CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
<br />
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH DÂN TỘC THÔNG QUA<br />
HỆ THỐNG HÓA VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC NGHIÊN CỨU<br />
LIÊN QUAN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY*<br />
Trịnh Quang Cảnh<br />
<br />
Học viện Dân tộc; Email: trinhquangcanh@cema.gov.vn<br />
Thông tin chung<br />
Ngày nhận bài: 1/10/2018<br />
Ngày phản biện: 22/10/2018<br />
Ngày duyệt đăng: 7/11/2018<br />
Title<br />
CURRENT STATUS OF ETHNIC POLICY<br />
THROUGH SYSTEMATIZATION AND<br />
ASSESSMENT OF RELATED RESEARCH<br />
FROM 1986 TO PRESENT<br />
Từ khóa<br />
Kết quả nghiên cứu; Nghiên cứu chính sách<br />
dân tộc; Hệ thống hóa các nghiên cứu về<br />
chính sách dân tộc ở Việt Nam; Định hướng<br />
giải pháp xây dựng và tổ chức thực hiện<br />
chính sách dân tộc; Thực trạng chính sách<br />
dân tộc.<br />
Keywords<br />
Research results; Ethnic policy research;<br />
To systematize studies on ethnic policies in<br />
Vietnam; Orienting solutions for building<br />
and organizing the implementation of ethnic<br />
policies; Current status of ethnic policy.<br />
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay<br />
(1986), đã có nhiều công trình nghiên cứu về chính<br />
sách dân tộc, các công trình đã cung cấp những cứ<br />
luận khoa học làm cơ sở cho việc tiếp tục nghiên<br />
cứu xây dựng, hoàn thiện chính sách dân tộc ở Việt<br />
Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu còn bộc<br />
lộ những hạn chế nhất định.<br />
Các nghiên cứu về chính sách dân tộc (CSDT)<br />
từ năm 1986 đến nay được phân theo 3 nội dung với<br />
tổng số 975 nghiên cứu. Trong đó, các nghiên cứu<br />
chính sách dân tộc theo lĩnh vực (611 nghiên cứu);<br />
các nghiên cứu chính sách theo vùng (242 nghiên<br />
cứu); các nghiên cứu chính sách dân tộc theo tộc<br />
người (122 nghiên cứu).<br />
<br />
T<br />
<br />
ừ năm 1986 đến nay đã có nhiều công trình<br />
khoa học nghiên cứu về chính sách dân tộc ở<br />
những phạm vi, mức độ, thời gian và không gian khác<br />
nhau. Kết quả nghiên cứu đã đạt được những thành<br />
tựu hết sức quan trọng, tuy nhiên, vẫn còn những tồn<br />
tại hạn chế nhất định cần khắc phục. Trước bối cảnh<br />
thực tiễn nảy sinh đang đặt ra ở vùng dân tộc thiểu<br />
số và miền núi,trong điều kiện mới đòi hỏi cần nghiên<br />
cứu, tổng kết đánh giá những kết quả đã đạt được, chỉ<br />
ra những hạn chế trong những công trình khoa học<br />
đã nghiên cứu, làm cơ sở tiếp tục nghiên cứu bổ sung,<br />
phát triển chính sách dân tộc, đáp ứng nhiệm vụ cách<br />
mạng trong giai đoạn mới.<br />
Abstract<br />
From 1986 up to now, there have been many<br />
scientific researches on ethnic policy in different<br />
areas, levels, time and space. The results of the<br />
research have achieved important achievements,<br />
however, there are still some shortcomings and<br />
certain limitations need to overcome. In the<br />
context of emerging realities in ethnic minority and<br />
mountainous areas, new conditions require research,<br />
review and evaluation of achieved results, indicating<br />
the constraints in the projects. scientific researches,<br />
which will serve as a basis for further researching,<br />
supplementing and developing national policies,<br />
meeting the revolutionary tasks in the new period.<br />
Có thể thấy rằng, các nghiên cứu thời gian qua<br />
chủ yếu quan tâm đến các lĩnh vực xóa đói giảm<br />
nghèo (88 nghiên cứu) và văn hóa xã hội (120<br />
nghiên cứu) vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Vấn<br />
đề môi trường và biến đổi khí hậu đang ngày càng<br />
tác động mạnh mẽ đến đời sống đồng bào dân tộc<br />
thiểu số, vì vậy cũng đã có nhiều nghiên cứu quan<br />
