intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo dục nhìn từ chủ trương “học thật, thi thật” ở một số trường đại học công lập

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

26
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo dục nhìn từ chủ trương “học thật, thi thật” ở một số trường đại học công lập" xoay quanh các vấn đề về thực trạng chất lượng giáo dục, chỉ rõ những nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đưa ra phương án khắc phục những khó khăn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo dục nhìn từ chủ trương “học thật, thi thật” ở một số trường đại học công lập

  1. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO DỤC NHÌN TỪ CHỦ TRƯƠNG “HỌC THẬT, THI THẬT” Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TS. Nguyễn Thị Thanh Hòa* 1 Tóm tắt: Đã từ lâu, không chỉ ở Việt Nam mà bất cứ quốc gia nào trên thế giới đều chung quan niệm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Mỗi người Việt thấm nhuần tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí mạnh thì quốc gia mạnh…”. Do đó, giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người. Nguồn nhân lực chất lượng cao “giỏi về chuyên môn, sáng về đạo đức”, “vừa hồng vừa chuyên” sẽ góp phần ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. “Học thật, thi thật, nhân tài thật” là chủ trương đúng đắn, bức thiết nhằm kiến tạo đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, nhất là trong bối cảnh Đổi mới căn bản, toàn diện của ngành Giáo dục hiện nay. Bài viết xoay quanh các vấn đề về thực trạng chất lượng giáo dục, chỉ rõ những nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đưa ra phương án khắc phục những khó khăn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước giai đoạn hiện nay. Tư khóa: Giáo dục, đội ngũ giáo dục, học thật, thi thật. ĐẶT VẤN ĐỀ Thế giới hiện đại đã khẳng định vai trò lớn lao của giáo dục, giáo dục được coi là chiếc chìa khóa tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn, vai trò của giáo dục là phát triển tiềm năng con người, giáo dục là đòn bẩy mạnh mẽ nhất để tiến vào tương lai, giáo dục cũng là điều kiện cơ bản nhất để thực hiện nhân quyền, hợp tác, dân chủ, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Ở Việt Nam, trên cơ sở thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, giáo dục còn hướng vào quá trình đào tạo nhân lực - đây là đội ngũ nòng cốt có trình độ khoa học, nắm vững công nghệ sản xuất hiện đại, các phẩm chất cần thiết của người lao động trong xã hội văn minh trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. 1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ủy ban quốc tế về giáo dục của UNESCO cũng đã đề ra sáu nguyên tắc cơ bản cho các nhà quản lý giáo dục, các lực lượng giáo dục: * Trường Đại học Thủ đô Hà Nội.
  2. 374 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP - Giáo dục là quyền cơ bản của con người và cũng là giá trị chung nhất của nhân loại. - Giáo dục chính quy và không chính quy đều phải phục vụ xã hội, giáo dục là công cụ để sáng tạo, tăng tiến và phổ biến tri thức khoa học, đưa tri thức khoa học đến với mọi người. - Các chính sách giáo dục phải chú ý phối hợp phài hòa cả ba mục đích là: công bằng, thích hợp và chất lượng. - Muốn tiến hành cải cách giáo dục cần phải xem xét kỹ lưỡng và hiểu biết sâu sắc về thực tiễn, chính sách và các điều kiện cũng như những yêu cầu của từng vùng. - Cần có cách tiếp cận phát triển giáo dục thích hợp với từng vùng, tuy nhiên cần phải chú ý đến các giá trị chung, các mối quan tâm của cộng đồng quốc tế như: quyền con người, sự khoan dung, hiểu biết lẫn nhau, dân chủ, trách nhiệm, bản sắc dân tộc, môi trường, chia sẻ tri