Bế Thị Phoi và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
104(04): 91 - 95<br />
<br />
THỰC TRẠNG HÔN NHÂN GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS<br />
Ở HUYỆN QUẢNG UYÊN TỈNH CAO BẰNG<br />
Bế Thị Phoi1, Trần Văn Tiến2, Nguyễn Quý Thái3<br />
1<br />
<br />
Trung tâm Y tế Quảng Uyên - Cao Bằng, 2Bệnh viện Da liễu Trung ương,<br />
3<br />
Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Mô tả thực trạng, nhận thức về hôn nhân gia đình của người nhiễm HIV/AIDS ở huyện<br />
Quảng Uyên. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, mẫu thuận tiện gồm 237 người nhiễm<br />
HIV/AIDS tại địa bàn nghiên cứu, từ tháng 11/2009 đến 5/2010. Kết quả: Người nhiễm HIV chủ<br />
yếu là nam giới (97,89%); dân tộc kinh (89,03%); nghiện chích ma túy (NCMT) (97,47%); tuổi trẻ<br />
(53,16% ≤ 30 tuổi); có vợ/chồng là 33,33% (khoảng 2/3 là chưa có vợ, ly dị, góa hoặc ly thân);<br />
sống chung với bố mẹ hoặc anh, chị em ruột là 54,01%; sống với vợ/chồng là 83,54% số người đã<br />
có vợ/chồng; thường xuyên sử dụng bao cao su (BCS) trong quan hệ tình dục (QHTD) với<br />
vợ/chồng là 68,55%, sinh thêm con là 5,06%, dự định sinh thêm con là 12,66%. Người nhiễm HIV<br />
dự định sẽ kết hôn là 21,77%, trong đó có 29,63% dự định sẽ sinh con. Kết luận: còn nhiều người<br />
nhiễm HIV/AIDS chưa nhận thức đúng về hôn nhân gia đình và có hành vi QHTD không an toàn<br />
làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV, có thể để lại hậu quả xấu cho gia đình và cộng đồng.<br />
Từ khóa : nhiễm HIV/AIDS, nghiện chích ma túy, sử dụng bao cao su, quan hệ tình dục, hôn nhân<br />
gia đình<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ*<br />
Quảng Uyên là một huyện miền núi phía Bắc<br />
thuộc tỉnh Cao Bằng. Tính đến 12/2009 đã có<br />
237 người nhiễm HIV/AIDS, trong đó 79<br />
người chuyển AIDS. Các đối tượng nhiễm<br />
HIV nói chung chủ yếu là nam giới, tuổi trẻ,<br />
nghiện chích ma tuý (NCMT) và thường có<br />
hành vi tình dục không an toàn [1],[4],[5].<br />
Ngoài NCMT được coi là hành vi nguy cơ<br />
cao gây lan truyền HIV từ nhóm này ra cộng<br />
đồng thì hành vi tình dục không an toàn cũng<br />
rất quan trọng và được coi là hoạt động đồng<br />
hành làm gia tăng tỷ lệ lây nhiễm HIV và các<br />
bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt<br />
là những đối tượng đang ở độ tuổi hoạt động<br />
tình dục mạnh. Để có những dữ liệu phục vụ<br />
cho việc tuyên truyền vận động phòng chống<br />
lây nhiễm HIV trong gia đình và cộng đồng,<br />
chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này nhằm<br />
mục tiêu: Mô tả thực trạng và nhận thức về hôn<br />
nhân gia đình của người nhiễm HIV/AIDS ở<br />
huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.<br />
*<br />
<br />
Tel:<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Đối tượng và thời gian nghiên cứu<br />
Gồm 237 người nhiễm HIV, có hộ khẩu<br />
thường trú ở 17 xã, thị trấn tại huyện Quảng<br />
Uyên, có sổ theo dõi sức khoẻ của y tế cơ sở;<br />
thời gian nghiên cứu từ tháng 11/2009 đến<br />
5/2010.<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang, mẫu<br />
thuận tiện gồm toàn bộ những người<br />
HIV/AIDS tại địa bàn nghiên cứu.<br />
Phỏng vấn trực tiếp người tự nguyện tham gia<br />
nghiên cứu theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn.<br />
Lấy máu xét nghiệm HIV bằng các kỹ thuật<br />