tâm đến lĩnh vực này (108 nghiên cứu).<br />
Các nghiên cứu về chính sách dân tộc khá đa<br />
dạng, không chỉ tập trung vào các lĩnh vực mà còn<br />
tập trung nghiên cứu để cung cấp cơ sở khoa học<br />
phục vụ xây dựng chính sách theo vùng. Trong đó<br />
những vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn luôn nhận<br />
được sự quan tâm, nghiên cứu của các cơ quan, nhà<br />
<br />
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp quốc gia: “Hệ thống hóa và đánh giá các nghiên<br />
cứu về chính sách dân tộc của Việt Nam từ năm 1986 đến nay”. Mã số: CTDT 06.16/16-20.<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
11<br />
<br />
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
khoa học. Trong số 242 nghiên cứu chính sách theo<br />
vùng thì nhiều nhất là nghiên cứu chính sách dân<br />
tộc ở vùng Tây Nguyên (145 nghiên cứu); Tây Bắc<br />
(33 nghiên cứu)... Trong khuôn khổ, phạm vi bài<br />
viết, tác giả tổng hợp một số kết quả, đánh giá về<br />
thực trạng chính sách thông qua hệ thống hóa và<br />
đánh giá các nghiên cứu về chính sách dân tộc từ<br />
năm 1986 đến nay ở Việt Nam.<br />
1. Các nghiên cứu đã chỉ ra một số bất cập,<br />
hạn chế trong xây dựng và thực hiện chính sách<br />
dân tộc<br />
Thứ nhất, về xây dựng và tổ chức thực hiện<br />
chính sách dân tộc<br />
Các vấn đề đặt ra trong xây dựng và thực hiện<br />
CSDT liên quan đến yêu tố về nguồn lực, hoạt động<br />
điều phối, năng lực trong thực hiện CSDT được<br />
nhắc nhiều hơn cả. Mặc dù, hệ thống CSDT từ năm<br />
1986 đến nay được đánh giá là khá đầy đủ, hoàn<br />
thiện nhưng có hạn chế, tồn tại luôn được chỉ ra<br />
trong các nghiên cứu đó là sự chồng chéo của hệ<br />
thống CSDT và chính điều này đang gây cản trở<br />
trong việc thực hiện các mục tiêu của các CSDT.<br />
Giảm sự chồng chéo trong hệ thống CSDT đang<br />
là một trong những vấn đề cần được ưu tiên trong<br />
CSDT hiện nay.<br />
Sự chồng chéo trong hệ thống CSDT dẫn tới<br />
việc điều phối chính sách này trên thực tế gặp khó<br />
khăn. Các CSDT được thiết kế theo ngành, lĩnh vực<br />
khá độc lập với nhau, thiếu sự gắn kết các chính<br />
sách trong một ngành (giáo dục, y tế...) và giữa các<br />
ngành khác nhau tạo ra tính phân tán. Chồng chéo<br />
trong chính sách, không thể thực hiện việc điều phối<br />
chung để đạt được hiệu quả một cách toàn diện và<br />
tổng thể1. Theo báo cáo rà soát các chính sách dân<br />
tộc và đề xuất xây dựng hệ thống CSDT đến năm<br />
2020 do Ủy ban Dân tộc (UBDT) và Chương trình<br />
phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) thực hiện cho<br />
thấy: Hệ thống CSDT đến năm 2011, có tổng cộng<br />
187 chính sách khác nhau ở cấp độ Trung ương do<br />
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành. Trong<br />
đó, số lượng Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ<br />
ban hành là 44 văn bản, đế cập gần như toàn diện<br />
các vấn đề từ giảm nghèo, y tế, giáo dục, dạy nghề,<br />
sản xuất, tín dụng... Riêng với 143 Quyết định được<br />
Thủ tướng Chính phủ ban hành hiện đang còn hiệu<br />
lực và phân chia thành 2 nhóm đó là (i) nhóm phát<br />
triển kinh tế - xã hội theo vùng (46 Quyết định).<br />
(ii) Nhóm phát triển kinh tế - xã hội theo lĩnh vực,<br />
theo ngành (97 Quyết định). Trong đó, nhiều nhất<br />
là nhóm chính sách về phát triển giao thông vận tải,<br />
tín dụng.<br />
Việc chồng chéo về CSDT thể hiện ở ba khía<br />
cạnh chính là nội dung, đối tượng thụ hưởng và<br />
thời gian thực hiện chính sách trên cùng một địa<br />
bàn. Ví dụ, về nội dung, có tới 6 chính sách hỗ trợ<br />
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Về<br />
Ủy ban Dân tộc, UNDP& Irish aid, (2017), Báo cáo Tổng quan thực trạng<br />
kinh tế - xã hội của 53 Dân tộc thiểu số dựa trên kết quả phân tích số liệu điều<br />
tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015, tr 35.<br />
1.<br />
<br />
12<br />
<br />
đối tượng thụ hưởng, hộ nghèo dân tộc thiểu số<br />
(DTTS) ở Đồng bằng sông Cửu Long là nhóm đối<br />
tượng hưởng nhiều chính sách nhất về giảm nghèo,<br />
do ngoài chính sách chung, còn có một chính sách<br />
riêng, mang tính đặc thù theo Quyết định 74/2008/<br />
QĐ-TTg ngày 09/06/2008 của Thủ tướng Chính<br />
phủ về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất<br />
sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào DTTS<br />
nghèo, đời sống khó khăn vùng Đồng bằng sông<br />
Cửu Long giai đoạn 2008-2010 và nay là Quyết<br />
định số 29/2013/QĐ-TTg ngày 20/5/2013. Riêng<br />
vấn đề chồng chéo về thời gian thực hiên chính<br />
sách trên cùng một địa bàn thể hiện rất rõ qua chính<br />
sách về nhà ở. Thống kê của báo cáo này cho thấy,<br />
có tới 6 chính sách hỗ trợ về nhà ở như 134/2004/<br />
QĐ-TTg, Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg, Quyết<br />
định số 167/2008/QĐ-TTg, Quyết định số 74/2008/<br />
QĐ-TTg, Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP...<br />
Thứ hai, vấn đề vốn và phân bổ nguồn lực<br />
Theo quy định, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu<br />
trách nhiệm huy động, phân bổ và quản lý các<br />
nguồn lực đầu tư trong khi đó với các nguồn vốn sự<br />
nghiệp do Bộ Tài chính quản lý và phân bổ. Điều<br />
này đồng nghĩa, các cơ quan quản lý nhà nước về<br />
công tác dân tộc như Ủy ban Dân tộc không có vai<br />
trò gì đáng kể trong phân bổ các nguồn lực tài chính<br />
cho các CSDT. Chình vì vậy, trong những năm qua<br />
một số CSDT được xây dựng trong bối cảnh nguồn<br />
lực không rõ ràng và hạn chế cho nên các nguồn lực<br />
tuy được bố trí nhưng ở mức thấp. Báo cáo Nghiên<br />
cứu rà soát chính sách dân tộc và đề xuất xây dựng<br />
hệ thống CSDT đến năm 2020 đã chỉ ra có hàng<br />
loạt các chính sách tín dụng cho người nghèo rơi<br />
vào tình trạng này. Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg<br />
ngày 5/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc<br />
cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào<br />
DTTS đặc biệt khó khăn. Theo chính sách thì vốn<br />
vay cho phát triển sản xuất mặc dù có lãi 0% nhưng<br />
định mức vay chỉ 5 triệu đồng/hộ. Theo một nghiên<br />
cứu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và<br />
UNDP thì chỉ có khoảng 20% số hộ nghèo được vay<br />
vốn vì nguồn vốn vay quá hạn chế. Tương tự vậy,<br />
đối với chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo<br />
theo Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg qua đánh giá<br />
chỉ có 30% người dân tiếp cận được các nguồn vốn<br />
của ngân hàng Chính sách xã hội2. Ngay cả đối với<br />
chương trình 30a, theo báo cáo này thì để đầu tư<br />
đủ hệ thống cơ sở hạ tầng cho một huyện, kinh phí<br />
cần khoảng 3.000 tỷ đồng3. Mặc dù, mức đầu tư<br />
này tính tới năm 2020 nhưng kinh phí qua các năm<br />
2009, 2010 mức kinh phí nhà nước đầu tư mới chỉ<br />
đạt 25 tỷ đồng, quá thấp so với nhu cầu và có thể<br />
dẫn tới nhiều tác động không tích cực trong việc đạt<br />
các mục tiêu giảm nghèo ở các huyện 30a. Hầu hết<br />
phân bổ nguồn lực cho các CSDT thường tập trung<br />
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và UNDP, (2009), Đề xuất khung<br />
chính sách hỗ trợ giảm nghèo cho các địa phương có tỷ lệ nghèo cao ở Đồng<br />
bằng Sông Cửu Long.<br />
3.<br />
Ủy ban Dân tộc và UNDP, (2012), Báo cáo nghiên cứu rà soát các chính<br />
sách dân tộc và đề xuất xây dựng hệ thống chính sách dân tộc thiểu số đến<br />
năm 2020, tr 31.<br />
2.<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
nhiều nhất là đầu tư cho cơ sở hạ tầng, điển hình<br />
là trong chương trình mục tiêu quốc gia (MTQD)<br />
