intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng người lao động ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội - Ngô Thị Minh Phương

Chia sẻ: Huynh Thi Thuy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

49
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Người lao động ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội là ai, tình hình việc làm của người lao động ngoài quốc doanh, một vài khía cạnh tâm tư của người lao động ngoài quốc doanh,... là những nội dung chính trong bài viết "Thực trạng người lao động ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội". Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng người lao động ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội - Ngô Thị Minh Phương

70 Xã hội học số 2(54) 1996<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Thực trạng người lao động ngoài quốc doanh<br /> ở Thủ đô Hà Nội<br /> <br /> NGÔ THỊ MINH PHƯƠNG<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trong vài năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý<br /> của nhà nước định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa đã làm cho nền kinh tế của nước ta nói chung cũng như ở Thủ<br /> đô nói riêng có nhiều chuyển biến rõ rệt. Với chính sách mở cửa cho phép các thành phần kinh tế khác nhau<br /> cùng tồn tại và phát triển, ở Thủ đô đã ra đời va phát triển các thành phần ngoài quốc doanh. Chính điều đó dẫn<br /> tới sự hình thành trong xã hội một đội ngũ mới của những người lao động - những người lao động trong các<br /> thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mà ta thường gọi tắt là người lao động ngoài quốc doanh (NLĐNQD).<br /> Sự hình thành một tầng lớn người - NLĐNQD có những mặt tích cực, đồng thời cũng sẽ tồn tại những mặt<br /> hạn chế riêng của nó. Chính những mặt tích cực cũng như hạn chế này sẽ ít nhiều không thể không ảnh hưởng<br /> đến mọi mặt của đời sống xã hội và chắc chắn sẽ chi phối không ít tới việc xây dựng, thi hành các chính sách,<br /> biện pháp quản lý xã hội, cũng như quản lý kinh tế cả trên phạm vi vĩ mô và vi mô. Vì thế vấn đề NLĐNQD sẽ<br /> là vấn đề sẽ được nhiều cấp, nhiều ngành và nhiều giới quan tâm. Để làm cụ thể hoá vấn đề NLĐNQD nên<br /> trong bài viết này sẽ cố gắng đề cập đến thực trạng của đội ngũ người lao động này trên cơ sở các cuộc phỏng<br /> vấn sâu, các cuộc trưng cầu ý kiến tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Thủ đô trong năm vừa qua. Những<br /> số liệu được trích dẫn dưới đây là kết quả khảo sát của Liên đoàn Lao động Hà Nội.<br /> A. Người lao động ngoài quốc doanh (NLĐNQD) ở Thủ đô là ai ?<br /> Để nhận diện NLĐNQD ở Thủ đô, chúng tôi tạm chia các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh thành<br /> các nhóm như sau:<br /> - Liên doanh đó là các doanh nghiệp có sự đầu tư của nước ngoài với một số doanh nghiệp Việt Nam<br /> - Hợp tác xã: là các cơ sở hợp tác xã thủ công nghiệp, các hợp tác xã cấp cao vẫn còn tồn tại từ trước hay<br /> mới được thành lập.<br /> Tư nhân: doanh nghiệp của cá nhân hay một số tư nhân bỏ vốn (công ty trách nhiệm hữu hạn).<br /> - Tự do: những người làm việc không nằm trong một hình thức doanh nghiệp nào mà họ tự tố chức tập hợp<br /> nhất lại hoặc làm việc độc lập (bốc vác, đạp xích lô, thợ cắt tóc...).<br /> 1. Nguồn gốc xuất thân:<br /> Trước khi gia nhập đội ngũ NLĐNQD, những người lao động này có nguồn gốc từ đâu, hay nói chính xác<br /> hơn, họ đã làm việc hay học tập ở đâu. Bảng 1 dưới đây sẽ chỉ ra nguồn gốc xuất thân của họ.