Thực trạng giáo dục kĩ năng sống của học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên
lượt xem 3
download
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số ở khu vực Tây nguyên trên các phương diện: Nhận thức của cán bộ quản lí, giáo viên về quan niệm KNS, mức độ cần thiết phải đẩy mạnh giáo dục KNS; trình độ KNS của HSTH người DTTS; các con đường giáo dục KNS và những khó khăn của GV trong quá trình giáo dục KNS với mong muốn làm rõ thực trạng làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp tăng cường giáo dục KNS cho HSTH người DTTS.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng giáo dục kĩ năng sống của học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên
- JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0055 Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 2A, pp. 295-303 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở KHU VỰC TÂY NGUYÊN 1 Hoàng Văn Chi và 2 Lê Thị Thu Hà 1 Trường Cao đẳng Sư phạm Kon Tum, 2 Trường Đại học Hồng Đức Tóm tắt. Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng kĩ năng sống (KNS) của học sinh tiểu học (HSTH) người dân tộc thiểu số (DTTS) ở khu vực Tây nguyên trên các phương diện: nhận thức của cán bộ quản lí (CBQL), giáo viên (GV) về quan niệm KNS, mức độ cần thiết phải đẩy mạnh giáo dục KNS; trình độ KNS của HSTH người DTTS; các con đường giáo dục KNS và những khó khăn của GV trong quá trình giáo dục KNS với mong muốn làm rõ thực trạng làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp tăng cường giáo dục KNS cho HSTH người DTTS. Từ khóa: Kĩ năng sống, học sinh tiểu học, dân tộc thiểu số;giáo dục KNS. 1. Mở đầu Giáo dục KNS cho HSTH nói chung, HSTH người DTTS nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, giúp học sinh (HS) có được kiến thức, kĩ năng cần thiết để rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và cộng đồng; có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống; giúp các em sống an toàn và khỏe mạnh. Giáo dục KNS cho HS là cả một quá trình lâu dài, tốn nhiều thời gian và công sức đòi hỏi phải được quan tâm tiến hành ngay từ bậc tiểu học để góp phần tạo ra sự phát triển hài hòa, cân đối ở trẻ, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhân cách của các em trong tương lai. Liên quan đến vấn đề này đã có những công trình đã được công bố như” Một số vấn đề về Giáo dục KNS cho HSTH” [3], Sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống hóa nội dung giáo dục KNS trong các môn học ở tiểu học [4], Thực trạng KNS của HSTH người dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc[5], Giáo dục KNS cho HSTH người dân tộc thiểu số thông qua tình huống [6], Giáo dục KNS cho HSTH người dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc qua môn Khoa học [7]. . . Các công trình này đã đề cập đến những vấn đề chung về giáo dục KNS cho HS tiểu học, thực trạng KNS của HSTH người dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc còn yếu, hệ thống hóa nội dung có thể giáo dục KNS cho HS tiểu học qua các môn học theo tiếp cận nội dung; phân tích các con đường giáo dục KNS cho HSTH người dân tộc như qua tình huống, qua môn khoa học. Tuy nhiên vấn đề thực trạng KNS của HSTH người dân tộc ở vùng Tây nguyên, cũng như con đường giáo dục KNS cho HSTH người dân tộc theo tiếp cận phương pháp chưa được nghiên cứu cũng như chưa có công trình nào được công bố. Ngày nhận bài: 15/12/2017. Ngày sửa bài: 20/2/2018. Ngày nhận đăng: 25/2/2018 Liên hệ: Hoàng Văn Chi, e-mail: chihoang77@gmail.com, lethithuha@hdu.edu.vn 295