thức, giảm đói nghèo, dân số, sức khỏe… - Giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả mọi người. Hơn nửa thế kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục ở bậc Đại học nói riêng đã đạt được nhiều thành tích to lớn trong sự nghiệp giải phóng, xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục Đại học đã đào tạo bài bản và cung cấp cho đất nước một đội ngũ cán bộ đông đảo có trình độ Đại học, trên Đại học đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước, cũng như yêu cầu của sự hội nhập khu vực và thế giới trên mọi lĩnh vực. Tốc độ gia tăng các cơ sở giáo dục và đào tạo Đại học nhanh. Hiện trên cả nước có gần 90 cơ sở đào tạo đại học bao gồm các trường Đại học quốc gia, đại học vùng, các trường đại học công lập, bán công, dân lập và các học viện. Lực lượng giảng viên không ngừng nâng cao về chất lượng và quy mô, số lượng sinh viên tăng đáng kể (tăng khoảng 15 lần so với 20 năm trước) và do đó làm cho trình độ dân trí tăng lên rõ rệt. Thành tích trên là đáng trân trọng và tôn vinh. Mặc dù như vậy, nhưng chất lượng giáo dục của Việt Nam vẫn chưa cao, nói một cách ngắn gọn là số lượng tăng rất nhanh nhưng chất lượng vẫn chưa tăng, thậm chí là còn tuột dốc, chưa theo kịp với sự đổi mới của thế giới. Nền giáo dục chúng ta còn nặng kiến thức lý thuyết, hàn lâm mà ít đề cao việc vận dụng kiến thức đó vào công việc trên thực tế, ít cho sinh viên cọ sát với doanh nghiệp, còn ngại ngần liên kết doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề cho sinh viên, dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên cầm tấm bằng giỏi ra trường nhưng thiếu kiến thức, kĩ năng ứng dụng thực tế, sau vài năm vẫn chưa xin được việc, lại quay về làm các công việc lao động thông thường mà không liên quan đến chuyên ngành được đào tạo. Đó là sự lãng phí trong việc đào tạo nhân lực của Việt Nam hiện nay.
  3. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 375 2. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG THỰC TRẠNG TRÊN 2.1. Nội dung chương trình dạy học nặng lý thuyết Các trường Đại học công lập chịu sức ép về thời lượng, thời gian giảng dạy theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, thời lượng giảng dạy các môn lý thuyết, những môn chung chiếm khối lượng tương đối lớn dẫn đến thời lượng các môn chuyên ngành, nội dung thực hành gắn với nghề nghiệp ngày càng bị thu hẹp bởi tổng số tín chỉ của chương trình đào tạo đã được ấn định là 130 tín chỉ/ khóa. Ngoại ngữ mặc dù đã được quan tâm và gia tăng thời lượng trong chương trình đào tạo, tuy nhiên việc dạy còn nặng về lý thuyết, chưa gắn ngoại ngữ với chuyên ngành nên sinh viên không nói được, không nghe được khi các cơ quan, doanh nghiệp cần sử dụng ngoại ngữ. Đây là thực trạng nan giải vẫn tồn tại nhiều chục năm qua. Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục trong các trường đại học ở Việt Nam nhìn chung còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của sinh viên. Nhiều giáo trình giảng dạy cho sinh viên đã quá cũ (xuất bản cách đây 10 đến 20 năm) không cập nhật kiến thức mới, đặc biệt là không định hướng tư duy sáng tạo, kĩ năng thực hành, kỹ năng mềm tư duy rèn nghề, rèn phẩm chất đạo đức giúp người học có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh khi bước vào guồng quay của thực tiễn xã hội, doanh nghiệp. 2.2. Hệ thống quản lý nhà nước, cơ chế chính sách dành cho người dạy chậm đổi mới Hệ thống quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới, là nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực khác của đất nước. Cụ thể là hàng năm các cơ quan chức năng đều ban hành quy chế mới dành cho giảng viên, yêu cầu tăng số giờ làm việc hành chính, tăng giờ nghiên cứu khoa học, định mức giảng dạy tăng trong khi chế độ lương, đãi ngộ không tăng. Điều này khiến cho bộ phận giảng viên trong các trường Đại học công lập có xu hướng từ bỏ viên chức để ra ngoài làm việc cho các cơ sở tư nhân, một số ở lại công tác thì đều có tư tưởng “chân trong chân ngoài” để đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình. Một số cơ sở giáo dục Đại học những năm gần đây đều xảy ra tình trạng chảy máu chất xám, đội ngũ phó giáo sư, tiến sĩ rời khỏi nhà trường khiến cho cơ sở giáo dục bị mất cân đối trong đội ngũ giảng dạy. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến giảm chất lượng đào tạo ở một số trường đại học công lập hiện nay. Một căn nguyên xuất phát từ bộ phận quản lý của các cơ sở giáo dục giáo dục chưa chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng cho các trường học. Phần lớn các cơ
  4. 376 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP quan chủ quản không mặn mà trong việc đầu tư cơ sở vật chất cho các trường học, dẫn đến nhiều ngôi trường đã trên 60 năm đào tạo mà cơ sở vật chất vẫn không được xây dựng, hệ thống giảng đường đã quá cũ làm cho môi trường cảnh quan sư phạm trở nên nghèo nàn, lạc lõng trong bối cảnh hiện hiện đại, giữa thời kỳ cách mạng 4.0. Nhiều cơ sở đào tạo dù đã chuyển hẳn mô hình đào tạo từ lý thuyết, định hướng nghiên cứu sang đào tạo đa nghề, theo định hướng ứng dụng, trường xuất hiện nhiều ngành dịch vụ (du lịch, khách sạn, kinh doanh…) tuy nhiên không có phòng thực hành đảm bảo đúng tiêu chuẩn như thực tế tại các doanh nghiệp đang vận hành. Sinh viên chủ yếu phải học “chay” hoặc đơn vị phải tự túc việc liên kết với các cơ sở để đưa sinh viên xuống thực hành. Việc liên kết này còn mang tính manh mún, chưa có lộ trình mang tính chiến lược. Để giải quyết được căn bản những vấn đề đặt ra, những người lãnh đạo, quản lý, những nhà khoa học, những người làm giáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy đủ, khách quan, đổi mới cơ chế chính sách để đầu tư cho các cơ sở giáo dục phục vụ cơ bản điều kiện dạy và học. Nhà nước cần coi trọng việc nâng cấp chất lượng giáo dục bằng cách tăng khung lương, bậc lương, thu nhập của giảng viên nâng cao để người dạy yên tâm gắn bó với nghề. 2.3. Phương pháp dạy học chậm đổi mới Hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 376 trường đại học, với khoảng 6600 giáo sư và phó giáo sư. Tuy nhiên theo Tổng Thư ký hội đồng chức danh giáo sư, nếu đánh giá đúng theo tiêu chuẩn quốc tế, Việt Nam chỉ có khoảng từ 15 đến 20% có trình độ tương ứng với chức danh đó [4]. Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên ngày một nâng cao nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu mang tính thuyết giảng, người học tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang nặng lý thuyết, thiếu cập nhật thực tiễn dẫn tới xơ cứng, giáo điều, tính ứng dụng thấp. Mặt khác, việc sử dụng các phương tiện hiện đại phục vụ cho giảng dạy chưa nhiều, do vậy mà không thể truyền tải hết lượng thông tin cần cung cấp cho người học, số thời gian của giảng viên lên lớp tại các trường quá lớn, cho nên hạn chế thời gian nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế. 2.4. Năng lực người học chưa đáp ứng yêu cầu xã hội Mỗi năm có khoảng 20000 sinh viên ra trường và chỉ 50% được đáp ứng việc làm, trong đó chỉ 30% đúng nghành nghề. Trong một cuộc sát hạch, đánh giá của Intel để tuyển dụng 2000 sinh viên công nghệ thông tin, chỉ có 90 ứng sinh, nghĩa là 5% vượt qua kiểm tra, trong số đó chỉ có 40 người đủ khả năng tiếng Anh theo yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận, đây là kết quả thấp nhất mà họ từng gặp ở những nước mà họ đầu tư [4].
  5. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 377 Chất lượng đầu ra không cao phần lớn xuất phát từ đầu vào thấp. Đầu vào của nhiều cơ sở đào tạo Đại học hiện nay quá thấp, chủ yếu tập trung ở các trường xét tuyển. Bởi nhìn vào điểm chuẩn đầu vào của các ngành Sư phạm tại các trường đại học năm 2012, người ta không khỏi giật mình. Tại Đại học Đà Nẵng, điểm chuẩn ngành Sư phạm Vật lý là 14,5 điểm, ngành Sư phạm Tin học: 13 điểm. Đại học Tây Bắc, điểm chuẩn ngành Sư phạm Toán: 14 điểm, Sư phạm Vật lý: 13 điểm. Như vậy, chỉ cần trung bình mỗi môn thi từ 4,5 đến 5 điểm là các bạn trẻ của chúng ta đủ tiêu chuẩn bước vào giảng đường Đại học. Đầu vào là thế, liệu đầu ra của đội ngũ các thầy cô giáo tương lai liệu có đảm bảo chất lượng để thay đổi chất lượng dạy và học tại các cơ sở giáo dục. Sinh viên hiện nay chưa chủ động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu, thiếu tư duy khoa học, còn có tư tưởng học thụ động, học theo phong trào, học cho qua, “học theo hội chứng bằng cấp”, do vậy khi tốt nghiệp chưa đủ kiến thức để đáp ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị thực tiễn chối bỏ. Chỉ số chất lượng đào tạo của nước ta so với các nước trong khu vực Đông Nam Á đứng hàng 10 trên 11 nước. Hơn 50% SV được khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng học của mình. Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học; gần 70% SV cho rằng mình không có năng lực tự nghiên cứu; gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú học tập (Theo một nghiên cứu mới đây về phong cách học của sinh viên của PGS.TS. Nguyễn Công Khanh [5]. Nhìn chung giáo dục Việt Nam chưa thực sự sát với thực tế, sinh viên sau khi tốt nghiệp các trường đại học chưa hẳn đã có việc làm, dường như giáo dục chưa đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội. Sinh viên Việt Nam sau khi tốt nghiệp các trường đại học ra thường phải học thêm một số chương trình mà bên tuyển dụng yêu cầu, vì họ cho rằng cái mà sinh viên học được ở trường lớp chỉ đa phần là lý thuyết suông, chưa thể áp dụng vào thực tế. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Mục tiêu giáo dục của ta hiện nay là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Theo công bố của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) năm 1993 về chỉ tiêu quy mô phát triển giáo dục thì so với quốc tế, ta đều thấp hơn về chỉ tiêu phát triển giáo dục ở các bậc học. Chất lượng đào tạo ở một số trường cao đẳng, đại học ta còn thấp so với nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới. Vì vậy, muốn thực hiện được mục tiêu giáo dục đề ra, chúng ta cần tích cực thực hiện đồng bộ các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục:
  6. 378 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 3.1. Tăng lương cho giảng viên có trình độ chuyên môn cao Hiện nay, với thang bảng lương đang áp dụng, ngành Giáo dục thật khó để thu hút được đội ngũ giáo viên giỏi. Thực tế cho thấy học sinh cuối cấp hiện nay thường thích đăng ký học khối ngành không phải Sư phạm, chẳng hạn khối ngành Kinh tế, Ngân hàng, Tài chính, Truyền thông… Rất dễ lý giải tình trạng này, bởi khi ra trường, một sinh viên học về kỹ thuật hay thương mại, kinh tế nếu làm cho một doanh nghiệp tư nhân trong nước cũng có thể có mức lương khởi điểm từ 3 – 4 triệu đồng/ tháng, nếu được làm cho các tổng công ty, tập đoàn lớn hay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì mỗi tháng bình quân có thể thu nhập từ 6 – 10 triệu đồng, thậm chí hơn nữa. Với mức lương đó, nhìn vào thang bảng lương giáo dục, người thầy không khỏi chạnh lòng. Bởi vì, một giảng viên có thâm niên 10 năm kinh nghiệm tại các trường đại học lớn của Việt Nam cũng không thể có được mức lương ngang bằng một sinh viên vừa tốt nghiệp Đại học, làm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. So sánh nhỏ này cho thấy chừng nào chúng ta chưa cải cách hệ thống thang bảng lương ngành Giáo dục, chừng đó chúng ta vẫn khó có thể có được đầu vào tốt cho ngành Sư phạm. Bởi xét về mặt kinh tế, chi phí chúng ta đánh mất trong tương lai cho vấn đề này sẽ còn cao hơn rất nhiều so với việc tăng lương cho giáo viên. Vì một giáo viên kém ảnh hưởng đến hàng trăm người, thậm chí ảnh hưởng đến cả nhiều thế hệ. Như vậy, phải tăng lương thì ngành Giáo dục mới có cơ hội chiêu mộ được người tài. 3.2. Đổi mới phương pháp giáo dục Để nâng cao chất lượng đào tạo chúng ta cần phải cải tiến đổi mới đồng bộ về nhiều mặt: chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, đội ngũ giáo viên,… Trong đó việc đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo một cách bền vững. Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ tạo điều kiện tốt cho người học có thể phát huy hết khả năng tư duy của mình, biến quá trình học của người học thành quá trình phát triển tư duy sáng tạo. Cụ thể là giảng viên cần tăng cường áp dụng những kĩ thuật dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm như kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật bể cá, kĩ thuật tia chớp, kĩ thuật phòng tranh…, các công cụ dạy học hiện đại: phần mềm dạy học, phần mềm thiết kế trò chơi, dùng video, tranh, ảnh,… minh họa cho nội dung bài học. Giảng viên hạn chế dùng các phương pháp truyền thống: truyền thụ một chiều (giảng viên đọc, sinh viên ghi chép), không có sự tương tác với học sinh trong giờ học, học “chay” không có công cụ minh họa… Bên cạnh đó, ngành giáo dục từng bước đổi mới nội dung sách giáo khoa, loại bỏ những kiến thức không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật những tiến bộ khoa học, công nghệ, tăng nội dung công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành.
  7. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 379 Nhìn rộng ra, các quốc gia có nền giáo dục phát triển trên thế giới đặc biệt quan tâm đến việc phát triển tư duy sáng tạo, khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc theo nhóm của người học. Các quốc gia trên thế giới đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm khích lệ và tạo điều kiện tốt nhất để người học phát triển khả năng sáng tạo của mình. Nhiều trong số các phương phương pháp, chúng ta có thể học tập và áp dụng cho Việt Nam. 3.3. Đổi mới công tác quản lý giáo dục Khó khăn nhất của chúng ta hiện nay là sự yếu kém của đội ngũ quản lý giáo dục, đây là hậu quả của chế độ quan liêu, bao cấp đã tồn tại trên đất nước ta một thời gian dài. Hiện nay chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới. Trước hết cần hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về giáo dục trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính giáo dục. Thống nhất một đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục; quản lý theo pháp quyền trên cơ sở một hệ thống pháp luật giáo dục đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và triệt để phân cấp quản lý giáo dục; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục, nhất là các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Tăng hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục trong toàn ngành ở tất cả các cấp quản lý nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục; chuyển dần quản lý nhà nước về giáo dục nặng về hành chính sang quản lý chất lượng và từ quản lý nhà nước theo cách kiểm soát sang giám sát mọi hoạt động giáo dục. Nâng cao vai trò các tổ chức xã hội nghề nghiệp giáo dục như Hội Giáo chức, Hội Khuyến học, liên hiệp hội các trường ngoài công lập… trong phát triển giáo dục. Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo với cơ quan quản lý nhân lực và việc làm. Nên có định hướng quản lý ngành Giáo dục theo ngành dọc toàn bộ, độc lập chỉ đạo về chuyên môn, nhân sự, ngân sách, thanh tra kiểm tra, kể cả xây dựng cơ bản, cơ sở vật chất thì ngành mới chủ động thay đổi phương pháp giáo dục. Xứ lý nghiêm túc các hiện tượng tiêu cực trong ngành Giáo dục (thi cử, luận văn, cấp bằng …). Tăng cường sắp xếp lại hệ thống các trường Đại học công, trường tư, trường bán công, trường dân lập; gắn các trường đại học và trung học chuyên nghiệp với các viện nghiên cứu để tận dụng tối ưu năng lực của đội ngũ và cơ sở vật chất hiện có. 3.4. Xây dựng đội ngũ giáo viên chất lượng cao, tạo động lực cho người học Nguồn lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là vốn quý nhất, là động lực, là nhân tố đảm bảo cho lợi thế giáo dục nước ta phát triển và cạnh tranh được với
  8. 380 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giỏi là chìa khóa, là nhân tố trung tâm cho sự nghiệp giáo dục phát triển. Suy đến cùng, chất lượng nền giáo dục nước ta cao hay thấp phần lớn phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ thầy, cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Do vậy, phải đặt trọng tâm vào việc tạo bước chuyển biến chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thực tiễn 25 năm đổi mới giáo dục đã khẳng định phải mở rộng, phát huy dân chủ và thực hiện đồng bộ các khâu phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, bố trí sử dụng, thực hiện chính sách đãi ngộ tương xứng. Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong toàn ngành là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài bởi vì sự nghiệp giáo dục nước ta luôn phát triển đặt ra yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về trình độ, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của nhà giáo và năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ quản lý giáo dục. Ngành giáo dục nói chung, các cơ sở đào tạo nói riêng cần đưa ra chính sách đãi ngộ cao hơn cho những giảng viên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn, trung và dài hạn. Giảng viên được tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn bằng những khóa học đào tạo nghiên cứu sinh trong nước và gửi đào tạo ở các cơ sở giáo dục uy tín trên thế giới. Bên cạnh việc nâng cao chuyên môn, hàng năm các nhà trường cần tổ chức mời chuyên gia đào tạo về đổi mới các phương pháp dạy học trên lớp và cách sử dụng các phần mềm ứng dụng tin học khi học trực tuyến (online). Điều quan trọng nhất là mỗi giảng viên luôn chủ động trong việc học hỏi, đổi mới, linh hoạt giảng dạy trong từng hoàn cảnh, phù hợp với mỗi đối tượng sinh viên, đồng thời giảng viên tăng cường trải nghiệm thực tiễn tại các doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước… để nắm được kĩ năng thực hành phục vụ công tác rèn nghề cho sinh viên. KẾT LUẬN Nhìn lại đoạn đường phát triển của giáo dục nước nhà, trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, chính những yếu kém, bất cập này đã làm cho chúng ta đã lùi đi rất nhiều so với các nước trong khu vực và quốc tế. Bài viết này đã nêu lên được phần nào những đánh giá thực trạng khách quan về nền giáo dục Việt Nam hiện nay, có tham khảo một số ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong ngành nhằm cải tạo nền giáo dục, nhất là việc nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường đại học công lập hiện nay. Qua bài viết này, chúng tôi mong muốn rằng xã hội sẽ có cái nhìn khách quan hơn về nền giáo dục nước nhà, từ đó mỗi chủ thể trong ngành Giáo dục sẽ tự vạch ra những con đường riêng, hướng đi riêng, cũng như những giải pháp cho phù hợp với vai trò của mình. Có như vậy thì nền giáo dục Việt Nam sẽ sớm được bè bạn quốc tế biết đến là một đất nước có nền giáo dục tiến bộ và có chất lượng.
  9. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 381 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Lương Bằng (2001), Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi mới giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học Viện Chính tri Quốc gia Hồ Chí Minh. 2. Lê Thị Kim Dung, Hoàn thiện pháp luật về giáo duc Đại học ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Nguyễn Thị Thu Hà (2012), Nâng cao hiệu lự quản lý nhà nước về giáo dục Đại học, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Trinh Phúc (2021), Báo “Nhà báo và công luận” đăng ngày 4/6/2021. 5. Mai Minh (2008), Báo điện tử Dân trí đăng ngày 25/9/2008.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0