test nhanh, serodia HIV và ELISA.<br />
Xử lý số liệu bằng phần mềm EPI INFO 6.04,<br />
SPSS.<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Đặc điểm chung của người nhiễm HIV/AIDS<br />
ở huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng, kết quả<br />
nghiên cứu cho thấy nam giới chiếm tỷ lệ là<br />
97,89%, dân tộc Kinh là 89,03%, NCMT là<br />
97,47%, từ 30 tuổi trở xuống là 53,16%, trên<br />
30 tuổi là 46,84%.<br />
91<br />
<br />
96Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Bế Thị Phoi và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
104(04): 91 - 95<br />
<br />
Bảng 1. Tình trạng hôn nhân gia đình<br />
n<br />
79<br />
124<br />
14<br />
5<br />
15<br />
109<br />
19<br />
66<br />
2<br />
12<br />
2<br />
11<br />
16<br />
<br />
Nội dung<br />
Có vợ/chồng<br />
Chưa có vợ/chồng<br />
Tình trạng hôn nhân (n = 237) Ly dị<br />
Goá<br />
Ly thân<br />
Sống với bố, mẹ<br />
Sống với anh, chị, em<br />
Sống với vợ/chồng<br />
Sống với họ hàng<br />
Tình trạng cuộc sống (n = 237)<br />
Sống với bạn bè<br />
Sống lang thang<br />
Sống một mình<br />
Sống với người khác<br />
<br />
%<br />
33,33<br />
52,32<br />
5,91<br />
2,11<br />
6,30<br />
45,99<br />
8,02<br />
27,85<br />
0,84<br />
5,06<br />
0,84<br />
4,64<br />
6,75<br />
<br />
Nhận xét: tỷ lệ người nhiễm HIV có vợ/chồng là 33,33%, chưa có vợ là 52,32%, số còn lại là ly<br />
dị, góa hoặc sống ly thân. Tỷ lệ người còn sống chung với bố mẹ và anh, chị, em ruột là 54,01%.<br />
Bảng 2: Sử dụng BCS thường xuyên trong QHTD vợ/chồng<br />
Sử dụng BCS thường xuyên<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
Có<br />
<br />
85<br />
<br />
68,55<br />
<br />
Không<br />
<br />
39<br />
<br />
31,45<br />
<br />
Cộng<br />
<br />
124<br />
<br />
100.00<br />
<br />
Nhận xét: tỷ lệ người nhiễm HIV sử dụng bao cao su (BCS) thường xuyên trong 12 tháng qua khi<br />
quan hệ tình dục (QHTD) với vợ/chồng/người yêu là 68,5%.<br />
Bảng 3: Sinh thêm con sau khi nhiễm HIV ở người có vợ/chồng<br />
Tình trạng sinh con<br />
Có<br />
Không<br />
Cộng<br />
<br />
n =79<br />
4<br />
75<br />
79<br />
<br />
%<br />
5,06<br />
94,94<br />
100,00<br />
<br />
Nhận xét: có 5,06% cặp vợ chồng sinh thêm con sau khi đã biết một trong số họ bị nhiễm HIV.<br />
Bảng 4: Dự định sinh thêm con ở người nhiễm HIV đang có vợ/chồng<br />
Dự định sinh con<br />
Có<br />
Không<br />
Cộng<br />
<br />
n= 79<br />
10<br />
69<br />
79<br />
<br />
%<br />
12,66<br />
87,34<br />
100,00<br />
<br />
Nhận xét: có 12,7% người nhiễm HIV vẫn dự định sinh thêm con mặc dù đã biết bị nhiễm HIV.<br />
Bảng 5: Dự định kết hôn và sinh con ở người nhiễm HIV chưa lập gia đình<br />
Thông tin<br />
Dự định kết hôn (n = 124)<br />
Dự định sinh con (n=27)<br />
<br />
Thái độ<br />
Có<br />
<br />
n<br />
27<br />
<br />
%<br />
21,77<br />
<br />
Không<br />
<br />
97<br />
<br />
78,23<br />
<br />
Có<br />
<br />
8<br />
<br />
29,63<br />
<br />
Không<br />
<br />
19<br />
<br />
70,37<br />
<br />
Nhận xét: trong số người nhiễm HIV chưa lập gia đình có 21,8% dự định kết hôn. Trong số<br />
người dự định kết hôn có 29,6% dự định sinh con.<br />
92<br />
<br />
97Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Bế Thị Phoi và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Kết quả nghiên cứu 237 người nhiễm HIV ở<br />
huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng cho thấy<br />
nam giới chiếm tỷ lệ là 97,89%, dân tộc kinh<br />
chiếm là 89,03%, có NCMT là 97,47%, từ 30<br />
tuổi trở xuống là 53,16%, trên 30 tuổi là<br />
46,84%. Người nhiễm HIV ở tuổi lao động<br />
tăng thì sẽ giảm sự đóng góp sức lao động<br />
cho xã hội. Chúng tôi chưa xác định được tỷ<br />
lệ những người bị lây nhiễm HIV này là do<br />
NCMT là bao nhiêu. Tuy nhiên, với tỷ lệ cao<br />
người nhiễm HIV có NCMT (97,47%,) cho<br />
thấy kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng<br />
phù hợp với nhận xét của ban phòng chống<br />
AIDS- Bộ Y tế năm 2001 là đa số người<br />
nhiễm HIV được phát hiện là do NCMT<br />
[2],[3]. Như vậy, có thể khái quát đặc điểm<br />
chung của người nhiễm HIV trong nghiên cứu<br />
của chúng tôi là: hầu hết nam giới, người dân<br />
tộc kinh, trẻ tuổi, có NCMT. Những đặc điểm<br />
này ảnh hưởng đến thực trạng và nhận thức<br />
về hôn nhân gia đình của họ như thế nào, đó<br />
là những vấn đề đặt ra cho nghiên cứu này.<br />
Nghiên cứu thực trạng hôn nhân gia đình của<br />
người nhiễm HIV, kết quả bảng 1 thấy tỷ lệ<br />
các đối tượng này có vợ/chồng là 33,33%.<br />
Như vậy, còn khoảng 2/3 là chưa có vợ, ly dị,<br />
góa hoặc ly thân. Đối với người nhiễm HIV<br />
chưa lập gia đình thì thường hay có những<br />
hành vi tiêu cực hơn vì nhận thức của họ về<br />
cuộc sống còn đơn giản, thiếu trách nhiệm với<br />
bản thân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, tỷ lệ<br />
người nhiễm HIV chưa lập gia đình cao cũng<br />
có những thuận lợi cho công tác tư vấn nhằm<br />
kịp thời hạn chế hậu quả do HIV/AIDS gây ra<br />
đó là: nhận thức về hôn nhân, dự định sinh<br />
con và hành vi tình dục an toàn với các loại<br />
bạn tình.... Vì vậy, những vấn đề mà chúng<br />
tôi quan tâm ở những người nhiễm HIV đang<br />
có vợ/chồng là thực trạng gia đình của họ và<br />
hành vi tình dục trong quan hệ vợ chồng. Đối<br />
với người chưa có vợ/chồng thì chúng tôi<br />
muốn tìm hiểu nhận thức của họ về hôn nhân<br />
và gia đình (có con hay không).<br />
Kết quả nghiên cứu về thực trạng cuộc sống<br />
cũng tại bảng 1 thấy có 54,01% người nhiễm<br />
HIV đang sống chung với bố mẹ hoặc anh,<br />
chị em ruột, có thể do những đối tượng này<br />
<br />
104(04): 91 - 95<br />
<br />
còn trẻ và chưa lập gia đình. Trong nghiên<br />
cứu này, chúng tôi chưa khảo sát được thái độ<br />
đối xử của gia đình đối với họ để tìm hiểu<br />
xem tỷ lệ gia đình chấp nhận hỗ trợ gúp đỡ họ<br />
là bao nhiêu. Tuy nhiên, với tỷ lệ người<br />
nhiễm HIV còn chung sống với gia đình cao<br />
cho thấy nhiều người nhiễm HIV trên địa bàn<br />
nghiên cứu có cơ hội và điều kiện thuận lợi để<br />
được chăm sóc từ gia đình. Số người nhiễm<br />
HIV vẫn sống với vợ/chồng là 66/79 (chiếm<br />
83,54%). Sống cùng với vợ hoặc chồng sẽ có<br />
những điều kiện thuận lợi để họ được chăm<br />
sóc về bệnh tật và tinh thần. Tuy nhiên, người<br />
nhiễm HIV cần phải nhận thức đúng về cuộc<br />
sống gia đình và có hành vi tình dục an toàn<br />
với vợ hoặc chồng.<br />
Nghiên cứu hành vi tình dục an toàn trong<br />
quan hệ vợ chồng của người nhiễm HIV, kết<br />
quả bảng 2 cho thấy chỉ có 68,55% số người<br />
thường xuyên sử dụng BCS trong quan hệ<br />
tình dục. Vẫn còn gần 1/3 số người không<br />
thường xuyên sử dụng BCS trong QHTD.<br />
Trong khi phần lớn họ còn đang ở độ tuổi<br />
hoạt động tình dục mạnh mà có hành vi tình<br />
dục không an toàn sẽ góp phần làm tăng nguy<br />
cơ lây nhiễm HIV cho vợ hoặc chồng. Mặc dù<br />
nguy cơ nhiễm HIV qua quan hệ tình dục<br />
không cao như so với tiêm chích ma túy,<br />
nhưng việc người nhiễm HIV thường xuyên<br />
sử dụng BCS trong QHTD là cần thiết để làm<br />
giảm nguy cơ lây nhiễm cho vợ hoặc chồng.<br />
Vì vậy, vấn đề đặt ra là để đạt tỷ lệ 100%<br />
người nhiễm HIV sử dụng BCS khi QHTD<br />
với vợ chồng thì cần phải tăng cường giáo<br />
dục để họ thay đổi hành vi tình dục một cách<br />
triệt để. Thành công của công tác dự phòng<br />
lây nhiễm HIV phụ thuộc vào việc thay đổi<br />
hành vi của các đối tượng nguy cơ cao, gồm<br />
việc tăng cường sử dụng BCS trong QHTD,<br />
giảm số lượng bạn tình trong nhóm những<br />
người có hoạt động quan hệ tình dục mạnh;<br />
giảm hành vi dùng chung bơm kim tiêm trong<br />
những đối tượng NCMT.<br />
Tỷ lệ người đã có vợ/chồng sinh thêm con sau<br />
đã bị nhiễm HIV là 5,06% (bảng 3). Điều này<br />
đưa đến những khó khăn trong việc theo dõi<br />
và điều trị dự phòng cho các trẻ sau sinh.<br />
Người nhiễm HIV đang có vợ/chồng, có dự<br />
93<br />
<br />
98Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Bế Thị Phoi và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
định sinh thêm con, kết quả bảng 4 cho thấy<br />
có 12,66% người mặc dù họ đã biết mình bị<br />
nhiễm HIV. Dự định sẽ kết hôn ở những<br />
người chưa lập gia đình bị nhiễm HIV, kết<br />
quả nghiên cứu bảng 5 cho thấy là 21,77%,<br />
trong đó có 29,63% số người có dự định sẽ<br />
sinh con. Để đảm bảo tránh lây nhiễm HIV<br />
cho vợ/chồng và những đứa con họ sinh ra thì<br />
cần thiết phải điều trị dự phòng. Điều đó sẽ<br />
gây tốn kém cho gia đình và xã hội. Hơn nữa<br />
hiện nay việc cung cấp thuốc điều trị<br />
HIV/AIDS cũng còn gặp nhiều khó khăn.<br />
Chúng tôi chưa tham khảo được nghiên cứu<br />
nào để so sánh kết quả của mình, song với kết<br />
quả này đã đặt ra cho công tác tư vấn, thông<br />
tin, giáo dục - truyền thông của huyện Quảng<br />
Uyên một nhiệm vụ quan trọng là làm thế nào<br />
để những người nhiễm HIV/AIDS và gia đình<br />
của họ có cách nhìn nhận đúng đắn về hôn<br />
nhân và sinh con sau khi đã bị nhiễm<br />
HIV/AIDS. Mặc dù việc kết hôn và sinh con<br />
là một điều tất yếu trong cuộc sống, là quyền<br />
của mỗi con người song trong bối cảnh của<br />
bệnh dịch HIV/AIDS hiện nay thì người<br />
nhiễm HIV và gia đình của họ cần phải có<br />
những cân nhắc thận trọng trước khi đi đến<br />
quyết định nên hay không nên kết hôn và sinh<br />
con sau khi đã bị nhiễm HIV/AIDS, tránh để<br />
lại những hậu quả không tốt cho gia đình và<br />
cho cộng đồng.<br />
KÊT LUẬN<br />
Người nhiễm HIV ở huyện Quảng Uyên tỉnh<br />
Cao Bằng chủ yếu là nam giới (97,89%), dân<br />
tộc kinh (89,03%), NCMT (97,47%), tuổi trẻ<br />
(53,16% ≤ 30 tuổi).<br />
<br />
104(04): 91 - 95<br />
<br />
Tỷ lệ người nhiễm HIV có vợ/chồng là<br />
33,33%, còn khoảng 2/3 là chưa có vợ, ly dị,<br />
góa hoặc ly thân.<br />
Sống chung với bố mẹ hoặc anh, chị em ruột<br />
là 54,01%. Sống với vợ/chồng chiếm 83,54%<br />
số người đã có vợ/chồng.<br />
Người nhiễm HIV thường xuyên sử dụng<br />
BCS trong QHTD với vợ/chồng là 68,55%,<br />
sinh thêm con là 5,06%, dự định sinh thêm<br />
con là 12,66%.<br />
Người nhiễm HIV dự định kết hôn là 21,77%,<br />
trong đó có 29,63% dự định sẽ sinh con.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Tôn Thất Bách, Nguyễn Trần Hiển (2001).<br />
Báo cáo đánh giá nhanh thực trạng sử dụng ma tuý<br />
và tác hại của sử dụng ma tuý lên sức khoẻ ở<br />
những người tiêm chích ma tuý thành phố Hà Nội,<br />
Trường Đại học Y Hà Nội - Uỷ ban phòng chống<br />
AIDS TP Hà Nội - Tổ chức y tế thế giới, tr 32 - 37.<br />
[2]. Bộ y tế - Ban phòng chống AIDS - Viện vệ<br />
sinh dịch tễ Trung ương (2002), Kết quả điều tra<br />
cơ bản dự án "cộng đồng hành động phòng chống<br />
AIDS" Tại: Lai Châu, Quảng Trị, Đồng Tháp, An<br />
Giang và Kiên Giang, Hà Nội, tr 23 – 26.<br />
[3]. Sở Y tế Thái Nguyên (2003), Báo cáo tổng kết<br />
hoạt động phòng chống AIDS và tình hình nhiễm<br />
HIV/AIDS tỉnh Thái Nguyên từ 1996-2003, Thái<br />
Nguyên.<br />
[4]. Sở Y tế Thái Nguyên (2004), Báo cáo kết quả<br />
nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học - Xây dựng<br />
các mô hình can thiệp có hiệu quả phòng lây<br />
nhiễm HIV/AIDS và giảm lạm dụng ma tuý tại<br />
cộng đồng tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên.<br />
[5]. Hạc Văn Vinh (2000), Chương trình thống kê<br />
và tin học ứng dụng EPI INFO 6.04, Trường Đại<br />
học Y khoa Thái Nguyên<br />
<br />
94<br />
<br />
99Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Bế Thị Phoi và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
104(04): 91 - 95<br />
<br />
SUMMARY<br />
MARITAL STATUS OF HIV/AIDS PATIENTS<br />
IN QUANG UYEN DISTRICT, CAO BANG PROVINCE<br />
Be Thi Phoi1, Tran Van Tien2, Nguyen Quy Thai3*<br />
1<br />
<br />
Quang Uyen Medical Center - Cao Bang, 2Central Dermatology Hospital,<br />
3<br />
College of Medicine and Pharmacy - TNU<br />
<br />
Objectives: To describe marital status and awareness of HIV/AIDS patients at Quang Uyen district.<br />
Method: A cross-sectional study was performed with a convenience sampling of 237 HIV/AIDS<br />
patients at the surveyed area from November 2009 to May 2010. Results: Most of HIV patients<br />
are male of 97.89% ; 89.03% of the patients are Kinh ethnic peoples. The rate of patients who are<br />
drug users was 97.47%. More than half of the patients (53.16%) are under 30 years old. Only<br />
33.33% of the cases have got marriaged, the rest are singles, devorced, separated and widowers;<br />
54.01% of the patients are living with their parents or siblings; 83.54% of marriaged cases live<br />
with their partners and 68.55% of them usually use comdoms in sexual activities with their<br />
companions. The number of couples having more children was 5.06% and this rate was 12.66%<br />
for couples who intend to have more children. There was 21.77% of HIV patients getting married<br />
and 29.63% among them want to have children. Conclusions: There was a huge number of HIV<br />
patients still maintaining unappropreated awareness about marriage and having unsafe sexual behaviors<br />
that increase risks of HIV transmission and cause harms to their family and community.<br />
Key words: HIV/AIDS infection, drug users, condom usesage, sexual activities, marital status.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 01/4/2013, ngày phản biện:15/4/2013, ngày duyệt đăng:24/4/2013<br />
*<br />
<br />
Tel:<br />
<br />
95<br />
<br />
100Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />