,<br /> nói cách khác lúc đó công bằng xã hội bị<br /> đồng nhất với bình đẳng xã hội. V.I.Lênin<br /> cũng có quan điểm đồng nhất công bằng xã<br /> hội với bình đẳng xã hội. Cụ thể V.I.Lênin<br /> viết: “Cho nên, giai đoạn đầu của chủ nghĩa<br /> cộng sản chưa thể thực hiện được công bằng<br /> và bình đẳng: về mặt của cải, thì vẫn còn<br /> chênh lệch, mà những chênh lệch ấy là bất<br /> công, nhưng tình trạng người bóc lột người<br /> thì không thể có nữa, vì không ai có thể<br /> chiếm tư liệu sản xuất, công xưởng, máy<br /> móc, đất đai, v.v làm của riêng được. Trong<br /> khi bác bỏ câu nói mơ hồ và tiểu tư sản của<br /> Latxan về “bình đẳng” và “công bằng” nói<br /> chung, Mác vạch ra tiến trình phát triển của<br /> xã hội cộng sản, xã hội này thoạt đầu bắt<br /> buộc phải phá huỷ chỉ riêng cái “điều bất<br /> công” này: việc cá nhân chiếm hữu tư liệu sản<br /> xuất làm của riêng, nhưng không đủ sức phá<br /> huỷ ngay điều bất công khác nữa, tức là việc<br /> phân phối vật phẩm tiêu dùng “theo lao động”<br /> (chứ không theo nhu cầu)”4. Trong đoạn trích<br /> trên, V.I.Lênin quan niệm rằng, còn chênh<br /> lệch về của cải là còn bất công; giai đoạn đầu<br /> của xã hội cộng sản tương lai do thực hiện<br /> nguyên tắc phân phối theo lao động nên<br /> không còn bóc lột nhưng vẫn còn chênh lệch<br /> về của cải và do đó vẫn còn bất công. Theo<br /> quan niệm đó về công bằng xã hội thì trong<br /> điều kiện kinh tế thị trường (dù đó là điều<br /> kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ<br /> nghĩa) thì vẫn còn bất công.<br /> Trong giai đoạn từ đổi mới đến nay, Đảng<br /> Cộng sản Việt Nam không đồng nhất công<br /> bằng xã hội với bình đẳng xã hội. Bởi vì, như<br /> đã nói ở trên, Đảng cho rằng trong nền kinh tế<br /> thị trường tuy có sự chênh lệch về của cải<br /> <br /> Thực hiện công bằng xã hội...<br /> <br /> nhưng vẫn có thể và cần thực hiện ngay công<br /> bằng xã hội. Đây là sự đổi mới nhận thức<br /> quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam so<br /> với lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về<br /> công bằng xã hội.<br /> 3. Nguyên tắc phân phối để thực hiện<br /> công bằng xã hội<br /> Để thực hiện công bằng xã hội thì cần xác<br /> định nguyên tắc phân phối phù hợp. Theo<br /> quan niệm cũ về công bằng xã hội (quan niệm<br /> đồng nhất công bằng xã hội với bình đằng xã<br /> hội), để thực hiện công bằng xã hội thì cần<br /> thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu cầu<br /> (và phải đợi đến giai đoạn cao của xã hội<br /> cộng sản mới thực hiện được nguyên tắc phân<br /> phối này). Còn theo quan niệm mới về công<br /> bằng xã hội (quan niệm không đồng nhất<br /> công bằng xã hội với bình đằng xã hội), để<br /> thực hiện công bằng xã hội thì cần thực hiện<br /> đúng nguyên tắc phân phối của nền kinh tế thị<br /> trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là:<br /> “Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết<br /> quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo<br /> mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác<br /> và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi<br /> xã hội”5.<br /> Nếu thực hiện nguyên tắc phân phối do<br /> Đại hội XI xác định như trên thì giá trị của<br /> tổng sản phẩm xã hội sẽ được chia thành ba<br /> phần: phần thứ nhất được dành để tái sản xuất<br /> và để giải quyết các vấn đề xã hội chung, để<br /> đóng góp vào quỹ phúc lợi xã hội (từ đó phân<br /> phối thông qua hệ thóng an sinh xã hội và<br /> phúc lợi xã hội); phần thứ hai sẽ được phân<br /> phối cho các cá nhân theo mức cống hiến<br /> bằng sức lao động của họ cho xã hội (bao<br /> gồm cả cống hiến bằng sức lao động chân tay<br /> và cống hiến bằng sức lao động trí óc, cống<br /> hiến của người lao động quản lý và người lao<br /> động không tham gia quản lý, cống hiến của<br /> người lao động trực tiếp và cống hiến của<br /> người lao động gián tiếp cho quá trình sản<br /> xuất của xã hội, tức là cống hiến của tất cả<br /> những người lao động làm việc trong mọi lĩnh<br /> vực không thể thiếu của xã hội); phần thứ ba<br /> <br /> 35<br /> <br /> sẽ được phân phối cho các cá nhân theo mức<br /> cống hiến vốn. Tỷ lệ giữa ba phần này được<br /> xác định căn cứ vào tình hình cụ thể của từng<br /> địa phương và từng giai đoạn. Những người<br /> vừa có cống hiến vốn vừa tham gia lao động<br /> thì được hưởng ở cả 3 phần nói trên. Những<br /> người tham gia lao động mà không có cống<br /> hiến vốn thì chỉ được hưởng ở phần thứ nhất<br /> và phần thứ hai. Những người không có lao<br /> động và không có cống hiến vốn thì chỉ được<br /> hưởng ở phần thứ nhất. Trong 3 phần trên,<br /> phần thứ nhất là rất quan trọng vì xã hội nào<br /> cũng phải tái sản xuất và giải quyết các vấn<br /> đề xã hội chung (như khắc phục thiên tai,<br /> dịch bệnh…), hơn nữa xã hội nào cũng có<br /> những người không có sức lao động và không<br /> có vốn (những người không nơi nương<br /> tựa…). Việc dành một phần thu nhập (với tỷ<br /> lệ phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng<br /> nước) để phân phối cho những người thuộc<br /> diện này là chính sách nhân đạo mà các nhà<br /> nước đều thực hiện, chính sách này được mọi<br /> người ủng hộ và được coi là công bằng vì đó<br /> là điều cần thiết đối với sự phát triển xã hội.<br /> Nguyên tắc phân phối mà Đại hội XI xác định<br /> thừa nhận tính công bằng của sự phân phối<br /> theo mức đóng góp vốn. Tiền lãi thu được sau<br /> khi cho vay (cho các ngân hàng hoặc cho các<br /> tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay) hoặc tiền<br /> lãi thu được từ cổ phần đóng góp vào các<br /> doanh nghiệp cổ phần là hình thức dễ nhìn<br /> thấy của thu nhập do góp vốn. Tiền lãi này ở<br /> mức độ hợp lý là công bằng. Nguyên tắc phân<br /> phối do Đại hội XI xác định là sự đổi mới<br /> quan trọng trong tư duy về nguyên tắc phân<br /> phối vì mục tiêu công bằng xã hội.<br /> 4. Khoảng cách giữa mong muốn và thực<br /> tế trong việc thực hiện công bằng xã hội<br /> Về lý thuyết phát triển thì Việt Nam chủ<br /> trương thực hiện công bằng xã hội và nguyên<br /> tắc phân phối do Đại hội XI xác định là công<br /> bằng. Nhưng trên thực tế thì mục tiêu bảo đảm<br /> công bằng xã hội vẫn chưa đạt được như mong<br /> muốn do chưa thực hiện đúng nguyên tắc phân<br /> phối đã nêu. Việt Nam hiện vẫn đang phải đối<br /> mặt với nhiều vấn đề xã hội nan giải, trong đó<br /> <br /> 36<br /> <br /> có vấn đề bảo đảm công bằng xã hội. Số hộ<br /> cận nghèo còn nhiều, tỷ lệ hộ tái nghèo hàng<br /> năm còn cao. Đời sống của một bộ phận dân<br /> cư, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn<br /> nhiều khó khăn. Khoảng cách thu nhập của các<br /> tầng lớp dân cư còn lớn. Tình trạng thiếu việc<br /> làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hoá và thất<br /> nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực cho<br /> an sinh xã hội và phúc lợi xã hội còn hạn chế,<br /> chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện<br /> bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp. Các hình thức<br /> bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng<br /> của người dân6.