<br /> <br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Ngô Minh Phương 71<br /> <br /> <br /> Bảng 1: Loại lao động ngoài quốc doanh (%)<br /> Nhóm Liên Hợp Tư Tự Tổng<br /> Nguồn doanh tác xã nhân do<br /> Chưa việc 17,6% 19,2% 34,4% 27,5% 25,1%<br /> Công nhân 46,2% 11,7% 13,6% 18,0% 26,1%<br /> Học sinh 7,0% 20,8% 15,2% 12,8% 12,6%<br /> Bộ đội 2,4% 8,3% 4,0% 11,3% 5,1%<br /> Nghỉ việc 176 2,1% 1,7% 10,6% 15,8% 7,0%<br /> Dạy học 0,9% 0,8% 1,0% 0,8%<br /> Làm tự do 8,8% 8,3% 13,2% 13,5% 11,0%<br /> Thủ công 1,2% 2,5% 6,3% 6,0%<br /> Học nghề 3,3% 3,3% 1,7% 0,8% 2,4%<br /> Khác 10,3% 0,8% 4,0%<br /> Tổng 37,2% 13,6% 34,2% 34,2% 100%<br /> Một thực tế là, do các cơ quan doanh nghiệp nhà nước đang ở tình trạng dư thừa biên chế và thiếu việc làm.<br /> Việc thu hút thành viên mới đến tuổi lao động vào làm việc trong các cơ quan doanh nghiệp nhà nước là rất hạn<br /> chế. Điều này dẫn đến số người chưa việc làm chiếm tới 25,1% trong tổng số NLĐNQD không chỉ là người<br /> chưa có việc làm mà còn là những công nhân đã từng làm việc trong cơ quan, xí nghiệp, doanh nghiệp nhà<br /> nước, lực lượng công nhân đang làm việc trong các xí nghiệp doanh nghiệp nhà nước được chuyển ra nhập đội<br /> ngũ NLĐNQD chiếm tỷ lệ cao nhất là 26,1 % trong đội ngũ là động ngoài quốc doanh.<br /> Ngoài hai thành phần chiếm tỷ lệ lớn nhất vừa nên ở trên, những người NLĐNQD còn xuất thân từ những<br /> nguồn khác. Họ là những học sinh không có điều kiện bước vào các trường đại học hoặc phải bỏ học giữa chừng<br /> vì nhiều lý do khác nhau (12,6%), hay những người đang làm việc tự do xin vào làm tại các doanh nghiệp ngoài<br /> quốc doanh trước những đòi hỏi mới của nền kinh tế thị trường (11,0%). Họ cũng có thể là những các bộ, công<br /> nhân viên nhà nước đã nghỉ việc theo Quyết định 176-HĐBT nhưng vẫn còn trình độ và sức khoẻ nay đi làm<br /> thêm tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để tăng thêm thu nhập nhằm nâng cao đời sống (7,0%) hoặc là các<br /> quân nhân xuất ngũ hay tân binh vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự được trả về địa phương nay tìm kiếm công ăn<br /> việc làm dù chỉ là một công việc đơn giản (đạp xích lô, bốc vác...) hay một chân bảo vệ thường trực ...Ngoài ra<br /> trong đội ngũ NLĐNQD còn cả những người thợ thủ công (6,0%) những học sinh đi học nghề, hợp tác lao động<br /> từ nước ngoài trở về (2,4%) kể cả những người giáo viên không chấp nhận đồng lương ít ỏi của ngành giáo dục<br /> (0,8%).<br /> 2. Tuổi đời của NLĐNQD:<br /> Một chỉ báo quan trọng trong việc nhìn nhận thực trạng một đội ngũ lao động là tuổi đội. Số liệu khảo sát<br /> cho thấy tuổi đời trung bình của NLĐNQD ở Thủ đô hiện nay là 30 tuổi. Sự chênh lệch tuổi đời ở các doanh<br /> nghiệp ngoài quốc doanh cũng không khác nhiều lắm thông qua các số liệu tổng kết sau:<br /> Liên doanh: 29,7<br /> Hợp tác xã: 31,1<br /> Tư nhân: 28,6<br /> Tự do: 32,6<br /> Nhìn chung tuổi đời trung hình của đội ngũ NLĐNQD là trẻ. Điều này chứng tỏ các chủ doanh nghiệp ngoài<br /> quốc doanh rất quan tâm tới hiệu suất lao động của những người làm công ăn lương. Nếu người làm công là<br /> người lao động cơ bắp thì ở thì độ tuổi 30 đang là độ tuổi sung mãn về sức khoẻ nhất, đồng thời họ cũng đã có<br /> đủ thời gian rèn luyện trong việc làm ăn, cũng như đã trải qua cuộc sống nên có đủ khả năng tiếp thu các kỹ<br /> năng làm việc cần thiết trong một thời gian ngắn để có thể đáp ứng ngay yêu cầu của<br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> 72 Thực trạng người lao động ngoài quốc doanh ở Thủ đô Hà Nội<br /> <br /> <br /> chủ doanh nghiệp. Còn nếu người lao động là người lao động trí óc thì độ tuổi 30 cũng là độ tuổi của những nhà<br /> chuyên môn trẻ đã từng qua đào tạo và cũng đã có thời gian tập sự để có thể bắt đầu đứng vững ở vị trí công<br /> việc được giao phó. Số liệu nêu ra trong bảng 2 sẽ giúp chúng ta hiểu rõ thêm về số lượng NLĐNQD ớ các độ<br /> tuổi khác nhau có các nguồn gốc xuất thân khác nhau.<br /> Theo kết quả thống kê của bảng 2 dưới đây ta sẽ thấy số NLĐNQD ở độ tuổi dưới 30 chiếm tới 55,5% còn<br /> độ tuổi từ 30 đến 39 tuổi chiếm 27,7%. Như vậy tổng số NLĐNQD ở hai độ tuổi này (dưới 30 và 30-39 tuổi) là<br /> độ tuổi làm việc sung sức nhất chiếm tất cả là 83,2%, còn lại là độ tuổi trên 40 (16,8%). Điều này càng nói rõ<br /> việc sử dụng sức lao động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như ở trên.<br /> Những số liệu này còn là cơ sở để tự đưa ra nhận định: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hình thành<br /> trong thời gian qua, đa phần họ sử dụng các lao động chân tay, giản đơn, có sức khoẻ. Họ ít thu nhận các lao<br /> động có tay nghề chuyên sâu và không mất thời gian đào tạo lâu. Nếu cần thợ có chuyên môn thì họ tận dụng sử<br /> dụng công nhân đã từng làm trong các doanh nghiệp nhà nước (nghỉ chế độ 176, nghỉ hưu.....) có nhu cầu đi làm<br /> tăng thu nhập.<br /> Bảng 2: Phân hố NLĐNQD thì các độ tuổi (%)<br /> Độ tuổi Dưới Từ 30 đến Từ 40 tuổi<br /> nguồn 30 tuổi 39 tuổi trở lên<br /> Chưa việc 35,9% 11,6% 10,3%<br /> Công nhân 16,7% 51,3% 20,6%<br /> Học sinh 16,9% 5,4% 10,3%<br /> Bộ đội 3,6% 7,1% 8,8%<br /> Nghỉ việc 176 0,4% 4,5% 30,1%<br /> Dạy học 0,7% 0,9% 1,5%<br /> Làm tự do 14,5% 7,1% 5,1%<br /> Thủ công 5,8% 4,0% 8,8%<br /> Học nghề 2,0% 2,7% 2,2%<br /> Khác 3,6% 5,4% 2,2%<br /> Tổng 55% 27,7% 16,8%<br /> 3. Trình độ học vấn của NLĐNQD<br /> Chất lượng của lao động phụ thuộc lớn vào trình độ học vấn của người lao động vì chính trình độ học vấn<br /> giúp họ tiếp nhận và cải tiến kỹ thuật cũng như kỹ năng, kỹ xảo làm việc. Chất lượng sản phẩm làm ra cũng sẽ<br /> phụ thuộc vào cách nhìn nhận của người sản xuất (người làm ra nó). Bảng 3 dưới đây sẽ trình bày các kết quả số<br /> liệu điều tra về trình độ học vấn của NLĐNQD ở thủ đô theo các nhóm doanh nghiệp khác nhau ứng với các<br /> mức văn hoá.<br /> Theo bảng 3. chúng ta có thể thấy ngay một điều là trình độ học vấn của đội ngũ NLĐNQD khá lạc quan.<br /> Tuy rằng số người mù chữ vẫn còn nhưng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số là [0,2%], những người này nằm<br /> trong số những người lao động tự do [chiếm 1,5% của số này] và chắc chắn chỉ làm công việc lao động chân tay<br /> giản đơn. Tỷ lệ NLĐNQD có trình độ học vấn từ cấp ba trở lên chiếm 71,2% trong đó số có bằng đại học đã là<br /> 15,3% và trên đại học là 0,7%. Một điều thay đổi hẳn so với trước kia là đã có một số người có trình độ học vấn<br /> từ bậc đại học và trên đại học trước đây thuần tuý chỉ làm việc trong các cơ quan nhà nước thì nay cũng đã tham<br /> gia làm việc tại các cơ sở doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đây cũng<br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Ngô Minh Phương 73<br /> <br /> <br /> có thể coi là một sự chuyển biển về nhận thức, vì trước đây quan niệm cũ là cứ phải làm trong các cơ quan xí<br /> nghiệp nhà nước thì mới là có công ăn việc làm, thì nay quan niệm đó đã được thay đổi.<br /> Bảng 3: Trình độ họ vấn của NLĐNQD (%)<br /> Mức độ Mù chữ Cấp 2 Cấp 3 Đại học Trên đại<br /> Nguồn học<br /> Liên doanh 4,8% 69,4% 24,2% 1,6%<br /> Hợp tác xã 43,3% 53,3% 3,3%<br /> Tư nhân 32,3% 50,8% 16,5% 0,3%<br /> Tự do 1,5% 63,2% 33,1% 2,3%<br /> Tổng 0,2% 28,6% 55,2% 15,3% 0,7%<br /> <br /> <br /> 4. Về giới tính:<br /> Trong đội ngũ NLĐNQD ở Thủ đô ta thấy nam giới chiếm tới 59,3% và nữ giới chiếm 40,7%. Bảng 4 ở<br /> dưới đây cho ta thấy sự phân bố theo giới tính của những NLĐNQD ở Thủ đô. Và cũng từ bảng 4 tự cũng có thể<br /> rút ra một số điểm liên quan đến giới tính của họ. Chẳng hạn như: Lực lượng lao động trong các cơ quan doanh<br /> nghiệp nhà nước như công nhân, diện nghỉ theo quyết định 176-HĐBT và số giáo viên đã dạy học chiếm tới<br /> 33,5% của tổng số thì trong đó tỷ lệ nam giới chiếm tới 70% của lực lượng này. Phải chăng cơ quan doanh<br /> nghiệp của nhà nước đang bị mất đi lượng quan trọng của mình bởi sức hút mạnh mẹ của các doanh nghiệp<br /> ngoài quốc doanh.<br /> Bảng 4: Giới tính của đội ngũ NLĐNQD ở Thủ đô (%)<br /> Giới Nam Nữ Tổng cộng<br /> nguồn<br /> Chưa việc 22,2% 29,7% 25,3%<br /> Công nhân 29,1% 21,1% 25,8%<br /> Học sinh 10,4% 16,3% 12,8%<br /> Bộ đội 7,7% 1,7% 5,2%<br /> Nghỉ việc 176 9,8% 2,6% 6,9%<br /> Dạy học 0,8% 0,9% 0,8%<br /> Làm tự do 10,8% 11,7% 11,2%<br /> Thủ công 2,9% 10,3% 5,9%<br /> Học nghề 3,1% 1,4% 2,4%<br /> Khác 3,1% 4,3% 3,6%<br /> Tổng 59,3% 40,7% 100%<br /> Đối với lực lượng sản xuất trực tiếp thì trình độ tay nghề được phản ánh qua bậc thợ của họ và nó có ý nghĩa<br /> đặc biệt quan trọng. Số liệu điều tra bậc thợ của 502 công nhân trực tiếp tham gia sản xuất trong các cơ sở quốc<br /> doanh ở thủ đô được khảo sát đưa ra trong bảng 5 dưới đây:<br /> Thợ bậc cao trong đội ngũ NLĐNQD còn rất ít. Nếu kể từ bậc 5 đến bậc 7 thì số thợ này chỉ có 7 người<br /> trong tổng số 502 người tham gia trả lời phỏng vấn. Vậy là số thợ bậc cao chỉ chiếm có 1,4%. Nhìn chung bậc<br /> thợ của những người sản xuất trực tiếp trong đội ngũ NLĐNQD ở Thủ đô còn còn rất thấp. Số liệu trong bảng<br /> này còn cho ta thấy số thợ có tay nghề bậc 1,2 lên tới 77,1% và ngay cả thợ tay nghề bậc 3 cũng chỉ chiếm<br /> 18.5%. Nếu xét về khả năng tay nghề trên quan điểm giới tính của NLĐNQD, ta cũng có thể xem kết quả ở một<br /> số số liệu thống kê khác và ta nhận thấy như sau:<br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> 74 Thực trạng người lao động ngoài quốc doanh ở Thủ đô Hà Nội<br /> <br /> <br /> Trong số thợ có tay nghề thấp (bậc l,2) thì phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới, cụ thể là thợ bậc 1 nữ<br /> chiếm 58,7% và thợ bậc 2 chiếm 51,6%. Nhưng bắt đầu từ thợ bậc 3 thì nam giới chiếm tỷ lệ áp đảo: 68,6% và<br /> cũng từ tỷ lệ này trở lên, số nam giới tỷ lệ thuận với bậc thợ. Chẳng hạn thợ bậc 4, nam giới chiếm 73,3%, bậc<br /> 5, nam giới chiếm 75% và bậc 6, 7 là 100%. Tóm lại, nam giới chiếm số đông trong số thợ bậc cao, còn số<br /> đông phụ nữ có tay nghề thấp.<br /> Bảng 5: Bậc thợ của NLĐNQD ở Thủ đô (%)<br /> Bậc thợ Phần trăm<br /> Bậc 1 32,5%<br /> Bậc 2 44,6%<br /> Bậc 3 18,5%<br /> Bậc 4 3,0%<br /> Bậc 5 1,0%<br /> Bậc 6 0,2%<br /> Bậc 7 0,2%<br /> Tổng số 100%<br /> B. Tình hình việc làm của NLĐNQD:<br /> Một trong những vấn đề cần được xem xét một cách kỹ lưỡng đó là việc làm và thu nhập của người lao<br /> động. Đây chính là điểm cốt lõi dễ dẫn đến những mâu thuẫn và xung đột giữa những người lao động và các chủ<br /> doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các tổ chức đoàn thể, có thể nói cụ thể hơn đó là tổ chức công đoàn trong các<br /> doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quan tâm, bảo vệ những lợi ích chính đáng này của người lao động thì họ<br /> mới thấy được lợi ích thiết thực khi tham gia vào các tổ chức đoàn thể và thực sự gắn bó mình và các loạt động<br /> của đoàn thể đó. Ở phần này chúng ta sẽ đi sâu vào thực trạng của NLĐNQD trên các mặt sau.<br /> 1. Hợp đồng lao động:<br /> Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh việc tuyển dụng người lao động là sự thoả thuận giữa chủ doanh nghiệp<br /> và người lao động. Sự thoả thuận này có thể bằng văn bản [hợp đồng lao động] hoặc có thể chỉ bằng lời nói<br /> [không ký hợp đồng chính thức]. Sự tuỳ tiện này là do hậu quả tất yếu khi mà Luật Lao động chưa thâm nhập<br /> vào thực tế đời sống nó khiến cho quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên chưa có cơ sở pháp lý bảo đảm, lúc nhiều<br /> việc thì người lao động có việc làm đủ, thu nhập cao, còn khi thiếu việc làm thì người lao động phải nghỉ việc.<br /> thu nhập thấp hoặc khi bất đồng quyền lợi thì người lao động có thể bị buộc thôi việc hoặc bị đối xử thiếu công<br /> bằng. Hiện nay trong đội ngũ NLĐNQD đã ký hợp đồng như sau: Trong khu vực liên doanh có 11,1%. Trong<br /> khu vực Hợp tác xã có 28% đã ký. Trong khu vực Tư nhân có 22,5% đã ký và cuối cùng là ở khu vực những<br /> người lao động Tự do có 1,5% đã ký. Như vậy, khi tổng hợp số liệu này, ta thấy mới chỉ có 15,2% NLĐNQD đã<br /> ký hợp đồng lao động với chủ doanh nghiệp. Điều đáng lưu ý ở đây là nếu việc những người lao động tự do ký<br /> hợp đồng thì chỉ có 1,5% là điều hiển nhiên dễ hiểu, thì ngược lại, ở các cơ sở liên doanh (nơi mà ta dễ cho rằng<br /> sự quản lý của nhà nước là chặt chẽ hơn vì có sự đầu tư của nước ngoài) thì số người đã ký cũng chỉ có 11,1%.<br /> Nếu phân tích kết quả điều tra theo trình độ học vấn, ta thấy rằng người lao động có trình độ học vấn càng<br /> thấp thì càng có ít điều kiện ký hợp đồng lao động. Trong số những người mù chữ, chỉ có 4,8% đã ký và số<br /> người ở trình độ cấp 2 là 6,3% đã ký. Trong khi đó số lao động có trình độ cấp 3 là 20,8% và trình độ đại học là<br /> 40%. Các kết quả này cho ta giả thiết rằng các chủ doanh nghiệp tư nhân rất chú trọng đến vai trò chất xám nên<br /> lưu ý hơn trong việc ký hợp đồng lao động với những người lao động có trình độ văn hoá cao nhiều hơn. Ngược<br /> lại, về phía người lao động, người có trình độ học vấn cao nắm được luật pháp càng đòi<br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Ngô Minh Phương 75<br /> <br /> <br /> hỏi nhiều hơn sự đảm bảo pháp lý cho quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc làm thuê cho chủ tư doanh.<br /> Một vấn đề nữa có liên quan đến hình thức và thời hạn hợp đồng. Cần lưu ý là về việc thoả thuận hợp đồng<br /> lao động bằng miệng 9,3% còn lại đều ký văn bản hợp đồng lao động, mà đa số thời hạn kéo dài của hợp đồng<br /> là một năm 34,7% và thời hạn 3 năm là ít nhất: 9,2% trong tất cả các khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh.<br /> Phải chăng ở đây có tình trạng cả về phía chủ doanh nghiệp và người lao động đều muốn thăm dò nhau nên<br /> không muốn ký hợp đồng làm việc dài hạn.<br /> 2. Thời gian lao động<br /> Thời gian phải làm việc trong một ngày là một chỉ báo quan trọng đánh giá điều kiện làm việc của người lao<br /> động. Tuy nhiên vấn đề này ở ta còn nhiều nét đặc thù. Kết quả điều tra về thời gian làm việc của người lao<br /> động ngoài quốc doanh cho ta thấy: Số người lao động hơn 8 giờ một ngày là 32,1%. Trong đó số người lao<br /> động từ 8 đến 10 giờ là 28.1% và số người lao động trên 10 giờ một ngày là 4,0%. Trong số 68,0% tổng số<br /> NLĐNQD còn lại là làm việc từ 6 đến 8 giờ một ngày thì có 5% số người chỉ làm 6 giờ là do họ không có đủ<br /> việc làm trong 8 giờ chứ không phải điều kiện và thời gian lao động của họ là tốt đẹp hay khách quan hơn và tất<br /> nhiên là thu nhập của họ cũng không được như họ mong muốn.<br /> 3. Thu nhập của NLĐNQD<br /> Thu nhập là một trong những động lực chính thúc đẩy người lao động làm việc và gắn bó với doanh nghiệp.<br /> Bởi vậy người lao động luôn quan tâm đến thu nhập của mình. Bảng dưới đây cho ta thấy kết quả điều tra về<br /> mức thu nhập của NLĐNQD ở các khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay ở Thủ đô.<br /> Căn cứ vào kết quả trong bảng ta thấy mức lương của NLĐNQD làm việc trong các liên doanh cao hơn cả.<br /> Theo tính toán thì bình quân thu nhập của người lao động trong Liên doanh là 572.000 đồng/tháng.<br /> Thu nhập thấp của những người lao động cho các doanh nghiệp Tư nhân. Thu nhập bình quân là 280.000<br /> trong tháng. Người lao động Tự do có thu nhập nhiều hơn một chút, bình quân một người lao động tự do là<br /> 286.000 đồng tháng .<br /> Bảng 6: Thu nhập của NLĐNQD trong các khu vực doanh nghiệp<br /> Khu vực Liên Hợp Tư Tự Chung<br /> Mức lương doanh tác xã nhân do<br /> < 200.000đ 0,5% 19,6% 48,2% 12,2% 21,5%<br /> 201.000đ – 300.000đ 2,5% 61,7% 26,2% 80,5% 32,1%<br /> 301.000đ – 400.000đ 31,2% 15,0% 13,3% 1,2% 18,1%<br /> 401.000đ – 500.000đ 32,2% 1,9% 6,7% 4,9% 14,3%<br /> > 500.000đ 33,7% 1,9% 5,6% 1,2% 14,0%<br /> <br /> <br /> Thu nhập của người lao động trong khu vực Hợp tác xã là thấp nhất. Bình quân thu nhập của họ chỉ có<br /> 265.000 đồng tháng.<br /> Nếu xét theo độ tuổi thì lớp người lao động trẻ ở độ tuổi dưới 30 tuổi có thu nhập bình quân là thấp hơn cả<br /> 354.000 trong/tháng và lớp người lao động có thu nhập khá nhất là ớ độ tuổi từ 30 tuổi đến 39 tuổi bình quân là<br /> 422000 đồng/tháng, còn lại ở độ tuổi trên 40 có thu nhập mức trung bình là 403.000 đồng/ tháng.<br /> <br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> 76 Thực trạng người lao động ngoài quốc doanh ở Thủ đô Hà Nội<br /> <br /> <br /> Nhìn chung chỉ có những người lao động trong các cơ sở Liên doanh là có thu nhập tương đối cao.<br /> Còn lại ở các khu vực khác thu nhập bình quân của người lao động không có gì đáng gọi là khả quan. Thu<br /> nhập của họ cũng chỉ xấp xỉ thu nhập của những người làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh mà thời<br /> gian lao động của họ có khi còn phải kéo dài hơn.<br /> C. Một vài khía cạnh tâm tư của NLĐNQD<br /> 1. NLĐNQD tự đánh giá về sự thay đổi trong cuộc sống của họ<br /> Từ các nguồn xuất phát ban đầu khác nhau, sau khi gia nhập vào đội ngũ NLĐNQD hiện nay họ tự đánh giá<br /> về sự thay đổi trong cuộc sống của bản thân so với trước ra sao; Kết quả điều tra cho thấy có tới 37,8% số người<br /> được phỏng vấn cho rằng thu nhập của họ khá hơn trước và nếu kể thêm 14,8 % vui vẻ hơn vì thu nhập hiện nay<br /> thì có tất cả 52,6% hài lòng với thu nhập của mình. Chỉ có 18,9% cho rằng thu nhập của họ thấp, còn lại 28.4%<br /> chấp nhận được thu nhập hiện nay và tự coi mức thu nhập so với trước là ổn định .<br /> Nếu khảo sát trên phương diện giờ tính thì ta có thể thấy mức thu nhập của nam giới thay đổi tốt hơn nữ<br /> giới. Trong khi đó 42,8% nam giới cho rằng thu nhập của mình khá hơn trước thì ở nữ giới tỷ lệ này chỉ có<br /> 32,3% còn số nam giới vui vẻ với thu nhập của họ hiện nay là 18.9% thì con số này ở nữ giới chỉ có 7,5%.<br /> Ngược lại tỷ lệ nam giới cho rằng thu nhập của mình thấp hơn trước là 11,6% thì con số tương ứng nữ giới cao<br /> hơn nhiều 28,5%.<br /> Tìm hiểu sự thay đổi về thu nhập của đội ngũ NLĐNQD ta thấy ảnh hưởng của học vấn khá rõ rệt theo quy<br /> luật sau: Sự cải thiện cuộc sống ở người có học vấn thấp nhiều lên người có học vấn cao hơn. Cụ thể là cùng<br /> một đối tượng là lao động trực tiếp thì số người có trình độ học vấn cấp hai thấy thu nhập của mình cao hơn<br /> trước lên tới 59,5% trong khi đó số người lao động trực tiếp có học vấn cấp ba chỉ có 36,9%; 100% số lao động<br /> trực tiếp thù chữ cảm thấy thu nhập của mình khá hơn trước càng khẳng định thêm nhận xét trên. Nhận xét này<br /> cũng xuất hiện ở đội ngũ lao động trí óc trong đội ngũ NLĐNQD. Trong khi số lao động có trình độ đại học cho<br /> rằng thu nhập của mình cao hơn trước là 61% thì con số này ở những người có trình độ học vấn trên đại học chỉ<br /> có 40%. Hoàn toàn ngược lại nếu chỉ có 3,9% số lao động có trình độ đại học thấy thu nhập của mình thấp hơn<br /> có thể là có tới 20% số lao động có trình đô trên đại học thấy rằng thu nhập của mình thấp hơn trước.<br /> Phải chăng trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù là lao động chân tay hay trí óc, học vấn luôn luôn là yếu tố quan<br /> trọng giúp người lao động làm việc hiệu quả hơn, do đó có thu nhập cao hơn, song cũng có đòi hỏi cao hơn và<br /> cũng khó thoả mãn hơn.<br /> 2 . Người lao động ngoài quốc doanh với các phương tiện thông tin đại chúng<br /> Người lao động hiện nay sống trong một xã hội có nhu cầu về thông tin và đồng thời cũng có điều kiện tiếp<br /> nhận thông tin từ nhiều nguồn và phương tiện truyền tin khác nhau. Thông qua điều tra nhu cầu tìm hiểu chính<br /> sách của đảng và Nhà nước sẽ có thể đánh giá được nhận thức chính trị và nhận thức nói chung cũng như<br /> nguyện vọng của NLĐNQD ở Thủ đô ngày nay.<br /> Số liệu điều tra cho thấy NLĐNQD hiện nay rất quan tâm đến việc tìm hiểu các chính sách của Đảng và nhà<br /> nước. Phải chăng trình độ nhận thức khá cao của họ nên họ hiểu rằng các chính sách của Đảng và Nhà nước liên<br /> quan mật thiết đến đời sống của họ. Nếu như tỷ lệ người lao động tìm hiểu chính sách qua sách báo là trên 63%<br /> thì tỷ lệ tìm hiểu qua các phương tiện nghe nhìn (radio, tivi) là 84,9%. Cũng theo kết quả điều tra thì nam giới<br /> quan tâm nhiều hơn nữ giới. thí nghiệm dụ như 68,9% nam giới tìm hiểu qua sách báo thì nữ giới chỉ có 55,1%<br /> và 87,5% nam giới tìm hiểu qua radio và tivi còn con số này ở nữ giới cũng thấp hơn (81,3%).<br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Ngô Minh Phương 77<br /> <br /> <br /> Phân tích số liệu điều tra theo lứa tuổi ta có nhận xét tuổi càng cao thì sự quan tâm tìm hiểu chính sách cũng<br /> tăng dần mặc dầu sự chênh lệch không phải là lớn lắm. Thí dụ trong lứa tuổi dưới 30 có 60% tìm hiểu chính<br /> sách qua sách báo thì ở lứa tuổi 30 đến 39 tuổi có tới 67,4% còn ở lứa tuổi trên 40 là 70.8%.<br /> Cũng từ các con số 63% NLĐNQD tìm hiểu chính sách qua báo chí, 84,9% qua ti vi... còn nói lên rằng điều<br /> kiện sống của người lao động ngày hôm nay được nâng lên. Các phương tiện và tiện nghi (báo chí, radio, ti vi...)<br /> mà người lao động có trong tay và nhu cầu nâng cao nhận thức của họ thể hiện qua việc tìm hiểu chính sách.<br /> 3. Những mối quan tâm lớn của NLĐNQD:<br /> Khi được hỏi: “Hiện nay anh (chị) quan tâm tới van đề gì?” thì mối quan tâm hàng đầu của NLĐNQD là<br /> việc làm. Điều này thật dễ hiểu vì đối với người lao động có việc làm thì sẽ có thu nhập và có thu nhập thì mới<br /> đảm bảo được cuộc sống. Đối với NLĐNQD lại càng thiết thực hơn bởi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều<br /> mới hình thành nên sự ổn định của nó chưa có gì chắc chắn. Vả lại hợp đồng lao động giữa người lao động và<br /> chủ doanh nghiệp có thể chỉ là thoả thuận bằng miệng hoặc nếu như có ký kết bằng văn bản thì như đã trình bày<br /> ở trên, đa số chỉ có giá từ thời hạn trong 1 năm. Chính bởi vậy mà có tới 94,6% số người được phỏng vấn đều<br /> quan tâm tới việc làm và trong đó có tới 73,8% đặt nó lên hàng đầu trong số các vấn đề cần quan tâm. Mối quan<br /> tâm tới việc làm trở thành mối quan tâm lớn nhất bất kể NLĐNQD làm việc ở các khu vực khác nhau nào, có<br /> tuổi tác nào, giới tính nam hay nữ và học vấn cao hay thấp.<br /> Mối quan tâm được xếp vị trí thứ hai mà NLĐNQD đề cập tới là vấn đề thu nhập. Điều này thể hiện sự khác<br /> biệt giữa NLĐNQD và người lao động trong quốc doanh là ở người lao động trong quốc doanh thì mối quan<br /> tâm hàng đầu là thu nhập rồi mới đến việc làm. Tồn tại sự khác biệt này chính là biểu hiện rơi rớt của chế độ<br /> bao cấp ở một số nơi nếu không có việc làm thì người lao động càng nhàn mà vẫn được nhận trợ cấp hay lương.<br /> Theo số liệu điều tra thì có từ trên 69% số người được phỏng vấn coi thu nhập là mối quan tâm đáng được xếp<br /> thứ hai sau việc làm.<br /> Xem xét một số vấn đề khác như: việc quan tâm đến địa vị xã hội, trình độ học vấn, gia nhập tổ chức công<br /> đoàn, ta có thể đưa ra nhận xét là hầu như NLĐNQD không quan tâm tới. Thí dụ như về địa vị xã hội chỉ có<br /> 13.4% số người được phỏng vấn quan tâm tới, trong đó chỉ 0,5% số người đặt nó vào vị trí quan tâm số 1. Đây<br /> cũng là một nét chuyển biến lớn trong quan niệm xã hội. Người lao động ngày nay đã không còn phải căn cứ<br /> vào làm việc trong cơ quan nhà nước mới có địa vị xã hội mới là đáng kể. Với họ ngày nay chỉ cần có việc làm<br /> và thu nhập cao là điều đáng quan tâm nhất. Nếu có cần nói thêm về vị trí xã hội trong quan niệm của<br /> NLĐNQD, ta cần nêu ra là: có tới 86,7 % số người trả lời không quan tâm đến vấn đề này.<br /> Vấn đề học vấn xem ra còn được quan tâm nhiều hơn là về địa vị xã hội bởi chỉ có 56.7% số người trả lời là<br /> tỏ thái độ không quan tâm tới trình độ học vấn. Tuy nhiên trình độ học vấn không phải là nằm trong số những<br /> quan tâm hàng đầu vì chỉ có 33,2% xếp nó vào mục tiêu quan tâm đúng vị trí thứ 3. Ta cũng có thể đưa ra thêm<br /> nhận xét là nam giới và lứa tuổi trẻ dưới 30 quan tâm tới học vấn nhiều hơn nữ giới và những người cao tuổi<br /> hơn (trên 30 tuổi).<br /> Một vấn đề mà lẽ ra người lao động phải quan tâm nhiều. Đó là việc ra nhập tổ chức công đoàn - tổ chức<br /> nghiệp đoàn bảo vệ quyền lợi của người lao động, thì lại nhận được sự quan tâm không cao bởi có lẽ (l3,4% số<br /> người được phỏng vấn cho biết không quan tâm tới tổ chức công đoàn. Điều này cho thấy tổ chức Công đoàn ở<br /> nước ta chưa làm được hết vai trò mà lẽ ra nó phải đảm nhận. Cũng chính vì vậy mà tổ chức công đoàn chưa thu<br /> hút được sự quan tâm của NLĐNQD. Tuy vậy cũng xin nêu ra ở đây có tới 38.5% số người được phỏng vấn xếp<br /> vấn đề tổ chức công đoàn là mối quan tâm thứ 3 sau việc làm và thu nhập.<br /> 4. Những chính sách của nhà nước mà NLĐNQD quan tâm nhiều:<br /> Sau khi chọn ra một số chính sách có liên quan trực tiếp tới lợi ích của người lao động và yêu cầu NLĐNQD<br /> sắp xếp theo thứ tự từ 1 đến 5 cho lần lượt chính sách của bản thân quan tâm nhiều nhất trở<br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> 78 Thực trạng người lao động ngoài quốc doanh ở Thủ đô Hà Nội<br /> <br /> <br /> xuống, chúng ta được kết quả như sau: Đứng đầu mối quan tâm của NLĐNQD là chính sách giải quyết việc làm<br /> rồi tiếp đó mới là các chính sách bảo hiểm, bảo hộ lao động…<br /> Bằng cách chấm điểm đối với chính sách quan tâm nhất là 5 điểm, chính sách quan tâm thứ hai là 4 điểm ,...<br /> và chính sách không quan tâm là 0 điểm, ta có thể có điểm trung bình thể hiện mức độ quan tâm của NLĐNQD<br /> đối với các chính sách sắp xếp theo các thứ tự sau:<br /> Chính sách giải quyết việc làm: 4,4<br /> Chính sách bảo hộ lao động: 2,9<br /> Chính sách bảo hiểm xã hội: 2,7<br /> Chính sách bảo hiểm y tế: 2,0<br /> Chính sách nâng cao đời sống văn hoá: 1,5<br /> Khi phân tích vấn đề này theo các tiêu chí khác nhau như: loại hình doanh nghiệp của NLĐNQD, tuổi tác,<br /> giới tính, trình độ học vấn…. ta cũng đạt kết quả gần tương ứng với sự chênh lệch không đáng kể.<br /> Điểm nổi bật đáng nêu ra là kết quả điều tra này trùng lặp với kết quả điều tra đã trình bày ở mục 3. Nó nói<br /> lên mối quan tâm bức xúc nhất của họ chính là công ăn việc làm hàng ngày. NLĐNQD chờ đợi chính phủ giải<br /> quyết việc làm để hy vọng cho bản thân một cuộc sống có việc làm ổn định và cũng là để hy vọng cho thế hệ<br /> con em của họ khỏi rơi vào tình trạng thất nghiệp.<br /> Đối với các chính sách khác sự quan tâm của NLĐNQD thấp hơn rất nhiều, thậm chí một bộ phận trong số<br /> họ không quan tâm tới. Điều này nói lên tác động của các chính sách đó đến cuộc sống của họ còn rất ít.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
32=>2