về giảm nghèo và chương trình 135. Theo báo cáo<br />
đánh giá của Chương trình MTQG về giảm nghèo và<br />
Chương trình 135 thì giai đoạn 2011-2016 tập trung<br />
khoảng 60% nguồn lực của các dự án cho phát triển<br />
hệ thống cơ sở hạ tầng và định canh, định cư.<br />
Theo đánh giá, ngoài bố trí nguồn lực còn hạn<br />
chế, nguồn lực cho việc thực hiện chính sách dân<br />
tộc thường bố trí chậm so với kế hoạch hàng năm.<br />
Ví dụ, Quyết định số 1672/QĐ-TTg ngày 26 tháng<br />
9 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê<br />
duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội vùng các<br />
dân tộc: Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao”. Hầu hết<br />
phân bổ nguồn vốn thực hiện chính sách này còn<br />
chậm, có năm không bố trí nguồn vốn để thực hiện<br />
chính sách này.<br />
Thứ ba, vấn đề về năng lực cán bộ thực hiện<br />
chính sách dân tộc<br />
Hiệu quả của các chính sách dân tộc, ngoài sự<br />
phụ thuộc vào nguồn lực, cách tiếp cận và phương<br />
pháp thực hiện chính sách dân tộc thì còn phụ thuộc<br />
rất nhiều tới năng lực của cán bộ làm chính sách<br />
dân tộc ở các cấp và phụ thuộc vào quản lý nhà<br />
nước về công tác dân tộc. Những vấn đề có liên<br />
quan tới năng lực của cán bộ làm chính sách dân<br />
tộc ở cơ sở đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả<br />
thực hiện chính sách dân tộc. Vấn đề năng lực cán<br />
bộ thực hiện chính sách dân tộc được xuất hiện liên<br />
tục trong các khuyến nghị và giải pháp chỉ ra trong<br />
các nghiên cứu. Cụ thể, có nghiên cứu chỉ ra rằng<br />
“Một số cán bộ cơ sở chỉ chú trọng thực hiện chính<br />
sách dễ làm, có lợi cho bản thân và gia đình, không<br />
tích cực thực hiện các chính sách ít có lợi cho bản<br />
thân và gia đình, khó triển khai”. Đồng thời đó là sự<br />
phân cấp, phân quyền cho cán bộ cũng ảnh hưởng<br />
tới việc triển khai chính sách “Nhiều cán bộ cơ sở<br />
vẫn còn tư tưởng ngại phân cấp cho cấp dưới, nhất<br />
là việc phân cấp làm chủ đầu tư dự án”4.<br />
Thứ tư, chính sách chưa phù hợp với đặc điểm<br />
vùng và người dân tộc thiểu số<br />
Đây cũng là một trong những trở ngại của chính<br />
sách dân tộc được chỉ ra nhiều trong các nghiên<br />
cứu. Như chúng ta biết vùng DTTS có những đặc<br />
thù về địa hình, khí hậu và người DTTS có những<br />
đặc điểm rất đặc thù trong tập quán, thói quen sinh<br />
hoạt cũng như sản xuất. Do đó, các chương trình,<br />
chính sách không tính kỹ đến đặc điểm này sẽ<br />
không khả thi. Có nghiên cứu đã chỉ ra sự không<br />
phù hợp đó trong chính sách 135 giai đoạn II, “Hợp<br />
phần tập huấn có sự không phù hợp đó là mô hình<br />
thí điểm làm ở diện tích có điều kiện tương đối<br />
thuận lợi, trong khi thực tế nhiều mảnh ruộng ở địa<br />
hình rất cao, rất manh mún, thiếu nước tưới, không<br />
thể gùi phân lên cao, chỉ thực hiện bón phân 1 lần/<br />
vụ; không đủ vốn để đầu tư theo yêu cầu kỹ thuật;<br />
một số hộ có nội lực nhưng thấy quá vất vả, khó<br />
Lê Ngọc Thắng, (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách dân<br />
tộc, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.<br />
4.<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
khăn nên không làm theo. Hay chương trình giảm<br />
nghèo phát máy gặt lúa nhưng không sử dụng được<br />
do không phù hợp với địa hình và điều kiện canh tác<br />
của địa phương. Chính sách hỗ trợ việc làm chưa<br />
phù hợp với tập quán không thích xa nhà của người<br />
DTTS, do vậy nỗ lực xuất khẩu lao động không<br />
thực hiện được...”5. Có thể nói, sự phù hợp là điều<br />
quan trọng giúp cho việc thực thi chính sách hiệu<br />
quả, câu chuyện được bàn nhiều trong các nghiên<br />
cứu, chính sách có ý tưởng hay chưa hẳn đã phù<br />
hợp, cần đặt sự phù hợp, tập quán, thói quen trước<br />