- Hoàng Văn Chi và Lê Thị Thu Hà HSTH người DTTS khu vực Tây Nguyên sinh sống ở khu vực có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, đời sống kinh tế khó khăn, phạm vi giao tiếp của các em chỉ bó hẹp trong giới hạn làng bản, ít tiếp xúc với đời sống hiện đại bên ngoài... Đây chính những nguy cơ mà các em phải đối phó với nhiều thách thức từ phía xã hội làm ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của các em nói chung, quá trình giáo dục KNS cho các em nói riêng. Bài viết dưới đây phân tích thực trạng giáo dục KNS của HSTH người DTTS ở khu vực Tây nguyên để thấy cần phải tìm cách nâng cao chất lượng giáo dục KNS cho các em. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tổ chức nghiên cứu Kết quả nghiên cứu trong bài viết được tổng kết từ quá trình khảo sát 590 giáo viên và CBQL được lựa chọn ngẫu nhiên ở 20 trường tiểu học tại 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Đăk Lăk. Để đánh giá thực trạng giáo dục KNS cho HSTH người DTTS ở khu vực Tây nguyên chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp như: phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn, quan sát và phương pháp thống kê toán học, trong đó phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp chính, các phương pháp nghiên cứu còn lại là các phương pháp bổ trợ. 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Thực trạng nhận thức của GV, CBQL ở khu vực Tây nguyên về giáo dục KNS cho HSTH người DTTS * Thực trạng nhận thức của GV, CBQL về sự cần thiết phải giáo dục KNS cho HSTH người DTTS Tìm hiểu ý kiến của GV, CBQL về “Cần phải đẩy mạnh GDKNS cho HSTH người DTTS ở khu vực Tây nguyên” kết quả thu được 100% rất đồng ý và đồng ý, trong đó đồng ý ở mức độ cao chiếm 82,71%. Như vậy, tất cả GV, CBQL nhận thức đúng về vai trò của GDKNS cho HSTH người DTTS hiện nay. Tuy nhiên, khi trao đổi với Cô Nguyễn Thị T (P. Hiệu trưởng trường tiểu học IaPhi – Chư Pah – Gia Lai) cho biết: “HSTH là lứa tuổi đang định hình và phát triển về mặt nhân cách, nhưng kinh nghiệm sống của các em còn hạn chế. Đặc biệt HSTH người DTTS còn nhiều trở ngại giao tiếp, nhút nhát, tự ty, khả năng thích ứng chưa cao, thiếu hụt nhiều kĩ năng sống cơ bản. . . Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới bỏ học, bạo lực học đường, nghiện game online. . . và nhiều hành vi lệch chuẩn khác. Chính vì vậy việc giáo dục KNS cho HSTH người DTTS là vô cùng cần thiết để hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện” Thầy Nguyễn Văn Ng (Trường tiểu học Đăk Trăm- Đăk Tô – Kon Tum) chia sẻ: “Về cơ bản GV, CBQL đều nhận thức được tầm quan trọng của KNS và GDKNS cho học sinh, nhưng công tác giáo dục KNS nhiều khi còn mang tính lí thuyết, hình thức chưa chú trọng đến chất lượng và hiệu quả của nó”. Như vậy, từ nhận thức đến việc làm còn là một khoảng cách đòi hỏi GV, CBQL cần khắc phục những khó khăn, vượt qua các rào cản để tiến hành các hoạt động GDKNS cho các em hiệu quả hơn. * Thực trạng quan niệm của GV, CBQL về GDKNS cho HSTH người DTTS Tìm hiểu quan niệm của GV, CBQL về giáo dục KNS, kết quả được thể hiện ở bảng sau: 296