<br /> Trong những năm phát triển kinh tế thị<br /> trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều<br /> người giàu lên nhanh chóng. Một số người<br /> giàu lên bằng sự cấu kết giữa quyền lực chính<br /> trị và tài chính hình thành quyền lợi phe nhóm,<br /> bằng tham nhũng. Một số là do kinh doanh<br /> hợp pháp. Một số người khác giàu lên bằng<br /> cách vi phạm pháp luật như buôn lậu, trốn<br /> thuế. Nếu như trong thời kỳ trước đổi mới tình<br /> trạng bất công bằng xã hội xuất hiện do sự<br /> phân phối cào bằng thì ngày nay nguyên nhân<br /> hàng đầu gây ra tình trạng bất công xuất hiện<br /> là sự làm giàu bất hợp pháp, đặc biệt là tham<br /> nhũng7. Tham nhũng là nguyên nhân chủ yếu<br /> gây ra tình trạng bất công bằng hiện nay. Một<br /> nguyên nhân quan trọng khác gây ra tình trạng<br /> bất công bằng là sự bất hợp lý trong phân phối.<br /> Bất công do phân phối bất hợp lý là bất công<br /> hợp pháp. Nhận diện sự bất công hợp pháp<br /> phức tạp hơn nhận diện sự bất công phi pháp.<br /> Trong thời kỳ trước đổi mới việc thực hiện sự<br /> phân phối bình quân là bất công. Còn trong<br /> thời kỳ đổi mới, tuy đã xoá bỏ sự phân phối<br /> bình quân nhưng trên thực tế vẫn chưa thực<br /> hiện được sự công bằng vì có sự bất hợp pháp<br /> và sự bất hợp lý trong phân phối. Khắc phục<br /> sự bất công này trước hết là trách nhiệm của<br /> Nhà nước.<br /> Bảo đảm công bằng xã hội là một nội dung<br /> cơ bản của tính định hướng xã hội chủ nghĩa<br /> đối với nền kinh tế thị trường. Với nội dung<br /> đó, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã<br /> hội chủ nghĩa là tốt đẹp. Nhiều quốc gia tuy<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2012<br /> <br /> không sử dụng thuật ngữ “kinh tế thị trường<br /> định hướng xã hội chủ nghĩa” nhưng cũng<br /> chủ trương thực hiện công bằng xã hội và cơ<br /> bản đã đảm bảo được an sinh xã hội cho mọi<br /> người. Điều đó có nghĩa rằng, cách nói thì<br /> khác nhau nhưng mục đích thì có thể giống<br /> nhau. Mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam<br /> là thực hiện ngay công bằng xã hội. Tuy<br /> nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn chưa có được<br /> công bằng xã hội. Để có được công bằng xã<br /> hội thì Việt Nam cần phải đẩy mạnh cuộc đấu<br /> tranh chống tham nhũng, tăng cương kỷ<br /> cương pháp luật, khắc phục những bất hợp lý<br /> trong phân phối của cải, hoàn thiện hệ thống<br /> an sinh xã hội.<br /> ___________________<br /> Chú thích<br /> 1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu<br /> toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,<br /> tr.77-78<br /> 2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu<br /> toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,<br /> 2011, tr.43.<br /> 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn<br /> quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia, hà Nội, 2011,<br /> tr.79-80<br /> 4. V.I. Lênin, Toàn tập, t.33, Nxb Tiến bộ, M., 1976,<br /> tr.114-115<br /> 5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu<br /> toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,<br /> 2011, tr.206.<br /> 6. Xem: Nguyễn Tấn Dũng, Bảo đảm ngày càng tốt hơn an<br /> sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của<br /> chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Tạp chí<br /> Cộng sản điện tử, 24/8/2010, số 16 (208), năm 2010.<br /> 7. Chưa có công trình nghiên cứu khoa học thực sự về thực<br /> trạng tham nhũng ở Việt Nam. Tuy nhiên, một số tổ chức cũng<br /> đã có nhận định cảm tính về tình hình tham nhũng ở Việt<br /> Nam. Chẳng hạn, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (có trụ sở ở<br /> Đức) từ năm 1995 đã cho điểm và xếp hạng tham nhũng của<br /> các quốc gia. Năm 2004 Việt Nam được 2,6 điểm và xếp hạng<br /> 102 trong 146 nước được đánh giá. Đứng đầu danh sách này là<br /> Phần Lan với 9,7 điểm. Đứng cuối danh sách này là Haiti với<br /> 1,5 điểm. Không có nước nào đạt điểm 10 là điểm tuyệt đối.<br /> Xem: Vietnamnet, ngày 5-12-2004.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2