khi nghĩ đến những giải pháp về mặt chính sách cho<br />
đồng bào DTTS.<br />
Thứ năm, hiệu quả chính sách chưa cao<br />
Mặc dù hệ thống chính sách đã bao phủ toàn<br />
bộ đời sống kinh tế xã hội vùng DTTS nhưng thực<br />
tế hiệu quả chính sách vẫn chưa như mong đợi.<br />
Theo các báo cáo nghiên cứu thì người DTTS vẫn<br />
là thuộc nhóm yếu thế, thể hiện ở chỗ: (i) Có sự cải<br />
thiện nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia<br />
tăng, nghèo đói dai dẳng trong các DTTS vẫn là vấn<br />
đề nổi cộm. (ii) Việc tiếp cận rất hạn chế đối với các<br />
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế nhất là các dịch vụ<br />
y tế miễn phí cho người DTTS.<br />
Như vậy, các nghiên cứu về CSDT trong thời kỳ<br />
đổi mới đề cập đến khá nhiều lĩnh vực, từ các vấn<br />
đề lý thuyết, quan điểm đến các vấn đề thực tiễn,<br />
đặc biệt là các vấn đề mới đang nảy sịnh, trên tất<br />
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ nghèo đói<br />
và giảm nghèo đến vấn đề đất đai; từ tái định cư<br />
khi xây dựng các công trình trọng điểm đến giải<br />
pháp sinh kế; từ y tế đến giáo dục; từ quan hệ dân<br />
tộc đến bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa; từ<br />
an sinh xã hội đến đời sống tôn giáo và sự xuất hiện<br />
các tôn giáo mới; từ môi trường đến chất lượng dân<br />
số; từ hệ thống chính trị đến công tác đào tạo cán<br />
bộ; từ biên giới cho đến hải đảo liên quan đến quốc<br />
phòng, an ninh... Xuất phát từ yêu cầu hỗ trợ, thúc<br />
đẩy nghiên cứu cơ bản, Quỹ Khoa học công nghệ<br />
Quốc gia cũng đã hỗ trợ triển khai hàng loạt các đề<br />
tài về vấn đề này. Mặc dù vậy, chính sách dân tộc<br />
cũng còn nhiều vấn đề cần được quan tâm, nghiên<br />
cứu sâu hơn trong tình hình và bối cảnh mới.<br />
2. Các nghiên cứu đã chỉ ra những vấn đề cần<br />
quan tâm nghiên cứu và ban hành chính sách<br />
Thứ nhất, về thành phần dân tộc trong mối<br />
quan hệ tổ chức thực hiện chính sách dân tộc<br />
Trong nghiên cứu chính sách dân tộc chúng ta<br />
cần nhận thức và tái nhận thức rõ vấn đề này việc<br />
tôn trọng các dân tộc trước hết phải tôn trọng sự<br />
hiện diện của các dân tộc. Cần được xem xét lại<br />
bảng danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam.<br />
Bản danh mục hiện nay đang sử dụng đã có cách<br />
đây gần 40 năm - là một trong những thành tựu<br />
quan trọng của giới khoa học xã hội nói chung và<br />
ngành dân tộc học nói riêng. Hiện nay, do xã hội<br />
Ủy ban Dân tộc và UNDP, (2012), Báo cáo nghiên cứu rà soát các chính<br />
sách dân tộc và đề xuất xây dựng hệ thống chính sách dân tộc thiểu số đến<br />
năm 2020, tr.39<br />
5.<br />
<br />
13<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
đã phát triển, trình độ dân trí ngày càng cao, tự ý<br />
thức dân tộc, nhóm địa phương càng phát triển và<br />
vấn đề này luôn gắn với chính sách dân tộc, tổ chức<br />
thực hiện chính sách dân tộc nên việc xem xét lại<br />
bản danh mục thành phần các dân tộc ở nước ta<br />
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn cho việc hoạch<br />
định chính sách dân tộc, đáp ứng hài hòa lợi ích tộc<br />
người và lợi ích quốc gia.<br />
Thứ hai, cần nghiên cứu và quán triệt chính<br />
sách phát triển tộc người đối với các tộc người<br />
thiểu số, giải quyết hài hòa giữa lợi ích tộc người<br />
và lợi ích quốc gia, giữa phát triển kinh tế - xã hội<br />
và đảm bảo quốc phòng, an ninh<br />
Từ những vấn đề dân tộc luôn được coi là vấn đề<br />
chiến lược nặng về tính chất chính trị trong các giai<br />
đoạn cách mạng trước đây ở nước ta, nay chuyển<br />
sang vấn đề chiến lược của chính sách dân tộc mà<br />
trọng tâm là về kinh tế và phát triển. Vấn đề tôn<br />
trọng, coi trọng các dân tộc, đời sống, sinh hoạt của<br />
họ cả trong nhận thức lẫn trong việc làm từ chính<br />
sách đầu tư, hoạch định các chính sách, đến xây<br />
dựng và triển khai các chương trình, dự án là hết<br />
sức cần thiết.<br />
Thứ ba, đa dạng hóa chính sách trong phát triển<br />
Từ thực tiễn của đất nước đa dân tộc, mỗi dân<br />
tộc có những đặc điểm lịch sử, kinh tế, xã hội, văn<br />
hoá riêng; điều kiện tự nhiên mỗi vùng, mỗi dân tộc<br />
một khác dẫn đến việc chính sách dân tộc và những<br />
chủ trương, biện pháp thực hiện các chính sách đó<br />
phải rất đa dạng, phù hợp với từng vùng, từng dân<br />
tộc hay nhóm dân tộc; tạo ra nhiều cách lựa chọn,<br />
nhiều cách đi, nhiều cách giải quyết đối với mỗi vấn<br />
đề, mỗi vùng, mỗi dân tộc.<br />
Thứ tư, đánh giá tổng kết chính sách dân tộc<br />
trong vấn đề dân tộc<br />
Cho đến thời điểm hiện nay, việc đẩy mạnh công<br />
tác nghiên cứu, phân tích chính sách và các biện<br />
pháp thực hiện các chính sách để rút ra những bài<br />
học về thành công trong thực hiện chính sách dân<br />
tộc, đặc biệt phân tích và rút ra những bài học kinh<br />
nghiệm trên thực tiễn phải trả giá về cách triển khai<br />
các biện pháp rập khuôn không phù hợp với thực<br />
tiễn vùng dân tộc và từng dân tộc đã trở thành vấn<br />
đề cấp thiết.<br />
Thứ năm, nghiên cứu các chính sách về bảo<br />
tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc phục<br />
vụ phát triển bền vững<br />
Văn hoá và các giá trị truyền thống (không phải<br />
chỉ là giáo dục, hay các hình thức bên ngoài của<br />
văn hoá như trang phục, nghi lễ, các kiểu nhà ở...)<br />
của các dân tộc cần được coi là động lực phát triển<br />
kinh tế - xã hội ở các dân tộc, vùng dân tộc thiểu số<br />
và miền núi. Văn hóa như Đảng ta xác định là nền<br />
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là<br />
động lực phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc<br />
tế. Đây là một quan điểm cốt lõi và xác định vị trí<br />
hàng đầu của văn hóa dân tộc. Thực thể tinh thần,<br />
di sản vật chất và tinh thần cần được tôn trọng và<br />
<br />
14<br />
<br />
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
phát huy đầy đủ không phải chỉ trên lĩnh vực văn<br />
hoá mà còn có ý nghĩa sâu rộng trong tất cả các lĩnh<br />
vực, các ngành. Việc xây dựng bất cứ chương trình,<br />
dự án phát triển nào cũng cần phải quán triệt quan<br />
điểm thực sự kế thừa và phát triển các giá trị văn<br />
hoá truyền thống các dân tộc, của mỗi dân tộc; phải<br />
có cái nhìn xuất phát từ nền văn hoá của mỗi dân<br />
tộc, mỗi vùng. Chúng ta cần có quan điểm nghiên<br />
cứu và kế thừa một cách thực sự những ứng xử văn<br />
hoá, những kiến thức, tri thức địa phương, hệ thống<br />
quản lý cộng đồng truyền thống của mỗi dân tộc<br />
trong phát triển .<br />
Thứ sáu, về chủ thể văn hóa và chủ thể phát<br />
triển trong quá trình xây dựng và triển khai<br />
chính sách<br />
Thực tế phát triển cho thấy, chủ thể dân tộc thiểu<br />
số, chủ thể kinh tế, xã hội, văn hoá có vai trò, tiếng<br />
nói quyết định đối với sự phát triển của mình thông<br />
qua các chương trình, dự án và do đó trong chiến<br />
lược phát triển hiện nay phải xây dựng quan niệm<br />
về chủ nhân, chủ thể văn hoá. Quan niệm và chỉ đạo<br />
thực hiện phải làm cho thực sự người dân có tiếng<br />
nói quyết định, không áp đặt dưới mọi hình thức đối<br />
với vấn đề phát triển của từng dân tộc, từng cộng<br />
đồng. Vấn đề quan trọng chủ yếu là chủ thể phải tự<br />
nhận thức, tự thấy nhu cầu phải đổi mới, thay đổi và<br />
phát triển. Nhà nước, các tổ chức xã hội, phi chính<br />
phủ không được gò ép, làm thay, áp đặt. Xây dựng<br />
tự ý thức của mỗi người dân đối với sự phát triển là<br />
yêu cầu sống còn đối với phát triển của mỗi dân tộc.<br />
Thứ bảy, đánh giá và xây dựng cơ sở lý luận<br />
cho việc thiết kế hệ thống các chương trình quốc<br />
gia, các dự án trong mục tiêu phát triển trước mắt<br />
cũng như lâu dài<br />
Cần phải tập trung: Xây dựng hệ thống quan<br />
điểm lý luận, chính sách phát triển lâm nghiệp; vấn<br />
đề quản lý và sử dụng đất ở vùng dân tộc thiểu số<br />
và miền núi; nghiên cứu, đề xuất chính sách giải<br />
quyết vấn đề phát triển thị trường; xây dựng hệ<br />
thống quan điểm lý luận, chính sách và giải pháp về<br />
an sinh xã hội, vấn đề sức khoẻ cộng đồng, y tế phù<br />
hợp với điều kiện các dân tộc thiểu số và miền núi.<br />
Vấn đề đưa tiến bộ kỹ thuật vào vùng dân tộc trong<br />
điều kiện cần được nghiên cứu phù hợp với môi<br />
trường địa lý tự nhiên, điều kiện sinh thái và con<br />
người các dân tộc thiểu số và miền núi. Xây dựng<br />
các chính sách trong chương trình xây dựng nông<br />
thôn mới đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi,<br />
không thể dập khuôn, máy móc.<br />
Thứ tám, nghiên cứu, xây dựng chiến lược<br />
phát triển con người và đội ngũ cán bộ người dân<br />
tộc thiểu số, đa dạng hoá việc xây dựng và đào<br />
tạo nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số để có thể<br />
phát huy có hiệu quả nội lực của các dân tộc<br />
Vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực<br />
là một trong những vấn đề có nội dung tổng hợp,<br />
liên quan đến nhiều lĩnh vực, có vị trí quan trọng<br />
hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
Miền núi và vùng các dân tộc thiểu số là khu vực<br />
giàu tiềm năng và có vị trí đặc biệt trong quá trình<br />
công nghiệp hóa nhưng cũng có không ít khó khăn<br />
trong quá trình phát triển. Việc giải bài toán phát<br />
triển nguồn nhân lực không thể thực hiện một cách<br />
đơn tuyến từng lĩnh vực mà điều quan trọng là tạo<br />
ra các điều kiện và cơ hội để phát triển con người<br />
một cách toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Song<br />
song với việc đào tạo, quản lý và sử dụng nguồn<br />
nhân lực được đào tạo cũng có vai trò và vị trí<br />
không kém. Cần làm rõ cơ chế chính sách trong sử<br />
dụng nguồn nhân lực theo hướng không tách rời<br />
giữa đào tạo và sử dụng khi nhà nước đầu tư để phát<br />
triển nguồn nhân lực tại chỗ. Vấn đề đặt ra ở đây là<br />
đầu tư có kiểm soát, đầu tư có định hướng gắn với<br />
địa chỉ và nhu cầu sử dụng, đặc biệt là nguồn nhân<br />
lực có trình độ cao. Trên thực tế chúng ta chưa có<br />
cơ chế chính sách về vấn đề này và trong một thời<br />
gian dài đã buông lỏng trong quản lý sử dụng nguồn<br />
nhân lực trình độ cao.<br />
3. Một số khuyến nghị<br />
Qua hệ thống hóa và đánh giá các nghiên cứu về<br />
chính sách dân tộc từ năm 1986 đến nay cho thấy,<br />
ngoài những kết quả đạt được, chính sách dân tộc<br />
trong thời gian tới cần phải đổi mới trong xây dựng<br />
và thực thiện chính sách theo hướng cụ thể như sau:<br />
Một là, đổi mới cơ quan quản lý nhà nước về<br />
công tác dân tộc theo hướng tập trung đầu mối trong<br />
xây dựng, kiểm tra, đánh giá và thực hiện chính<br />
sách dân tộc để giảm sự chồng chéo chính sách.<br />
Hai là, đổi mới chính sách dân tộc theo hướng<br />
tập trung nguồn lực, tránh dàn trải, manh mún, phân<br />
tán nguồn lực. Lựa chọn, tập trung vào những vấn<br />
đề trọng yếu, có tính lan tỏa cao. Trong thời gian tới<br />
cần xây dựng và thực hiện chương trình mục tiêu<br />
quốc gia về phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào<br />
DTTS. Bổ sung luật ngân sách trong đó quy định tỷ<br />
nhất định để hỗ trợ phát triển vùng DTTS.<br />
Ba là, chính sách dân tộc cần đổi mới theo hướng<br />
trao quyền, cơ hội cho người dân tộc thiểu số. Xây<br />
dựng cơ chế, chính sách ràng buộc tái đầu tư đối<br />
với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh<br />
ở vùng DTTS, nhất là các doanh nghiệp khai thác<br />
tài nguyên, khoáng sản, thủy điện ở vùng DTTS và<br />