- Thực trạng giáo dục kĩ năng sống của học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số... Bảng 1. Quan niệm của GV, CBQL ở khu vực Tây nguyên về giáo dục KNS [8] TT Quan niệm/Ý kiến Mức độ đánh giá Rất Đồng Phân Không M SD đồng ý% ý% vân% đồng ý% T.Bậc GDKNS là trang bị cho 1 HS tất cả những kĩ năng 44,07 35,93 16,27 3,7 4 3.20 0.843 của cuộc sống GDKNS là hình thành 2 28,64 62,71 8,13 2,2 6 3.19 0.591 thái độ tích cực ở HS GDKNS là thay đổi 3 những hành vi, thói quen 43,73 53,73 0,3 2,2 3 3.38 0.613 tiêu cực ở HS GDKNS là trang bị cho 4 người học tri thức về các 25,25 31,36 16,27 21,12 9 2.54 1.138 kĩ năng sống GDKNS là trang bị cho 5 người học kĩ năng giao 19,49 67,29 12,03 1,19 8 3.05 0.600 tiếp hiệu quả GDKNS là trang bị cho 6 người học kĩ năng giải 15,08 79,49 5,25 0,17 7 3.09 0.448 quyết vấn đề hiệu quả GDKNS là trang bị cho 7 người học kĩ năng quản 21,19 77,46 1,36 0 5 3.19 0.431 lí bản thân hiệu quả GDKNS nói khái quát là trang bị cho người 8 học năng lực ứng phó 98,3 1,53 0,17 0 1 3.98 0.147 với thách thức trong cuộc sống 10 Ý kiến khác là. . . . (Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Tây Nguyên năm 2017) Bình luận và phân tích Số liệu ở Bảng 1 cho thấy có tới 80% GV, CBQL có quan niệm GDKNS là trang bị cho HS tất cả những kĩ năng của cuộc sống. Điều này cho thấy đa số GV và CBQL nhầm lẫn giữa KNS và kĩ năng của cuộc sống. Việc nhầm lẫn này sẽ dẫn đến việc chỉ đạo thực hiện giáo dục KNS và việc thực hiện GDKNS của GV sẽ không trúng. Bên cạnh đó còn có 51,61% GV và CBQL cho rằng GDKNS là trang bị cho người học tri thức về các kĩ năng sống. Mặt khác, cũng có hầu hết GV, CBQL đồng ý là “GDKNS nói khái quát là trang bị cho người học năng lực ứng phó với thách thức trong cuộc sống”,” GDKNS là thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực ở HS”; đây là những quan niệm phù hợp. Những quan niệm chưa đầy đủ những đúng về KNS như “GDKNS là trang bị cho người học kĩ năng quản lí bản thân hiệu quả”; “GDKNS là trang bị cho người học kĩ năng giao tiếp hiệu quả”; “GDKNS là trang bị cho người học kĩ năng giải quyết vấn đề hiệu quả” cũng được GV, CBQL lựa chọn với tỉ lệ cao. Điều này cho thấy, nhận thực của GV, CBQL một số trường Tiểu học ở khu vực Tây Nguyên về bản chất của KNS còn chưa sâu sắc. Để nâng cao chất lượng giáo dục KNS ở đây thì trước tiên cần làm cho họ hiểu thấu đáo về bản chất của KNS, phân biệt được KNS và kĩ năng của cuộc sống. 297
- Hoàng Văn Chi và Lê Thị Thu Hà Lí giải cho kết quả trên, khi trao đổi với một số GV, CBQL, chúng tôi được biết ở các trường tiểu học đã được tập huấn về chương trình giáo dục KNS cho HS, nhưng do cách thức và thời lượng tập huấn chưa đủ để GV và CBQL hiểu thấu đáo. Để tìm hiểu sâu hơn vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn, và thu được kết quả như sau: Cô Thái Thị Thanh H (Trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi – Đăk Hà) cho rằng: “GV, CBQL chủ yếu tập trung đầu tư vào chuyên môn, giảng dạy, ít quan tâm đến GDKNS cho HS nên cũng chưa nắm được bản chất của khái niệm GDKNS”. Thầy Nguyễn Quang X (Trường tiểu học Đam San- EaHleo Đăk Lăk) cho rằng: “Ở vùng khó khăn như EaHleo, GV làm tốt được công tác giảng dạy, duy trì được sĩ số, vận động học sinh tới trường là đã quá tải rồi, nên không thể quan tâm được đến những công việc khác”. Từ những phân tích trên cho thấy, đa số GV, CBQL đã biết về GDKNS, tuy nhiên chưa thực sự đầy đủ và chính xác. 2.2.2. Thực trạng KNS của HSTH người DTTS ở khu vực Tây Nguyên Để tìm hiểu về KNS của HSTH người DTTS khu vực Tây nguyên, chúng tôi tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi kết hợp với quá trình quan sát trực tiếp quá trình học tập, sinh hoạt của các em tại một số trường tiểu học trên địa bàn 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lak. Kết quả thu được ở Bảng 2. Bảng 2. Đánh giá KNS của HSTH người DTTS ở khu vực Tây Nguyên [8] Điểm Độ lệch TT Kĩ năng sống Xếp loại Thứ bậc TB chuẩn 1 Tự tin 2.23 Yếu 0.723 15 2 Giao tiếp 2.16 Yếu 0.812 17 3 Thương lượng 2.85 TB 0.683 4 4 Thuyết phục 2.60 TB 0.581 9 5 Thiện chí với người khác 4.05 Khá 0.904 1 6 Ra quyết định 2.37 Yếu 0.900 14 7 Giải quyết vấn đề 2.45 Yếu 0.696 12 8 Tư duy phê phán 2.21 Yếu 0.627 16 9 Tư duy sáng tạo 2.65 TB 0.652 8 10 Tự nhận thức bản thân 2.91 TB 0.671 2 11 Quản lí cảm xúc 2.89 TB 0.742 3 12 Quản lí thời gian 2.52 Yếu 0.690 11 13 Lắng nghe tích cực 2.08 Yếu 0.927 18 14 Hợp tác 2.66 TB 0.746 7 15 Giải quyết mâu thuẫn, bất đồng 2.65 TB 0.806 8 16 Trình bày suy nghĩ, ý tưởng 2.45 Yếu 0.825 12 17 Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm 2.83 TB 0.706 5 18 Kĩ năng tự bảo vệ bản thân 2.55 Yếu 0.686 10 19 Kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ 2.81 TB 0.617 6 Kĩ năng kiên định từ chối áp lực các hủ tục 20 2.00 Yếu 0.776 19 như: tảo hôn, ma chay, cúng bái. . . 21 Kĩ năng bảo vệ môi trường 2.42 Yếu 0.795 13 22 Kĩ năng sống vệ sinh 1.93 Yếu 0.724 20 298
- Thực trạng giáo dục kĩ năng sống của học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số... Kĩ năng phòng tránh phòng tránh xâm hại, 23 1.93 Yếu 0.771 20 buôn bán trẻ em Điểm trung bình 2.53 (Vận dụng công thức (Max – Min)/ n để tính khoảng phân biệt giữa các mức độ là 0,8, cho phép phân chia các mức độ như sau:“Kém” (1 ≤ X< 1.8 điểm); “Yếu” (1,8 ≤ X< 2,6 điểm); “Trung bình” (2,6 ≤ X< 3,4 điểm); “Khá” (3,4 ≤ X< 4,2 điểm); “Tốt” (4,2 đến ≤ X= 5 điểm).) (Nguồn. Kết quả khảo sát của đề tài tại Tây Nguyên năm 2017) Bình luận và phân tích ĐTB của tất cả các KNS ở HSTH người DTTS ở khu vực Tây nguyên là 2.53 tương ứng với mức độ yếu. Trong tổng số 23 KNS được khảo sát, có tới 13 KNS chiếm tỉ lệ (56.52%) được đánh giá là Yếu, có 9 KNS chiếm tỉ lệ (39.13%) được đánh giá ở mức Trung bình và chỉ có 01 KNS chiếm tỉ lệ (4.35%) được đánh giá ở mức độ Khá. Trong 23 KNS của HSTH người DTTS chỉ có 01 KNS là “thiện chí với người khác” được GV, CBQL đánh giá ở mức khá (ĐTB =4.05). Tuy nhiên, kĩ năng phòng tránh xâm hại, buôn bán trẻ em lại ở mức rất yếu (ĐTB = 1.93). Đây chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng HSTH người DTTS dễ bị lừa gạt, mua chuộc, lợi dụng lòng tốt... Bên cạnh việc điều tra bằng phiếu hỏi, chúng tôi còn quan sát giờ học bằng cách bí mật gắn camera cho thấy: phần lớn HS thiếu tự tin, nhút nhát, rụt rè trước những vấn đề học tập, chỉ đến khi GV chỉ định và gợi ý các em mới dám trả lời, ngay cả khi thảo luận nhóm, lớp học cũng không sôi nổi, không có sự tranh luận, trao đổi lẫn nhau; Trong khi đó, giờ ra chơi khác hẳn không khí trong lớp học, các em hoạt động rất sôi nổi, nhiệt tình trong các hoạt động sinh hoạt chung ngoài giờ học, đặc biệt là các trò chơi các em thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó và tương trợ lẫn nhau. Điều này cho thấy, khi HSTH người DTTS được tự do, không có cảm giác bị gò bó, áp lực học tập thì các em trở nên hồn nhiên, mạnh dạn. Do đó trong giờ học, đòi hỏi GV phải hiểu đặc điểm tâm lí của HS, tạo bầu không khí học tập sôi nổi, thân thiện và sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp nhằm thu hút sự tập trung chú ý của HS vào giờ học. Qua đó làm giảm thiểu những rào cản tâm lí trong học tập cho các em. Ngoài ra, kết quả phỏng vấn GV, CBQL về KNS của HSTH người DTTS cho thấy: hầu hết các ý kiến cho rằng các em mới chỉ có khả năng thích ứng trong các tình huống quen thuộc và sẽ thực sự khó khăn khi gặp các tình huống mới lạ. Trao đổi với Cô Nguyễn Thị Thùy D (Trường tiểu học Võ Thị Sáu – TP. Kon Tum) cho rằng: “Do HSTH người DTTS nhút nhát, môi trường sống bó hẹp, điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn nên dẫn đến việc thiếu các KNS, đồng thời trong các giờ học GV lại không đủ thời gian để quan tâm đến việc rèn luyện các kĩ năng cho HS nên dẫn đến thực trạng trên”. Thầy Trần Văn Đ (Trường tiểu học Hà Tây - ChưPah – Gia Lai) cho biết: “HSTH người DTTS sống chân thành, gần gũi, thiện chí với mọi người, nhưng lại lúng túng khi tiếp xúc với người lạ, e dè khi giao tiếp, chưa biết trình bày những khó khăn của mình để được giúp đỡ, chưa biết thực hiện theo thời gian biểu, chưa biết hợp tác...”. Thầy Nguyễn Trần T (Trường tiểu học Đăk Lak) chia sẽ: “Đối tượng HS phần lớn là con em người đồng bào, các em rất hứng thú với những điều mới lạ của của cuộc sống, nhưng khả năng giao tiếp còn hạn chế, khả năng phán đoán chưa cao, kĩ năng thích ứng với môi trường không tốt, thụ động trước vấn đề của cuộc sống đặt ra, thiếu hụt nhiều KNS cơ bản. . . Điều đó đã dẫn tới sự sa sút trong học tập, vụng về trong giao tiếp ứng xử, chọn nghề không phù hợp với năng lực cá nhân”. Qua phân tích định tính và định lượng có thể kết luận: 1) KNS của HSTH người DTTS khu 299
- Hoàng Văn Chi và Lê Thị Thu Hà vực Tây nguyên chỉ đạt ở mức độ yếu, 2) có sự khác biệt về trình độ giữa các KNS. Những khó khăn về điều kiện địa lí, kinh tế, xã hội đã ảnh hưởng đến KNS và giáo dục KNS cho HSTH người DTTS. Do đó, cần nâng cao chất lượng GDKNS cho các em giúp các em tránh được những rủi ro trong cuộc sống là việc làm vô cùng cần thiết. 2.2.3. Các con đường GDKNS cho HSTH người DTTS Kết quả khảo sát, tìm hiểu GV, CBQL về các con đường GDKNS cho HSTH người DTTS khu vực Tây nguyên được phản ánh ở Bảng 3. Bảng 3. Đánh giá của GV, CBQL về các con đường GDKNS cho HSTH người DTTS [8] Thứ TT Cách tiếp cận Mức độ thực hiện M SD bậc Hiệu quả Ít hiệu quả Chưa thực hiện SL % SL % SL % Giáo dục KNS qua tích hợp, lồng ghép 1 354 60.00 221 37.46 15 2.5 3.71 0.749 1 trong nội dung các môn học Giáo dục KNS qua 2 các hoạt động ngoài 320 54.24 253 42.88 17 2.88 3.64 0.736 2 giờ lên lớp Giáo dục KNS qua tích hợp trong các 3 231 39.15 301 51.02 58 9.83 3.35 0.791 3 phương pháp, kĩ thuật dạy học Giáo dục KNS qua 4 các tình huống trong 263 44.58 176 29.83 151 25.59 3.28 0.989 4 cuộc sống (Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Tây Nguyên năm 2017) Kết quả ở Bảng 3 cho thấy: Giáo dục KNS qua các tình huống trong cuộc sống có tỉ lệ % chưa sử dụng là cao nhất chiếm 25.59%, mặc dù đây là con đường giáo dục hiệu quả nhất vì nó gắn với thực tiễn đời sống nhà trường và các mối quan hệ thực của các em. Giáo dục KNS qua tích hợp trong các phương pháp, kĩ thuật dạy học ở mức độ thực hiện hiệu quả chiếm tỉ lệ thấp nhất (39.15%). Trong khi đó, con đường này sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội dung các môn học; mà ngược lại, do sử dụng các PPDH và KTDH tích cực, giáo viên (GV) còn lôi cuốn được HS tham gia tích cực vào quá trình khám phá và lĩnh hội tri thức; làm cho việc học tập các môn học trở nên hứng thú, hấp dẫn hơn, thiết thực và bổ ích hơn đối với HS [2]. Trong khi đó, Giáo dục KNS qua tích hợp, lồng ghép trong nội dung các môn học được GV đánh giá thực hiện hiệu quả chiếm tỉ lệ cao nhất (60%). Điều này cho thấy GV Tiểu học ở khu vực Tây nguyên quen với việc tích hợp giáo dục KNS qua dạy học theo tiếp cận nội dung bài học, mà chưa biết khai thác tiềm năng giáo dục KNS của các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Trong khi đó có thể giáo dục KNS theo tiếp cận phương pháp- sử dụng các phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực có thể thực hiện ở tất cả các môn học. Điều này cho thấy cần có biện pháp để giúp GV Tiểu học ở khu vực Tây nguyên có năng lực 300
- Thực trạng giáo dục kĩ năng sống của học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số... Giáo dục KNS qua các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. Căn cứ vào điểm trung bình có thể thấy: GV Tiểu học ở khu vực Tây nguyên giáo dục KNS cho HSTH người DTTS hiệu quả nhất là qua tích hợp, lồng ghép trong nội dung các môn học; tiếp đến qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp; sau là qua tích hợp trong các phương pháp, kĩ thuật dạy học; cuối cùng là qua các tình huống trong cuộc sống. Qua phỏng vấn GV, CBQL chúng tôi nhận thấy một thực trạng rõ nét hơn: GV quan tâm tiến hành tích hợp GDKNS nhiều nhất là các môn Đạo đức, Tự nhiên – Xã hội, Khoa học, còn các môn học khác ít được quan tâm hơn. Hầu như GV nào cũng biết trách nhiệm phải lồng ghép nội dung GDKNS trong các môn học, nhưng thực tế cho thấy GV còn lúng túng trong việc tích hợp, lồng ghép nội dung GDKNS vào nội dung bài học, do đó họ đã lơ là trong việc lồng ghép mà chỉ tập trung vào nội dung bài dạy. Điều này được Cô Nguyễn Thị T (Trường tiểu học Tu Mơ Rông – Kon Tum cho biết: “Do đối tượng HS là người DTTS, có những trở ngại tâm lí trong học tập, ngôn ngữ nên việc lồng ghép, tích hợp nội dung GDKNS vào nội dung bài học gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, cách thức tổ chức và phương pháp thực hiện GDKNS của GV chưa thực sự phù hợp, chưa thu hút được HS nên chưa mang lại hiệu quả”. Qua phỏng vấn GV còn được biết: GDKNS qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ học là một trong những con đường giáo dục có nhiều ưu thế trong hoạt động GDKNS cho HS nhưng lại ít được GV quan tâm vì nhiều nguyên nhân: Do năng lực tổ chức hoạt động của GV chưa cao, do tâm lí ngại thay đổi sợ mất nhiều thời gian công sức cho thiết kế và chuẩn bị tổ chức hoạt động, do điều kiện địa lí, kinh tế nói chung cũng như cơ sở vật chất và điều kiện học tập của nhà trường còn rất nhiều khó khăn....Vì vậy để nâng cao chất lượng GDKNS cho HS cần có sự phối hợp giữa nhà trường, các tổ chuyên môn, với tổ chức Đội và Sao nhi đồng trong nhà trường; giữa lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. . . Qua phân tích thực trạng các con đường GDKNS cho HS chúng tôi cho rằng, cần tiếp cận đồng bộ trong GDKNS, trong đó cần quan tâm đến cách tiếp cận phương pháp để giáo dục KNS qua dạy học và tổ chức hoạt động GDNGLL hiệu quả hơn, đồng thời cần quan tâm giáo dục KNS qua các tình huống thật của đời sống học đường. 2.2.4. Những khó khăn trong GDKNS cho HSTH người DTTS ở khu vực Tây Nguyên Tìm hiểu những khó khăn của GV gặp phải trong quá trình GDKNS cho HS và thu được kết quả ở Bảng 4 Bảng 4. Những khó khăn GV gặp phải trong quá trình GDKNS cho HSTH người DTTS ở khu vực Tây Nguyên [8] TT Những khó khăn Số lượng Tỉ lệ % 01 Không phân biệt được KNS và các kĩ năng khác trong cuộc sống 108 18.30 02 Không biết cách giáo dục KNS 187 31.69 03 Không được bồi dưỡng, chia sẻ kinh nghiệm về giáo dục KNS 390 66.10 04 Không có tài liệu hướng dẫn về GDKNS cho HSTH người DTTS 461 78.13 Cơ sở vật chất, phương tin, kinh phí hỗ trợ cho quá trình GDKNS 05 454 76.94 còn hạn chế 06 Lãnh đạo nhà trường không quan tâm 420 71.18 07 Học sinh thiếu tự giác, tích cực, chủ động 563 95.42 08 Không có thời gian 487 82.54 (Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài tại Tây Nguyên năm 2017) 301