miền núi.<br />
Bốn là, chính sách tập trung nâng cao năng lực<br />
để đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận các cơ hội<br />
phát triển, nội lực ở vùng DTTS. Các chính sách<br />
cần phải phát huy được tiềm năng, thế mạnh của<br />
từng vùng, từng dân tộc. Những lợi thế từ rừng,<br />
sông nước...<br />
Bốn là, việc xây dựng và thực hiện chính sách<br />
dân tộc cần phải đẩy mạnh phân cấp, phân quyền<br />
cho địa phương, vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời<br />
chính sách phải giảm cho không mà chuyển sang hỗ<br />
trợ cho vay, có điều kiện.<br />
Năm là, chính sách phát triển kinh tế, giảm<br />
nghèo cần thực hiện đồng bộ từ sản xuất điến tiêu<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
thụ sản phẩm. Tiếp cận chuỗi giá trị trong sản xuất,<br />
khuyến khích và có chính sách thu hút, ưu đãi các<br />
doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm do đồng<br />
bào sản xuất.<br />
Khuyến nghị một số chính sách cụ thể:<br />
Thứ nhất, thực hiện đồng bộ chính sách phát<br />
triển theo vùng dân tộc và chính sách phát triển<br />
theo tộc người tránh trùng lặp, manh mún<br />
Trước hết cần đẩy mạnh và khẩn trương nghiên<br />
cứu về chính sánh phát triển đồng bộ theo vùng dân<br />
tộc, chính sách phát triển theo tộc người thiểu số<br />
tránh trùng lặp, manh mún trong xây dựng chính<br />
sách và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc giữa<br />
các bộ nghành.<br />
Thứ hai, cần có các chính sách dân tộc nhằm<br />
phát triển nâng cao thể lực, môi trường sống và<br />
sinh tồn cho các tộc người<br />
Giải pháp này gắn liền với những chủ trương<br />
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội như làm tốt<br />
chương trình xóa đói, giảm nghèo một cách căn<br />
bản và bền vững, từng bước cải thiện đời sống con<br />
người; thực hiện tốt các chính sách xã hội, bảo hiểm<br />
xã hội, đẩy mạnh công tác kế hoạch hóa gia đình,<br />
đẩy lùi các tệ nạn và tập quán không phù hợp; xây<br />
dựng nếp sống vệ sinh.<br />
Tập trung mọi nguồn lực để giải quyết bền vững<br />
vấn đề định canh định cư đối với một số tộc người,<br />
gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội,<br />
quốc phòng-an ninh.<br />
Nghiên cứu, xây dựng mô hình thiết chế văn hóa<br />
ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vận dụng quy<br />
chế văn hóa cơ sở cho phù hợp với đặc điểm của<br />
từng vùng dân tộc thiểu số, giải quyết hài hòa mối<br />
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, truyền thống<br />
và đổi mới.<br />
Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ về chăm<br />
sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em trên cơ sở đặc thù<br />
từng vùng và từng dân tộc, ngăn chặn nguy cơ suy<br />
thoái giống nòi (trước hết là đầu tư cho hệ thống<br />
nhà trẻ mẫu giáo về cơ sở vật chất về điều kiện nuôi<br />
dạy, đảm bảo chế độ dinh dưỡng để con em các dân<br />
tộc có điều kiện cơ hội phát triển về thể lực với<br />
những chính sách cụ thể).<br />
Tạo điều kiện để trẻ em và thanh thiếu niên được<br />
hưởng thụ văn hóa và phát triển trong môi trường<br />
văn hóa (cơ sở vật chất cho các hoạt động thể thao,<br />
vui chơi giải trí, nước sạch, vệ sinh ...); đưa chương<br />
trình giáo dục môi trường vào trong nhà trường để<br />
học sinh sớm hình thành kỹ năng và nhận thức về<br />
vai trò của môi trường đối với sức khỏe con người,<br />
yêu cầu về giữ gìn môi trường (cả môi trường tự<br />
nhiên và xã hội), tăng cường lòng tự hào về quê<br />
hương xứ sở.<br />
Thứ ba, các chính sách dân tộc nhằm thực hiện<br />
phát triển giáo dục đào tạo vùng dân tộc thiểu số<br />
Nhằm tạo sự chuyển biến căn bản, nâng cao dân<br />
trí để sớm hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công<br />
<br />
15<br />
<br />