- Hoàng Văn Chi và Lê Thị Thu Hà Phân tích và bình luận Có tới 95.42% GV xác định khó khăn trong GDKNS cho HSTH người DTTS ở khu vực Tây Nguyên là “Học sinh thiếu tự giác, tích cực, chủ động”. Đây là khó khăn được xem là lớn nhất. Tiếp đến là GV cho rằng “Không có thời gian” (82.54%). Các khó khăn như “Không có tài liệu hướng dẫn về GDKNS cho HSTH người DTTS” và “Cơ sở vật chất, phương tin, kinh phí hỗ trợ cho quá trình GDKNS còn hạn chế”; “Lãnh đạo nhà trường không quan tâm” đều chiếm trên 70%. Các khó khăn về hiểu biết và năng lực giáo dục KNS của GV Tiểu học ở khu vực Tây nguyên được cho là ít hơn cả. Điều này không có nghĩa là học đã nhận thức đầy đủ và có năng lực GDKNS cho các em, mà họ chưa làm được vì thiếu chỉ đạo, thiếu tài liệu hướng dẫn. Điều này được phản ánh trong các ý kiến phỏng vấn GV, CBQL về những khó khăn: thầy Nguyễn Văn H (Phòng giáo dục huyện Tu Mơ Rông – Kon Tum) cho biết: “Nếu có chỉ đạo và tài liệu hướng dẫn về GDKNS cho HS thì chắc chắn GV sẽ áp dụng và mang lại liệu quả cao. Đồng thời chúng tôi ủng hộ và sắp xếp thời gian để tiến hành GDKNS nhưng Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT cần có những tài liệu hướng dẫn và tổ chức bồi dưỡng để GV biết cách GDKNS cho HS”. Như vậy, vấn đề bồi dưỡng GV năng lực giáo dục KNS, tài liệu hướng dẫn GDKNS cho HS là nhu cầu thực tế. 3. Kết luận Đa số CBQL, GV ở các trường tiểu học khu vực Tây nguyên thấy cần phải đẩy mạnh GDKNS cho HSTH người DTTS. HSTH người DTTS ở khu vực Tây Nguyên do những khó khăn về điều kiện sống, sinh hoạt, học tập... nên KNS của các em mới chỉ đạt ở mức độ yếu và việc thực hiện GDKNS cho HSTH người DTTS còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để khắc phục thực trạng trên CBQL, GV cần phải tiếp cận đồng bộ và coi trọng công tác GDKNS cho HSTH người DTTS ở khu vực Tây Nguyên theo tiếp cận phương pháp thì sẽ đảm bảo GDKNS được thực hiện trong tất cả các bài học và hoạt động giáo dục. Từ đó sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục KNS. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Thanh Bình, 2007. Giáo trình dục kĩ năng sống. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [2] Nguyễn Thanh Bình, 2013. Báo cáo tổng kết đề tài “Sử dụng một số hình thức, phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh”. Mã số: SPHN-12-230 VNCSP. [3] Nguyễn Thị Thu Hằng, 2009. Một số vấn đề về Giáo dục KNS cho HSTH. Tạp chí Giáo dục, số 204. [4] Nguyễn Thị Thu Hằng, 2011. Sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống hóa nội dung giáo dục KNS trong các môn học ở tiểu học. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, tập 80, số 04. [5] Nguyễn Thị Thu Hằng, 2012. Thực trạng KNS của HSTH người dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc. Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, tập 98, số 10. [6] Nguyễn Thị Thu Hằng, 2013. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số thông qua tình huống. Tạp chí Giáo dục, số 302, kì 2. [7] Nguyễn Thị Thu Hằng, 2013. Giáo dục KNS cho HSTH người dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc qua môn Khoa học. Nxb Đại học Thái Nguyên. 302
- Thực trạng giáo dục kĩ năng sống của học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số... [8] Hoàng Văn Chi, 2017. Kết quả khảo sát của đề tài nghiên cứu sinh “Giáo dục KNS cho HSTH người DTTS ở khu vực Tây Nguyên theo tiếp cận phương pháp”. ABSTRACT Current status of life skills education for primary ethnic minority students in the central highlands 1 Hoang Van Chi and 2 Le Thi Thu Ha 1 Kon Tum’s Pedagogical College, 2 Hong Duc University This article is a simple suvery on the current status of the life skills education of the primary ethnic minority students in the region of the Central Highlands in Vietnam on the Awareness of managers and teachers about the concept of life skills; necessity of promoting life skills education; level of life skills of ethnic minority students; paths of life skills education and the difficulties of teachers in the process of life skills education with the desire to clarify the real situation as the basis for proposing measures to enhance life skills education for ethnic minority people. Keywords: Life skills, primary school students, ethnic minorities; Life Skills Education. 303
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng xúc cảm - xã hội cho học sinh tiểu học ở nhà trường hiện nay
9 p | 194 | 19
-
Nghiên cứu thực trạng giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ khuyết tật trí tuệ tại cơ sở giáo dục hòa nhập Ước Mơ Xanh
9 p | 145 | 8
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng hợp tác của trẻ 5-6 tuổi tại các trường mầm non trên địa bàn tỉnh Bình Dương
12 p | 117 | 6
-
Giáo trình chuyên đề Giáo dục kĩ năng sống: Phần 1
102 p | 29 | 6
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học tại tỉnh Quảng Trị đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay
6 p | 66 | 6
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng giải quyết vấn đề cho trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai có chủ đề ở một số trường mầm non tại Hà Nội
5 p | 84 | 5
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng giao tiếp qua hoạt động chơi cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ trong lớp mẫu giáo hòa nhập 5 - 6 tuổi
6 p | 55 | 4
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh các trường trung học phổ thông chuyên khu vực bắc miền Trung Việt Nam qua hoạt động trải nghiệm
6 p | 31 | 4
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh khuyết tật trí tuệ học tiểu học hòa nhập
9 p | 131 | 4
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ 5-6 tuổi thông qua trò chơi dân gian ở Trường Mầm non Thanh Xuân Bắc, Hà Nội
5 p | 79 | 4
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng giao tiếp cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ 5-6 tuổi ở các trường mầm non tỉnh Thanh Hóa
9 p | 39 | 4
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên trường Đại học Hồng Đức
7 p | 80 | 4
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng thiết lập mối quan hệ xã hội cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ 4-5 tuổi tại một số trường mầm non trên địa bàn Hà Nội
11 p | 63 | 3
-
Thực trạng và biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
9 p | 38 | 3
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng xã hội cho học sinh các trường trung học phổ thông huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình
7 p | 6 | 3
-
Giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh rối loạn phổ tự kỉ học hòa nhập cấp trung học cơ sở: Thực trạng và bài học kinh nghiệm
5 p | 5 | 3
-
Thực trạng giáo dục kĩ năng thoát hiểm cho học sinh tiểu học ở Hà Nội
7 p | 15 | 2
-
Thực trạng giáo dục kỹ năng hợp tác cho Trẻ 4 – 5 tuổi thông qua hoạt động giáo dục STEAM
3 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn