Luận văn
Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương
Yên – Chương Mỹ (Hà Tây cũ) sau khi sáp nhập Hà Nội
1
Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan
tâm lớn của hầu hết các quốc gia và của toàn nhân loại. Đảng và Nhà nước ta luôn coi
việc thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho mọi người dân để tạo thu nhập và
không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế
- xã hội. Bởi vì, trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta luôn lấy con người làm
trung tâm, coi phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc, một mặt là điều kiện để phát huy
được tiềm năng lao động - nguồn nội lực to lớn nhất ở nước ta cho sự phát triển kinh tế
- xã hội, cải thiện đời sống, mặt khác cũng là hướng cơ bản để xóa đói giảm nghèo bền
vững. Đặc biệt trong điều kiện nước ta, tài nguyên không nhiều, nguồn lực tài chính và
cơ sở vật chất còn nghèo, quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức còn chậm thì việc
ưu tiên hàng đầu cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người là
sự đầu tư có hiệu quả nhất để tăng trưởng và phát triển kinh tế, chống nguy cơ tụt hậu
và khẳng định vị thế đất nước khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Hà Tây (cũ ) là một địa danh nổi tiếng với hơn 1.600 làng nghề, trong đó có hơn
400 làng được chính thức cấp bằng làng nghề truyền thống với các sản phẩm nổi tiếng
cả nước như: Lụa Vạn Phúc (Hà Đông), Sơn mài (Duyên Thái), Tiện gỗ (Nhị Khê),
Thêu (Quất Động), M ây tre đan (Chương Mỹ)…Từ lâu, những làng nghề này đã giải
quyết việc làm cho hầu hết lao động nông thôn thuộc mọi lứa tuổi của địa phương
trong những lúc nông nhàn. Những năm gần đây nền kinh tế phát triển nhanh chóng,
quá trình CNH – HĐH của đất nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ, Thủ đô Hà Nội được
mở rộng về phía Tây Nam, theo đó từ ngày 01/08/2008 toàn bộ tỉnh Hà Tây được sáp
nhập với Hà Nội. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề kinh tế - xã hội của người
dân nơi đây.
Việc sáp nhập vào thủ đô Hà Nội đã góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế của
tỉnh Hà Tây, nếu như trước đây sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng
2
nghề truyền thống là chủ yếu thì hiện nay các loại hình kinh tế công nghiệp và dịch vụ
lại đang dần chiếm ưu thế. Nhiều KCN xuất hiện và đã thu hút một lực lượng lớn lao
động nông thôn nơi đây, điều này đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội rõ rệt cho
toàn tỉnh, song bên cạnh đó cũng nảy sinh những mặt tiêu cực như: ô nhiễm môi
trường, thu hẹp đất canh tác, truyền thống làng nghề dần bị mai một… Vấn đề thay đổi
cơ cấu việc làm và thu nhập đang là vấn đề nóng bỏng của người dân nơi đây.
Đông Phương Yên là một xã đồng bằng nằm phía Tây Nam của Huyện Chương
M ỹ - Hà Nội, xã nằm trong chuỗi quy hoạch đô thị Miếu M ôn – Xuân M ai – Hòa Lạc
– Sơn Tây, có đường quốc lộ 6A chạy qua và nằm giữa tam giác du lịch Hà Nội – Ba
Vì – Chùa Hương. Với những lợi thế về vị trí địa lý như trên Đông Phương Yên đã thu
hút nhiều doanh nghiệp đến đầu tư các dịch vụ và kinh doanh sản xuất, đặc biệt là cụm
công nghiệp Phú Nghĩa với diện tích gần 400 ha. Hơn nữa Đông Phương Yên lại có 6
thôn được công nhận là làng nghề Mây Tre Đan ( MTĐ) truyền thống. Đây được coi là
thế mạnh và đem lại thu nhập chính cho người dân trong xã. Tuy nhiên cũng từ khi
xuất hiện các KCN thu hút hầu hết lao động nữ trong các gia đình đi làm công nhân thì
hoạt động làng nghề không được duy trì như trước nữa, làng nghề truyền thống dần bị
mai một. Cũng trong quá trình này một số thanh niên không có việc làm ổn định,
không thích nghi kịp với sự thay đổi của xã hội nên mất định hướng nghề nghiệp. M ặt
khác, người phụ nữ nơi đây thường là những người có trình độ thấp, thời gian làm việc
kéo dài từ 12 đến 14 tiếng một ngày nên ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe, không có
thời gian chăm sóc bản thân và gia đình. Một số gia đình khác mất đất trong quá trình
quy hoạch các KCN, họ được đền bù một khoản tiền lớn nhưng không biết cách chi
tiêu hay đầu tư làm ăn, buôn bán, cuộc sống trở nên xáo trộn. Với mong muốn có cái
nhìn rõ hơn về vấn đề việc làm của người dân ở nơi đây nên tác giả tiến hành chọn đề
tài : “Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ (Hà
Tây cũ) sau khi sáp nhập Hà Nội” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu về những thay đổi trong việc làm và thu nhập,
những chuyển biến tích cực và tiêu cực trong việc làm của người dân xã Đông Phương
Yên sau khi sáp nhập Hà Nội. Từ đó đề ra những giải pháp giúp người dân phát huy
những mặt tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực trong vấn đề việc làm, định
3
hướng tương lai cho lớp thanh niên, giúp cho lao động nữ kết hợp hài hòa cuộc sống
lao động và cuộc sống gia đình, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân
hòa nhập tốt nhất vào xu thế phát triển chung của xã hội.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu những thay đổi về việc làm và thu nhập của người dân xã
Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội, từ đó đề ra một số giải pháp giúp giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng, ổn định cuộc sống cho người dân.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng việc làm của người dân xã Đông
Phương Yên – Chương M ỹ sau khi sáp nhập Hà Nội.
Khách thể nghiên cứu của đề tài là người dân tại xã Đông Phương Yên – Chương
M ỹ - Hà Nội.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Sau khi sáp nhập Hà Nội, cơ cấu việc làm của người dân xã Đông Phương Yên
có những biến đổi mạnh mẽ. Đa số các lao động từ làm nghề MTĐ truyền thống
chuyển sang làm công nhân tại KCN, nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ mới được
phát triển mạnh mẽ, một số lao động nông nghiệp bị mất đất trong quá trình đô thị hóa
dẫn đến tình trạng không tìm được công việc phù hợp hoặc công việc không ổn định.
Thu nhập của người dân trong xã tuy đã tăng lên nhưng bên cạnh đó cũng nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội như về: ô nhiễm môi trường, thanh niên mất định hướng, tăng
thêm áp lực công việc cho phụ nữ…
Tìm hiểu thực trạng việc làm và định hướng giải pháp giải quyết việc làm cho
người dân sẽ giúp họ thích nghi được những thay đổi nhanh chóng trong quá trình đô
thị hóa nông thôn, cũng từ đó nâng cao được chất lượng cuộc sống
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu những lý luận cơ bản về việc làm và thất nghiệp, những nhân tố tác
động tới việc làm và nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường.
Khảo sát thực trạng việc làm và thu nhập của người lao động trước và sau khi sáp
nhập Hà Nội để thấy được những thay đổi trong cơ cấu việc làm, làm rõ những mặt
tích cực, những hạn chế trong vấn đề việc làm, những vấn đề xã hội mới nảy sinh sau
4
khi sáp nhập Hà Nội.
Đề ra một số giải pháp nhằm giải quyết và ổn định việc làm, giúp người lao động
thích nghi với những thay đổi trong quá trình đô thị hóa nông thôn.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Cơ sở lý luận được sử dụng xuyên suốt trong đề tài là những lý luận chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Trong khóa luận còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, phương pháp diễn dịch, quy nạp…
Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài. Trong
đề tài sẽ tiến hành thu thập và phân tích các văn bản, báo cáo tổng kết, các nghị
quyết… có liên quan đến cộng đồng của chính quyền địa p hương, sau đó đọc, ghi chép
và tổng hợp lại những vấn đề về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương.
Đồng thời thu thập thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng (các báo,
Internet…) nhằm đối chiếu, so sánh với thực tế.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng cùng
một số phương pháp liên ngành. Ngoài ra đề tài còn sử dụng một số lý thuyết trong xã
hội học.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1 Phương pháp trưng cầu ý kiến
Mục đích: Nhằm thu thập những ý kiến của lao động làng nghề MTĐ về thực
trạng việc làm, những thay đổi về việc làm và thu nhập của người dân trước và sau khi
sáp nhập vào Hà Nội, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp để ổn định việc
làm, giữ gìn và phát huy truyền thống làng nghề MTĐ trên địa bàn xã Đông Phương
Yên.
Cách tiến hành: Trong phạm vi đề tài sẽ áp dụng phương pháp trưng cầu ý
kiến bằng cách phát cho người dân những phiếu trưng cầu ý kiến ( bao gồm 200 phiếu
trưng cầu ý kiến ), sau đó thu lại phiếu và xử lý về mặt định lượng, đinh tính, khái quát
5
hóa về thực trạng.
6.2.2 Phương pháp phỏng vấn
Mục đích: Nhằm thu thập thông tin đầy đủ hơn, sâu sắc hơn từ lãnh đạo chính
quyền địa phương, chủ các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn, người dân về vấn đề
việc làm của người dân làng nghề M TĐ Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội.
Cách tiến hành: Trong đề tài đã tiến hành 30 cuộc phỏng vấn sâu với người
dân, 8 cuộc phỏng vấn với chủ công ty, doanh nghiệp M TĐ, 6 cuộc phỏng vấn đối với
cán bộ địa phương nhằm thăm dò, gợi mở và khai thác các thông tin cần thiết phục vụ
cho quá trình nghiên cứu.
6.2.3 Phương pháp quan sát
Mục đích: Nhằm kết hợp với những phương pháp khác để thu thập và ghi chép
các thông tin, ghi nhận các yếu tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu cảu đề tài.
Cách tiến hành: Tiến hành quan sát thực tế những việc làm mà người dân tham
gia, cả trong lao động làng nghề hay làm công nhân tại khu công nghiệp. Quan sát về
đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Từ đó thấy được những thuận lợi, khó khăn, nhu cầu của người dân trong vấn
đề việc làm.
6.3 Phương pháp chọn mẫu
Trong quá trình nghiên cứu do không thể nào khảo sát trên toàn bộ đối tượng
nghiên cứu. Vì vậy tác giả đã tiến hành chọn mẫu nhằm tìm ra tập hợp khách thể đại
diện cho tập hợp xã hội lớn. Những kết luận rút ra từ các tập hợp đại diện có thể đại
diện cho cả tổng thể.
Trong phạm vi đề tài này tác giả tiến hành chọn mẫu là 200 người trên tổng số
lao động của xã Đông Phương Yên.
6.3.1 Phương pháp chọn mẫu cho thông tin định tính
Tiến hành các cuộc phỏng vấn với cán bộ địa phương: Chủ tịch xã, Chủ tịch
Hội nông dân xã, Chủ tịch Hội phụ nữ xã, Phó Bí thư Đoàn xã, cán bộ LĐTB & XH,
cán bộ văn hóa xã hội… Phỏng vấn chủ các công ty, doanh nghiệp M TĐ trên địa bàn
xã và người dân trong 5 thôn. Vận dụng những thông tin thu được vào nghiên cứu giúp
đảm bảo tính đúng đắn và độ tin cậy của thông tin.
6
6.3.2 Phương pháp chọn mẫu cho thông tin định lượng
Là thông tin lượng hóa các thông tin định tính nhằm xác định độ lớn, kích cỡ và
sức ảnh hưởng của các sự kiện, hiện tượng khác bổ sung cho thông tin định tính.
Trong đề tài tác giả tiến hành chọn mẫu cho thông tin định lượng là 200 lao
động nông thôn trên tổng số lao động toàn xã qua tiến hành phát 200 bảng hỏi để làm
cơ sở cho thông tin định lượng.
7. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung nghiên cứu: Việc làm của người dân bao gồm nhiều ngành nghề,
công việc khác nhau nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác giả tập trung
vào làm rõ thực trạng việc làm của lao động nông nghiệp, thợ thủ công, công nhân và
tiểu thương tại xã Đông Phương Yên – Chương M ỹ sau khi sáp nhập vào Hà Nội (Từ
ngày 01/8/2008 đến nay), so sánh với việc làm của người dân trước khi sáp nhập Hà
Nội để thấy rõ được những biến đổi về cơ cấu việc làm và thu nhập của người dân
trong xã.
Về thời gian nghiên cứu: đề tài được nghiên cứu trong thời gian từ tháng 3/2011
đến tháng 5/2011.
8. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận được cấu trúc gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Trong đó phần nội dung bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương
M ỹ sau khi sáp nhập Hà Nội.
Chương 3: Nhận định tiềm năng, thế mạnh và đề xuất một số giải pháp giải
7
quyết việc làm cho người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ - Hà Nội.
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.1 Cơ sở lý luận về việc làm
1.1.1 Khái niệm việc làm
M ọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là
việc làm.[4]
Thông thường: Người có việc làm là người đang làm việc trong những lĩnh vực,
ngành nghề đang hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm, đem lại thu nhập nuôi
sống bản thân và gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội. [2]
Việc làm bao hàm việc tạo ra các sản phẩm vật chất và các hoạt động xã hội.
Việc làm là sự thực hiện một nhiệm vụ sản xuất, quản lý, hoặc biến đổi các tài nguyên
cần thiết để phục vụ đời sống. Việc làm cần sự đóng góp của các yếu tố tài nguyên đất
đai, lao động, vốn, thời gian, thông tin – kỹ thuật. Kết quả của việc làm có thể là sản
phẩm vật chất ( hàng hóa ) hoặc sản phẩm không vật chất ( thông tin, thiết chế xã hội,
luật pháp, niềm tin). Giá trị của việc làm không chỉ được đánh giá dựa vào giá trị kinh
tế mà còn phải xem xét cả về mặt giá trị xã hội và ý nghĩa đối với cá nhân đó.
1.1.2 Các thành tố của việc làm
Có thể nghiên cứu và đo lường việc làm dựa vào 10 thành tố sau đây:
Năng lượng: Cần tiêu phí một số năng lượng sức lực hay chất xám để làm
chuyển đổi, duy trì, sản xuất một vật hay một việc gì trong một hệ thống nhất định để
đạt mục đích đặt ra. Việc làm không chỉ đo lường bởi sản phẩm vật chất làm ra mà còn
là những sản phẩm không vật chất (thông tin, thiết chế xã hội, niềm tin…). Đó là
những việc làm của công nhân, người quản lý, nhân viên xã hội, nghệ sĩ, nhà truyền
giáo,…
Phần thưởng kinh tế và tinh thần: Tiền lương và tiền thưởng là mặt kinh tế của
việc làm, vị thế xã hội, danh dự cá nhân, quyền hành (quyền trong gia đình và uy tín
trong cộng đồng) là phần thưởng về mặt xã hội và tâm lý. Động cơ phần thưởng của
8
việc làm rất khác nhau đối với nam nữ và đối với các bối cảnh làm việc khác nhau ( đi
làm để kiếm tiền, đi làm để có thêm bạn, thêm kiến thức hoặc để thỏa mãn niềm đam
mê của bản thân,…)
Tài nguyên: Việc làm là sự thực hiện một nhiệm vụ cần thiết nào đó, cần sử
dụng một số tài nguyên như vốn, nguyên liệu, thời gian, tay nghề và một số quyền hạn
xã hội cho phép để phục vụ đời sống. Mỗi tài nguyên được đánh giá căn cứ vào giá trị
kinh tế, giá trị xã hội và giá trị của chính cá nhân người đánh giá.
Gíá trị: Giá trị của việc làm thay đổi tùy theo hoàn cảnh lịch sử, xã hội và cá
nhân. Việc đánh giá một việc làm có hiệu quả, có năng suất, có giá trị tùy thuộc rất
nhiều quan điểm của người đánh giá. Sự đánh giá này mang tính tương đối. Đánh giá
một việc làm thường không dựa theo tiến trình mà thường dựa theo giá trị cụ thể trước
mắt của sản phẩm làm ra, vì vậy mà sản phẩm của những người mẹ, nhân viên xã hội,
nhân viên văn phòng, nhà chính trị không được nhìn thấy, không được đánh giá đúng
mức. Mỗi việc làm có đặc điểm văn hóa riêng không thể xem xét với cùng một tiêu chí
đánh giá ( Ví dụ: hôn nhân và quản lý không thể được đánh giá bằng một thang đo
lường như nhau).
Thời gian: Giá trị của việc làm thay đổi tùy thuộc vào việc đó được làm khi nào
(ví dụ: sản phẩm ngoài giờ có giá trị gấp đôi sản phẩm làm trong giờ), một số công
việc được làm một cách dễ dàng hơn nhờ có kinh nghiệm ( tích lũy theo thời gian),
nhưng một số việc làm khác sẽ trở nên khó khăn hơn khi tuổi càng cao. Mặt khác, giá
trị thời gian tiêu phí đôi khi không được kể đến trong một vai công việc nhưng lại
được đánh giá cao trong một số công việc khác ( Ví dụ: việc nội trợ và cấp dưỡng tại
xí nghiệp). Việc làm nhằm hoàn thành một nhiệm vụ cần thiết không chỉ về mặt kinh
tế mà còn về mật xã hội nữa, vì thế giá trị thời gian phải được kể đến. (Ví dụ: làm
ngoài giờ).
Nơi làm việc: Nhiều giá trị của việc làm được đồng hóa với nơi làm việc (Ví dụ:
rửa chén tại nhà không được coi trọng như rửa chén tại khách sạn, may gia công ở nhà
rẻ hơn may trong xí nghiệp).
Người lao động: Giá trị của việc làm cũng được đánh giá khác nhau do ai là
người làm việc ấy. Trong xã hội có một số công việc được xem như là “thích hợp”
9
cho một số người không chỉ vì yêu cầu chuyên môn, tay nghề của họ mà còn do sự
giới hạn của phong tục, do bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của một giai tầng xã hội (Ví dụ:
âm nhạc và thể thao được cho là thích hợp với người da đen). Bởi vì quyền lợi kinh tế,
danh dự và uy tín xã hội của cá nhân gắn liền với việc làm nên sự chuyên môn hóa
hoặc sự phân biệt chuyên môn trong phân công lao động được củng cố dưới 3 hình
thức:
Do luật quy định (Ví dụ: ở thế kỉ trước, phụ nữ không thể là thẩm phán, người
da màu không thể là thị trưởng).
Do phong tục quy định (Ví dụ: ở xã hội đạo Hồi, công việc trong nhà là công
việc chuyên môn của phụ nữ còn việc buôn bán ngoài chợ là của đàn ông).
Do cá nhân tự chọn.
Kỹ thuật: Công cụ là một khía cạnh của việc làm. Công cụ có kỹ thuật cao thì
đỡ tốn kém thời gian, năng lượng và năng suất cao hơn. Kỹ thuật không đơn thuần chỉ
là công cụ sản xuất hoặc công cụ của việc làm mà còn mang ý nghĩa sử dụng khác: khi
người lao động bị đưa vào hệ thống sản xuất như là một yếu tố kỹ thuật thì sức người
trở nên bị bóc lột.
Tâm lý đồng hóa hoặc xa lạ với việc làm: Cá nhân hoặc nhóm người thường
đồng hóa mình với vai trò của công việc hoặc một mặt của công việc nào đó. Sự đồng
hóa này có liên quan mật thiết đến sự đầu tư cá nhân trong tiến trình hoạt động xã hội.
Nếu đồng hóa toàn tâm với một công việc nào đó quá mức sẽ sao lãng các vai trò khác
và bị căng thẳng, dẫn đến “bệnh nghiện làm việc”. Ngược lại với bệnh “nghiện làm
việc” là tâm lý xa lạ với việc đang làm. M ức độ xa lạ sẽ cao nhất khi người công nhân
bị đối xử như là một cái máy và có ít quyền hạn nhất đối với sản phẩm do họ làm ra.
Sản phẩm phản chiếu cái tôi của người lao động, vì thế giá trị của người lao động cũng
nhân lên từ giá trị sản phẩm.
Sự phân công lao động theo giới tính: Trong nền kinh tế chính trị có giai cấp,
sự phân công lao động ám chỉ sự chuyên môn hóa của một tiến trình mang tính kỹ
thuật và kinh tế, một số nhà xã hội hóa hiện đại đã mở rộng khái niệm này bao gồm cả
sự phân chia lao động theo giới tính. Đó là sự phân công những hoạt động, những vai
trò trong xã hội cho cả nam và nữ. Nhìn chung phụ nữ ít khi được theo học lên các cấp
10
học cao. (Ví dụ: khoảng 2/5 sinh viên nữ tốt nghiệp cử nhân nhưng chỉ có 1/4 nữ tốt
nghiệp trên đại học. Thật vậy, phụ nữ thường được đào tạo ít hơn nam giới. M ột chi
tiết mà mọi người đều biết để minh họa cho sự không cân đối về giới trong lĩnh vực
giáo dục là phụ nữ có khuynh hướng học một số ngành xã hội và thường tránh các
ngành khoa học kỹ thuật. Sự lựa chọn ngành học đã ảnh hưởng đến cơ hội hành nghề
dành cho phụ nữ. Sự bất lợi trong nghề nghiệp của phụ nữ có liên quan chặt chẽ đến
vai trò của phụ nữ trong gia đình.. Khi gánh nặng lao động trong nhà rơi lên vai phụ
nữ thì họ sẽ bị giới hạn trong việc lựa chọn nghề nghiệp.
Trong khi sự phân chia lao động theo giới tính thường được giải thích là do sự
khác nhau về sinh học phù hợp với chức năng sinh sản của phụ nữ, nhưng phái nữ
quyền xem sự phân chia lao động này là kết quả của chế độ phụ quyền phong kiến
phân biệt đối xử đối với phụ nữ, bởi vì tư bản và phong kiến cho rằng lãnh địa thích
hợp cho phụ nữ là ở trong nhà và lãnh địa của nam giới là ở bên ngoài xã hội.
1.1.3 Thiếu việc làm
1.1.3.1 Khái niệm
Là tình trạng người LĐ có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan họ phải
làm việc không đủ thời gian theo lộ trình hoặc làm những công việc có thu nhập thấp
không đủ sống và muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
1.1.3.2 Phân loại
Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm và làm đủ thời gian,
thậm chí còn quá thời gian quy định nhưng thu nhập thấp do tay nghề, kỹ năng lao
động thấp, điều kiện lao động xấu, tổ chức lao động kém, cho năng suất lao động thấp
và thường có mong muốn tìm công việc khác có thu nhập cao hơn.
Thiếu việc làm hữu hình: Là hiện tượng người LĐ làm việc với thời gian ít
hơn quỹ thời gian quy định, không đủ việc làm và đang có mong muốn tìm thêm việc
làm và luông sẵn sàng để làm việc.
1.1.4 Tạo việc làm
1.1.4.1 Khái niệm
Tạo việc làm là quá trình kết hợp các y ếu tố : vốn đầu tư, sức lao động, nhu cầu
thị trường về sản phẩm để người LĐ tạo ra các của cải vật chất (số lượng, chất lượng),
11
sức lao động (tái sản xuất sức lao động) và các điều kiện kinh tế xã hội khác.
1.1.4.2 Phân loại
Tạo việc làm ổn định: Công việc được tạo ra cho người LĐ mà tại chỗ làm việc
đó và thông qua công việc đó họ có thu nhập lớn hơn mức thu nhập tối thiểu hiện hành
và ổn định theo thời gian từ 3 năm trở lên. Việc làm ổn định luôn tạo cho người LĐ
tâm lý yên tâm trong công việc để lao động hiệu quả hơn.
Tạo việc làm không ổn định: Được hiểu theo hai nghĩa. Đó là:
Công việc ổn định nhưng người LĐ phải luôn năng động theo thời gian, thường
xuyên thay đổi vị trí làm việc nhưng vẫn thực hiện cùng một công việc.
Công việc làm không ổn định mà người LĐ phải thay đổi công việc của mình
liên tục trong thời gian ngắn.
1.1.5 Thất nghiệp
1.1.5.1 Khái niệm
Là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng LĐ muốn làm việc nhưng
không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành. ( Theo ILO)
1.1.5.2 Phân loại
Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do sự di chuyển LĐ trên thị trường LĐ, trong
thời gian di chuyển người LĐ không có việc làm.
Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động,
việc làm. Sự không ăn khớp giữa số lượng và chất lượng đào tạo và cơ cấu về yêu cầu
việc làm.
Thất nghiệp tự nguyện: Là tình trạng người LĐ không muốn làm việc vì nhiều
lý do khác nhau.
Thất nghiệp trá hình: Là tình trạng người LĐ được sử dụng dưới mức khả
năng của họ.
1.1.6 Chính sách việc làm
Chính sách việc làm là một hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương pháp,
phương hướng, công cụ và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động. Nó
được cụ thể hóa bằng các văn bản pháp lý được Quốc hội thông qua và Nhà nước ban
hành. Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội quan trọng nhằm đảm
12
bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Dưới góc độ chính sách việc làm thì để hạn
chế thất nghiệp, một mặt phải tạo ra chỗ làm mới, mặt khác phải tạo điều kiện cho
người lao động tránh được nguy cơ thất nghiệp, đồng thời có chính sách hỗ trợ cho
người lao động khi họ có nguy cơ thất nghiệp. [5]
1.1.7 Giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi
người có khả năng lao động, có cơ hội được làm việc với chất lượng việc làm ngày
càng cao. [5]
1.1.8 Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động
Tạo việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách của toàn xã hội, nó thể hiện
vai trò của xã hội đối với người LĐ, sự quan tâm của xã hội về đời sống vật chất, tinh
thần của người LĐ và nó cũng là cầu nối trong mối quan hệ giữa xã hội với người LĐ.
Việc làm la nơi diễn ra những hoạt động của người LĐ, những hoạt động này được
công nhận qua những công việc mà họ đã làm và nó cũng là nơi để họ thể hiện kết quả
học tập của mình đó là trình độ chuyên môn.
Tạo việc làm là vấn đề chính để người LĐ có việc làm và có thu nhập để tái sản
xuất sức LĐ xã hội, giảm tỉ lệ thất nghiệp, do đó hạn chế được những phát sinh tiêu
cực do thiếu việc làm gây ra.
Tạo việc làm đáp ứng nhu cầu lao động của con người vì lao động là phương tiện
để tồn tại chính của con người, do đó mọi chủ trương, chính sách đúng đắn là phải
phát huy cao độ khả năng nguồn lực của con người, nếu có sai phạm thì nguồn lao
động sẽ trở thành gánh nặng, thậm chí gây trơ ngại, tổn thất lớn cho nền kinh tế cũng
như xã hội. Vì vậy một quốc gia giả quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động là
thành công lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và chính trị của mình.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm
1.2.1 Tài nguyên đất đai
Đất đai là một yếu tố của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt không chỉ đối với
nông nghiệp mà còn đối với công nghiệp, dịch vụ phi nông nghiệp…Trong quá trình
đô thị hóa diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, nhất là những vùng nông thôn
ven đô thị lớn, thị xã, thị trấn, hai bên trục đường giao thông…Cùng với quá trình đô
13
thị hóa khá mạnh, lao động nông thôn có xu hướng tăng lên. Tình hình trên dẫn đến
bình quân diện tích đất canh tác trên một lao động nông thôn Việt Nam vào loại thấp
nhất thế giới và do đó thời gian sử dụng ngày công nông nghiệp rất thấp. Theo tài liệu
điều tra, chỉ có 18% lao động nông nghiệp làm 210 ngày/ năm, còn lại làm dưới 200
ngày/ năm, trong đó 21% chỉ làm việc 90 ngày/ năm (mỗi ngày làm bình quân từ 4 – 5
giờ). Theo tính toán, nếu căn cứ vào quỹ đất và làm thuần nông, lao động nông thôn
dư thừa ít nhất 30%, tương đương 8 – 9 triệu người.
Hiện nay, nước ta khoảng 3 triệu ha đất nông nghiệp có khả năng khai thác, 9
triệu ha rừng và đất trồng, đồi trọc, 90 vạn ha mặt nước, ao, hồ và hàng vạn ha đất ven
biển. Nếu có chính sách tốt, diện tích này sẽ giải quyết được việc làm cho hàng triệu
lao động. Tuy nhiên việc sử dụng đất trong các doanh hiệp nông – lâm nghiệp còn
nhiều lãng phí. Theo quy hoạch đất giành cho các nông, lâm trường quốc doanh lên tới
1,2 triệu ha, nhưng thực tế mới sử dụng khoảng 40%, trong khi đó người dân lại thiếu
đất canh tác. Vì vậy việc di dân xây dựng vùng kinh tế mới là hướng quan trọng để
giải quyết việc làm cho các vùng nông thôn, trước hết là vùng đồng bằng sông Hồng – nơi có mật độ dân số cao nhất nước, khoảng 800 người / km2. [3]
1.2.2 Máy móc, thiết bị
Đối với lĩnh vực lao động việc làm, sự phát triển của khoa học công nghệ mang
lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng đồng thời cũng tạo
ra không ít thách thức. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, việc phổ biến
các phương tiện tự động hóa sẽ làm cho những nước có sức lao động rẻ và dư thừa bị
mất dần ưu thế. Xu hướng hiện nay là tăng lao động khoa học kỹ thuật và giảm lao
động giản đơn, kỹ năng thấp. Như vậy, trong xã hội hiện đại chất lượng nguồn nhân
lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tìm kiếm việc làm. Các quốc gia không
lường trước được hiện tượng này sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nguồn nhân
lực. Khi khoa học công nghệ phát triển chắc chắn sẽ gia tăng xu hướng thất nghiệp của
đội ngũ công nhân không lành nghề, do đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói
chung là giải pháp cơ bản để hạn chế thất nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này,
trước hết cần có những biện pháp nhằm tăng cường năng lực thể chế của của các cơ
quan hoạt động trong lĩnh vực lao động việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương trình
14
việc làm quốc gia thông qua nhiều hoạt động: đào tạo nghề cho nông dân, phát triển
nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng
và dịch vụ xã hội. [3]
1.2.3 Dân số và tỷ lệ tăng dân số
Tốc độ gia tăng dân số nước ta những năm trước đây là quá nhanh, nên số người
bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ tạo việc làm cho người lao động
không tăng kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao động, đó là một sức ép lớn. Ngoài ra
còn phải kể đến sức ép của số lao động bị mất việc làm do tác động của khủng hoảng
kinh tế, của sức cạnh tranh yếu của nền kinh tế nước ta. Các số liệu thống kê và dự báo
dân số cho thấy, năm 1990 số người trong độ tuổi lao động mới là 35.7 triệu người,
năm 2000 là 46.5 triệu và năm 2015 con số này sẽ lên tới 62 triệu người. Vì vậy các
chính sách nhằm giảm tốc độ gia tăng dân số là một trong những biện pháp làm giảm
sức ép về giải quyết việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp. [3]
1.2.4 Thị trường hàng hóa sức lao động (thị trường lao động)
Ở nước ta hiện nay quan hệ cung cung – cầu về lao động trên thị trường có
những biểu hiện sau:
Một là: Trên phạm vi cả nước, cung lớn hơn cầu về lao động và tình trạng này
tiếp tục kéo dài trong những năm tới, dẫn đến sức ép lớn về việc làm. Mỗi năm có
khoảng 1.1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Khả năng tự giải quyết việc làm
của số lao động này là rất khác nhau nhưng có đặc điểm là thường không được đào tạo
nghề. Vì vậy công tác dạy nghề và phổ cập nghề trở thành vấn đề cấp bách và có tính
chiến lược, là khâu then chốt nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của lao động trên
thị trường.
Hai là: Lao động nông thôn chiếm hơn 70% lao động của cả nước, nếu chỉ làm
thuần nông, tự cung, tự cấp thì số lao động thiếu việc làm hoặc không có việc làm lên
tới 30%. Số này sẽ tự phát di chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập trung để
tìm kiếm việc làm làm cho cung về lao động trên thị trường càng lớn.
Ba là: Quan hệ cung cầu về lao động còn chưa ổn định về mặt cơ cấu, dẫn đến
tình trạng “thất nghiệp cơ cấu”. Điều này thể hiện ở chỗ: một số ngành tiềm năng còn
lớn có khả năng thu hút được nhiều lao động, nhưng chưa tạo ra được những điều kiện
15
để biến khả năng thành hiện thực (về vốn, kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ, thị
trường tiêu thụ…). Trong lâm, nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ và du lịch ở một vùng
miền núi, đồng bằng sông Cửu Long, ven biển vẫn thiếu lao động nhưng khả năng di
dân và di chuyển lao động đến rất hạn chế.
Trong khi đang có xu hướng lao động bị đẩy ra ở một số lĩnh vực, thì đồng thời
một số lĩnh vực và hình thức khác lại có khả năng thu hút thêm lao động như kinh tế
hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ…nhưng chưa có chính sách khuyến khích thỏa đáng.
Đặc biệt là thiếu đội ngũ lao động có trình độ cao để làm việc trong một số lĩnh vực áp
dụng công nghệ mới hoặc trong các khu chế xuất, các đơn vị kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. [3]
1.2.5 Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống các chính
sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tạo ra
nhiều điều kiện thuận lợi để các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng phát triển, tạo
nhiều việc làm mới, đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống của người lao
động. Chủ trương về tạo việc làm đã được Đại hội VIII của Đảng nêu rõ: “Khuyến
khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo
nhiều việc làm cho người lao động. M ọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê
mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển về dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại
dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến
lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu.
Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”. [3]
1.3 Phát triển cộng đồng
1.3.1 Khái niệm
Cộng đồng: là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân con người sống
chung ở một địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội hoặc sinh học nào đó và
cùng chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào đấy. Phát triển cộng
đồng: là những tiến trình qua đó nỗ lực của dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính
quyền để cải thiện cac điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của các cộng đồng và giúp
các cộng đồng này hội nhập và đồng thời đóng góp vào đời sống quốc gia. ( Định
16
nghĩa chính thức của Liên Hiệp Quốc, 1956).
Định nghĩa này nhấn mạnh hai yếu tố:
Sự tham gia của người dân với sự tự lực tối đa.
Sự hỗ trợ về kỹ thuật và dịch vụ của nhà nước để khuyến khích sang kiến, sự tự
giúp, những cố gắng của người dân.
1.3.2 Nội dung phát triển cộng đồng
Quản lý tài nguyên cộng đồng: Gồm quản lý môi trường cộng đồng, xử lý các
thảm họa thiên tai, phát triển các cơ sở kinh doanh sản xuất.
Giáo dục cộng đồng: giúp trang bị kiến thức, sự hiểu biết và kĩ năng làm việc,
lao động cho người dân. Bao gồm:
Gây nhận thức hoặc thức tỉnh chính quyền địa phương và cộng đồng về tình
trạng hiện tại của cộng đồng.
Hình thành giá trị cộng đồng, giúp thay đổi nhận thức, thái độ, hình vi tiêu cực,
đề cao giá trị tích cực, khơi dậy truyền thống cần cù, hiếu học, tương thân, tương trợ.
Phát triển kĩ năng làm việc chung.
Tổ chức cộng đồng. bao gồm:
Củng cố các tổ chức có sẵn như các đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội tại cộng
đồng.
Thành lập các nhóm nhỏ, nhóm mới hoặc các câu lạc bộ, tổ chức các ngành nghề
như các tổ sản xuất, câu lạc bộ nghề nghiệp trong cộng đồng.
Mở rộng, liên kết với các nhóm khác, tiến đến thành lập hiệp hội, hợp tác xã…
1.3.3 Nguyên tắc hành động trong phát triển cộng đồng
Để thực hiện PTCĐ thì cần tuân thủ 10 nguyên tắc hành động như sau:
Bắt đầu từ nhu cầu, tài nguyên và khả năng của người dân.
Đáp ứng nhu cầu và mối quan tâm bức xúc hiện tại của họ.
Tin tưởng vào dân, vào khả năng thay đổi và phát triển cảu họ.
Khuyến khích người dân cùng thảo luận, lấy quyết định chung, hành động chung
để họ đồng hóa mình với những chương trình hành động.
17
Bắt đầu từ những hoạt động nhỏ dẫn đến những thành công nhỏ.
Vận động thành lập nhóm nhỏ để thực hiện dự án, không chỉ để giải quyết được
một vấn đề cụ thể, mà còn để củng cố, làm vững mạnh tổ chức tự nguyện của người
dân.
Cung cấp nhiều cơ hội để người dân tương trợ lẫn nhau và phát sinh các hoạt
động chung, qua đó các thành viên vừa đạt cảm xúc tự hoàn thành nhiệm vụ vừa góp
phần phần cải thiện an sinh cho nhóm. Cả hai điều này đều quan trọng như nhau.
Quy trình “ Hành động – Suy ngẫm rút kinh nghiệm – Hành động mới” cần áp
dụng để tiến đến những chương trình hành động chung lớn hơn, trình độ quản lý cao
hơn.
Nếu điều hành có hiệuh quả, giải quyết mâu thuẫn theo nhóm là dịp để tổ chức
nhóm trưởng thành.
Thiết lập mối liên kết với các tổ chức khác để có thêm hỗ trợ và hợp tác với
nhau. [1]
1.3.4 Mục tiêu phát triển cộng đồng
Phát triển kỹ năng và khả năng tổ chức của người dân, giúp cộng đồng biết cách
lập kế hoạch xã hội.
Nối kết các đầu tư kinh tế xã hội vào nhóm cộng đồng nghèo cơ sở.
Ủng hộ cho sự liên kết rộng rãi các tổ chức trong việc giải quyết các vấn đề cộng
đồng.
Tạo sự quan tâm về công bằng xã hội trong tiến trình lập kế hoạch xã hội.
1.3.5 Tiến trình phát triển cộng đồng
PTCĐ là một tiến trình luôn luôn tiếp diễn. Mục tiêu cuối cùng của PTCĐ là giúp
cho cộng đồng đi từ thực trạng yếu kém để phát triển, đóng góp vào sự phát triển của
18
xã hội. Để đạt được mục tiêu đó PTCĐ phải có một tiến trình với từng bước đi cụ thể.
CĐ yếu kém
CĐ thức tỉnh
CĐ tự lực
CĐ tăng năng lực
Huấn luyện
Hình thức các nhóm liên kết
Phát huy tiềm năng
Tìm hiểu và phân tích
Tăng cường động lực tự nguyện
Lượng giá chung
Tiến trình PTCĐ được thể hiện:
Sơ đồ 1.1 Tiến trình phát triển cộng đồng
Cộng đồng thức tỉnh: Từ một cộng đồng còn yếu kém, PTCĐ cần đi sâu vào làm
cho người dân ở đó hiểu được thực trạng của chính mình thông qua các cuộc trao đổi
thảo luận, điều tra về các nhu cầu và các vấn đề khó khăn, cũng như tiềm năng và
những thuận lợi. Từ đó làm cho cộng đồng hiểu và tích cực hợp tác để dần thay đổi
vấn đề của chính mình.
Cộng đồng tăng năng lực: Biết rõ vấn đề của chính mình, mình có gì, mình
muốn gì thì cộng đông đó phải tăng năng lực phát huy nguồn tài nguyên mà cộng đồng
vốn có hay qua quá trình tập luyện. Thông qua đó cộng đồng khắc phục được những
hạn chế và tăng cường kiến thức, kỹ năng để hành động. Ngoài ra còn phải liên kết các
tổ chức lại để cùng hành động hiệu quả vì mục tiêu chung.
Cộng đồng tự lực: Mục đích cuối cùng của PTCĐ là thông qua các tác động từ
bên ngoài với nội lực bên trong được phát huy và tăng cường cộng đồng sẽ trở thành
cộng đồng tự lực. Cộng đồng tự lực không có nghĩa là mọi khó khăn, khủng hoảng
19
không còn nữa mà mỗi lần gặp khó khăn cộng đồng có thể tự huy động tài nguyên bên
trong và bên ngoài để giải quyết vấn đề. Qua mỗi lần như vậy cộng đồng sẽ tăng
trưởng và tự lực hơn.
Như vậy: Dựa trên những cơ sở lý luận về những vấn đề liên quan đến việc
làm, thất nghiệp, những nhân tố tác động tới việc làm để nhận định, phân tích thực
trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội. Giải
quyết, ổn định việc làm là một trong những giải pháp giúp cộng đồng phát huy tối đa
tiềm năng, thế mạnh của mình, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đây cũng là một trong
những mục tiêu của phát triển cộng đồng,
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI
DÂN XÃ ĐÔNG PHƯƠNG YÊN SAU K HI SÁP NHẬP HÀ NỘI
20
2.1 Bối cảnh kinh tế – văn hóa xã hội trên địa bàn xã Đông Phương Yên
2.1.1 Vị trí địa lý, địa hình, dân cư
Đông Phương Yên là một vùng bán sơn địa cách trung tâm huyện Chương M ỹ
khoảng 7km về phía Tây. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 628,23 ha. Toàn xã có
2.459 hộ với 10.140 nhân khẩu được phân bố ở 7 thôn gồm: thôn 1, thôn 2, thôn 3,
thôn Đông Cựu, thôn Yên Kiện, thôn Lũng Vị, thôn Tân Phương.
Xã có đường quốc lộ 6A chạy qua với chiều dài là hơn 1000m rất thuận tiện
cho việc trung chuyển hàng hóa từ Tây Bắc xuống Thủ đô Hà Nội và ngược lại.
Các mặt tiếp giáp của xã:
Phía Đông : giáp xã Trung Hòa, Trường Yên.
Phía Tây: giáp xã Đông Sơn.
Phía Nam: giáp xã Thanh Bình.
Phía Bắc: giáp xã Đồng Quang.
2.1.2 Điều kiện kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế của xã năm 2010 là 9%. Cơ cấu kinh tế của xã là:
Nông nghiệp: 31 %
Tiểu thủ công nghiệp: 20%.
Kinh doanh, dịch vụ: 49 %.
- Thu nhập bình quân đầu người của người dân trong xã năm 2010 là
7.510.000đ/ năm. Tổng thu nhập trên các lĩnh vực từ kinh tế của toàn xã:
Nông nghiệp, chăn nuôi: 24,79 tỷ.
Tiểu thủ công nghiệp: 16 tỷ.
Kinh doanh, dịch vụ : 49 tỷ.
Tổng thu là : 78,14 tỷ.
- Cụ thể trên từng lĩnh vực kinh tế như sau:
Sản xuất Nông nghiệp:
- Về trồng trọt:
+ Vụ xuân 2010: Thực hiện gieo trồng được 883,9 mẫu. Trong đó:
Cây lúa: 747 mẫu ( 84,34 % ).
21
Cây màu :136,6 mẫu ( 15,45 % ).
Năng suất lúa bình quân 214,2 kg / sào. Sản lượng đạt 1601,1 tấn.
+ Vụ mùa 2010: Thực hiện gieo trồng được 865,8 mẫu. Trong đó:
Cây lúa: 818,9 mẫu ( 94,6 % ).
Cây màu: 47,1 mẫu ( 5,4 % ).
Năng suất lúa bình quân là 174,6 kg / sào. Sản lượng đạt 1429,2
tấn.
Tổng sản lượng lúa cả năm là : 3130,3 tấn.
Tổng giá trị cây lúa là : 17,216 tỷ đồng.
Tổng giá trị cây màu là: 1,228 tỷ đồng.
Bình quân lương thực là 301 kg/ người/ năm.
- Về chăn nuôi:
Do chủ động trong việc phòng chống dịch bệnh và thời tiết thuận lợi nên tất cả
đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn xã đều tăng so với 2009. Cụ thể như sau: Đàn bò dê:
374 con; Lợn nái: 418 con, Lợn thịt: 2.238 con, Lợn con theo mẹ: 2.520 con; Trâu,
nghé: 34 con; Gia cầm: 29.679 con.
Ước thu từ chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản trong xã đạt 6,256 tỷ đồng.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ:
- Ước thu từ sản xuất MTĐ = 16 tỷ đồng. Trong đó:
Từ 2.600 lao động có việc làm = 13,74 tỷ.
Từ các công ty, doanh nghiệp = 1,9 tỷ.
Từ chủ thu gom nhỏ = 0,36 tỷ.
- Ước thu từ thương mại dịch vụ và các ngành nghề khác = 37,35 tỷ.
2.1.3 Đặc điểm văn hóa – xã hội
Về cơ sở hạ tầng
Các công trình hạ tầng được quan tâm như: điện, đường, trường, trạm ngày một
khang trang, cán bộ và nhân dân vui mừng, phấn khởi.
Toàn xã có 8km đường làng ngõ xóm được bê tông hóa. Xây mới công trình
nghĩa trang tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Có trường Tiểu học và Trung học cơ sỏ
22
đảm bảo theo tiêu chuẩn của Bộ giáo dục và đào tạo, xây mới 12 phòng học kiên cố.
Trạm y tế cũng được xây mới, đày đủ tiện nghi, bảo đảm việc khám chũa bệnh cho
nhân dân trong xã. Tổng giá trị đầu tư khoảng trên 14 tỷ đồng.
Về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của Trụ sở UBND Xã Đông Phương Yên:
Trụ sở làm việc, hội trường của Đảng uỷ - HĐN D – UBND xã được xây dựng kiên cố, diện tích và khuôn viên là 6.603 m2 được chia thành 3 khối đó là: Khối Đảng,
Khối chính quyền và Khối đoàn thể.
Hình 2.1 Trụ sở chính UBND Xã Đông Phương Yên.
Nhìn chung các phòng đều được trang bị các thiết bị văn phòng tương đối đầy
đủ. Mỗi phòng đều có các tủ đựng hồ sơ, điện thoại, máy vi tính nối mạng, máy in.
Cán bộ, nhân viên làm việc ở văn phòng xã có bàn ghế làm việc, ghế cho người dân
ngồi trong khi chờ đợi giải quyết công việc, quạt, điện và ánh sáng tốt, môi trường
trong lành. Uỷ ban nhân dân xã Đông Phương Yên được tổ chức, sắp xếp và bố trí
không gian hợp lí nên luôn thoáng mát, yên tĩnh. Đặc biệt xã có một hội trường lớn
23
dành riêng cho các cuộc họp.
.
Hình 2.2 Hội trường chính UBND Xã Đông Phương Yên.
Các khối đoàn thể và hội trường được xây dựng khang trang, hài hòa,
hợp lý đảm bảo các nhu cầu về an toàn vệ sinh lao động của cán bộ công chức, nhân viên,
có hệ thống, phòng cháy, chữa cháy.
Về văn hóa
Ban văn hóa tổ chức tốt công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo các hoạt động chào mừng ngày Đại lễ, ngày kỉ
niệm như: treo băng cờ, khẩu hiệu, tuyên truyền lưu động, phối hợp tổ chức giao lưu
văn hóa, văn nghệ. Năm 2010 qua bình xét đã có 1.304 hộ đạt gia đình văn hóa chiếm
72,53% số hộ trên toàn xã.
Trên địa bàn xã có 3 ngôi đình, 4 ngôi chùa. Trong đó có 2 ngôi đình, 2 ngôi
chùa và một nhà thờ họ được UBND Tỉnh Hà Tây ( cũ ) có quyết định xếp hạng di tích
lịch sử văn hóa cấp tỉnh và một làng được công nhận là làng văn hóa cấp huyện. Xã có
6/7 thôn được cấp bằng làng nghề M TĐ truyền thống.
Phong trào xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội
được đông đảo cán bộ và nhân dân đồng tình hưởng ứng.
Về công tác y tế - kế hoạch hóa gia đình.
- Về y tế: Trạm y tế đã làm tốt công tác trực, khám và điều trị cho nhân dân.
Năm 2010 đã khám và chữa trị cho 6.542 lượt người, khám bảo hiểm y tế cho 3.283
24
lượt người, bảo hiểm trẻ em là 1.222 lượt. Số người điều trị ngoại trú 3.745 người.
Tuyên truyền tốt về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, tập huấn về an toàn
thực phẩm cho các chủ hàng ăn trên địa bàn xã, làm tốt công tác phòng dịch, tuyên
truyền phòng chống dich cúm A H1N1. Giữ vững danh hiệu xã chuẩn Quốc gia về y
tế.
- Về kế hoạch hóa gia đình:.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,6%.
Số trẻ sinh ra trong năm 2010 là 211 trẻ.
Số trẻ là con thứ 3 trở lên là 41 trẻ.
Trên địa bàn xã đã tổ chức được 03 đợt khám sức khỏe sinh sản cho 648 lượt
chị em, đặt dụng cụ tử cung 170 trường hợp, uống thuốc tránh thai 96 trường hợp, bao
cao su 132 trường hợp.
Về hoạt động chính sách xã hội
- UBND xã chỉ đạo cán bộ LĐTB & XH làm tốt công tác chính sách xã hội,
nhận và chi trả trợ cấp xã hội cho các đối tượng đúng chế độ và thời gian quy định.
Năm 2010 đã nhận và chi trả kịp thời các khoản trợ cấp cho các đối tượng trong xã, cụ
thể như sau:
Lương hưu và trợ cấp xã hội : 4.169 triệu đồng.
Trợ cấp người nghèo :248 triệu đồng.
Trợ cấp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội: 139 triệu đồng.
- Tiếp nhận và giải quyết kịp thời chế độ chính sách cho 118 lượt đối tượng, tổ
chức triển khai rà soát đề nghị công nhận cho 266 hộ nghèo = 11,96 %. Đã hoàn thiện
hồ sơ cấp thẻ BHYTcho 2.526 đối tượng. Phối hợp cùng Uỷ ban MTTQ xã triển khai,
nghiệm thu, chi trả cho 16 hộ gia đình có nhà dột nát với số tiền 288 triệu đồng.
Một số hạn chế trong quá trình hoạt động
Bên cạnh những kết quả thực hiện được trong năm 2010 là đáng kể, đó là sự
nỗ lực phấn đấu của cán bộ và nhân dân trong xã, tuy nhiên không thể tránh khỏi một
số tồn tại cần khắc phực đó là:
- Năm 2010 công tác tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, thể thao còn chưa sâu
rộng, chưa đồng đều, một số cán bộ văn hóa còn yếu năng lực, thiếu nhiệt tình trong
25
công việc.
- Tình hình an ninh trật tự số vụ việc giảm nhưng mang tính chất phức tạp,
trọng án sảy ra.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên cao hơn năm trước, số trẻ là con thứ ba trở lên
không giảm.
- Vấn đề ô nhiễm môi trường còn chưa khắc phục triệt để, nguy cơ tiềm ẩn
bùng phát dịch bệnh có thể sảy ra.
- Công tác giải quyết đơn thư còn chậm, đơn thư phúc tạp còn phát sinh, một
số đơn thư kéo dài chưa có phương án giải quyết.
- Hiện tượng lấn chiếm đất đai , tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng còn sảy ra,
giải quyết chưa dứt điểm.
- Công tác chỉ đạo, điều hành của UBND Xã còn chưa sát sao, một số vụ việc
triển khai song thiếu đôn đốc dẫn đến không đạt kết quả cao.
2.2 Vài nét về lực lượng lao động xã Đông Phương Yên
Giới tính
Nghiên cứu được tiến hành trên 200 mẫu, cụ thể là:
Giới tính Số lượng Tỷ lệ (%)
Nam 93 46.5
Nữ 107 53.5
Tổng số 200 100
Bảng 2.1 Tỷ lệ giới tính
Nghiên cứu được tiến hành chọn mẫu theo tỷ lệ nam nữ gần ngang bằng nhau,
nam 46.5% và nữ 53.5%. Việc chọn mẫu này sẽ đảm bảo được tính đại diện cho cả lao
động nam và lao động nữ trên địa bàn xã Đông Phương Yên. Những thông tin thu
được từ cả hai giới sẽ mang tính toàn diện và khách quan hơn.
Độ tuổi
Dân số trên địa bàn xã là 10.140 nhân khẩu trong đó số người trong độ tuổi lao
26
động và có khả năng lao động là 5.781 người. Qua khảo sát cho thấy:
Số lượng Tỷ lệ (%) Độ tuổi
Dưới 18 tuổi 35 17.5
Từ 18 đến 30 tuổi. 57 28.5
Từ 31 đến 55 tuổi 77 38.5
Trên 55 tuổi 31 15.5
Tổng số 200 100
Bảng 2.2 Độ tuổi của người lao động
Qua bảng số liệu trên ta thấy số người lao động trong độ tuổi từ 31 đến 55 tuổi
chiếm tỷ lệ cao nhất chiếm 38.5%, tiếp theo là độ tuổi từ 18 đến 30 là 28.5%. Như vậy
đa số lao động nơi đây nằm trong độ tuổi từ 18 đến 55, đây là độ tuổi sung sức nhất
của người lao động và là nguồn lực rất lớn đóng vai trò quan trọng trong lao động sản
xuất tại địa phương. Ngoài ra số người trong độ tuổi dưới 18 là 17.5% và trên 55 là
15.5%, tuy đây không phải là lực lượng lao động chính nhưng với tỉ lệ cao như vậy
chứng tỏ họ cũng tham gia lao động một cách tích cực, họ làm những công việc phù
hợp với độ tuổi và sức khỏe của mình. Qua đây ta có thể nhận thấy tiềm năng lao động
của địa phương không chỉ nằm trong số người thuộc độ tuổi lao động chính (từ 18 đến
55 tuổi) mà tiềm năng này còn nằm trong các độ tuổi dưới 18 hoặc trên 55 tuổi. Với
lực lượng lao động đông đảo như vậy hứa hẹn địa phương sẽ có nhiều khả năng phát
triển sản xuất trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trình độ học vấn
35
31.5
30
30
25
20.5
20
15
9.5
8.5
10
5
0
0
Tiểu học
THCS
TH PT
TC-CĐ-ĐH
Trên ĐH
Không biết chữ
27
Biểu đồ 2.1 Trình độ học vấn
Qua khảo sát cho thấy trình độ học vấn của người lao động trong xã còn tương
đối thấp và phân chia thành nhiều trình độ khác nhau. Chiếm tỉ lệ cao nhất là trình độ
THPT với 31.5%, những người thuộc trình độ này chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 18 đến
30 (57.2%). Đây là lớp thanh niên trẻ nên việc học tập được chú trọng hơn. Tuy vậy
thông qua phỏng vấn sâu thì thấy rằng người dân nơi đây vẫn quan niệm chỉ cố gắng
học hết cấp 3, có bằng THPT là tốt lắm rồi, học lên cao nữa thì gia đình không nuôi
được, nhất là con gái thì không nên học nhiều, phải kiếm công việc nào đó làm tạm để
phụ giúp gia đình, như thế là con cái coi như được học hành tử tế, cha mẹ cũng hoàn
thành nhiệm vụ. Với quan niệm như vậy thì lớp thanh niên trẻ trong xã ít được học
thêm lên trình độ cao hơn và cơ hội tìm kiếm được công việc với mức lương khá là rất
ít. Trình độ THCS chiếm 30%, họ chủ yếu nằm trong độ tuổi 31 đến 55 (61.7%). Đây
là những người thuộc độ tuổi cuối thanh niên và trung niên, họ sinh ra và lớn lên trong
thời kì khó khăn nên việc học tập không được chú ý. Một số người không được đi học,
hoặc đi học chủ yếu chỉ để biết mặt chữ, ít ai có mong muốn hay suy nghĩ rằng học để
thoát nghèo và có nghề nghiệp ổn định. Tỷ lệ người có trình độ tiểu học cũng khá cao
chiếm 20.5%. Tuy nhiên khảo sát cũng cho thấy có tới 39% số người thuộc trình độ
này lại nằm trong độ tuổi dưới 18, như vậy cho thấy tỷ lệ người dưới 18 tuổi bỏ học
khá cao. Đây là một nguy cơ tiềm ẩn, trong thời kì kinh tế xã hội ngày càng phát triển,
yêu cầu đối với người lao động ngày một cao thì với trình độ học vấn thấp nhu vậy họ
sẽ không thể tìm được công việc ổn định. Tỷ lệ người không biết chữ chiếm 8.5% và
chủ yếu thuộc về độ tuổi trên 55 (64.7%). Tỷ lệ người dân có trình độ TC- CĐ – ĐH là
9.5% (Phụ lục III).Đa số những người thuộc trình độ này là cán bộ thôn, xã do yêu cầu
công việc nên họ đi học thêm tại chức, một số lao động khác học Trung cấp nấu ăn,
Trung cấp Y hoặc Trung cấp mầm non nhưng vẫn chưa tìm được công việc ổn định.
Qua điều tra cũng cho thấy việc học tập của nam giới được quan tâm nhiều hơn
nữ giới. Cụ thể ở trình độ thấp như không biết chữ, Tiểu học, THCS thì tỷ lệ nữ giới
đều cao hơn nam giới. Ở trình độ cao hơn như THPT thì tỉ lệ nam chiếm 38.8% cao
hơn nữ so với nữ chiếm 25.5%. Đặc biệt ở trình độ TC- CĐ – ĐH thì tỷ lệ của nam
28
giới (12.9%) cao gấp đôi nữ giới (6.6%). (Bảng 1,Phụ lục III)
Trình độ học vấn là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến việc làm
và thu nhập của người lao động. Trình độ thấp là cộng thêm việc thiếu thông tin, thiếu
những mối quan hệ giao tiếp sẽ dẫn đến những khó khăn trong tìm kiếm việc làm,
hoặc nếu có việc làm cũng là những công việc lao động chân tay nặng nhọc, thu nhập
bấp bênh. Khi xã hội phát triển đời sống của người dân được nâng cao, việc học hành
của con cái được chú trọng hơn thì dần dần trình độ học vấn nâng cao sẽ đáp ứng được
một trong những yêu cầu về lao động trong thời kỳ CNH- HĐH .
Số lượng thành viên và số người thuộc độ tuổi lao động trong gia đình
Tìm hiểu về số lượng thành viên và số người thuộc độ tuổi lao động trong gia
đình sẽ cho thấy khả năng lao động và sự đóng góp của các thành viên vào đời sống
chung. Cụ thể điều này được thể hiện trong bảng sau:
Số thành viên Số lượng Tỷ lệ (%)
1 đến 3 người 51 25.5
4 đến 6 người 113 56.5
Trên 6 người 36 18.0
Tổng số 200 100
Bảng 2.3 Số lượng thành viên trong gia đình
Số người Số lượng Tỷ lệ (%)
1 đến 2 người 57 28.5
3 đến 4 người 108 54.0
5 đến 6 người 27 13.5
Trên 6 người 8 4.0
Tổng số 200 100
Bảng 2.4 Số người trong độ tuổi lao động trong từng gia đình
Đông Phương Yên là một xã thuộc vùng nông thôn nên các gia đình vẫn chủ yếu
thuộc kiểu gia đình truyền thống, thường có 3 thế hệ: ông bà, cha mẹ và con cháu.
29
Thông qua bảng số liệu ta thấy gia đình có từ 4 đến 6 người chiếm tỉ lệ cao nhất
56.5%. Gia đình có từ 1 đến 3 người chiếm tỷ lệ 25.5% và gia đình có trên 6 người
chiếm 18%. Trong tất cả các gia đình được điều tra thì mỗi gia đình có ít nhất từ 1 đến
2 người trong độ tuổi lao động chiếm 28.5%. Có tới 54% số gia đình có từ 3 đến 4
người thuộc độ tuổi lao động. Điều này cho thấy nguồn lao động tại địa phương là rất
dồi dào. Các thành viên trong gia đình lao động ở nhiều lĩnh vực nghề nghiệp khác
nhau sẽ đóng góp thêm vào thu nhập của cả gia đình, giúp cải thiện đời sống chung.
2.3 Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ -
Hà Nội
2.3.1 Trước khi sáp nhập Hà Nội
2.3.1.1 Loại hình công việc
50
46
45
40
40
35
30
25
20
15
10
7
5
5
2
0
0
Thợ thủ công
Làm nông
Công nhân
Tiểu thương
Ý kiến khác
Không có việc làm ổn định
Biểu đồ 2.2 Công việc chính của người dân trước khi sáp nhập Hà Nội
Trước khi sáp nhập vào Hà Nội ta thấy rằng số lao động là thợ thủ công làm nghề
M ây Tre Đan (MTĐ) chiếm tỷ lệ lớn nhất là 46%. Tiếp theo là lao động nông nghiệp
với 40%. Số người làm công nhân chiếm tỉ lệ rất nhỏ chỉ có 7%. Buôn bán, dịch vụ nơi
đây không phát triển chỉ chiếm 5% số lao động. Qua điều tra phỏng vấn sâu thì đa số
30
lao động nông nghiệp cho biết ngoài công việc chính là trồng lúa và trồng màu thì thời
gian nông nhàn còn lại họ vẫn tham gian làm nghề M TĐ . Với số lượng lao động nghề
M TĐ lớn như vậy thì có thể thấy Đông Phương Yên chính là làng nghề MTĐ truyền
thống. Nghề M TĐ trong xã đã có từ lâu đời và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Năm 2001 xã Đông Phương Yên có 6/7 thôn được cấp bằng công nhận là làng
nghề MTĐ truyền thống với trên 50% lao động trong thôn làm nghề. Với hoạt động
nghề nghiệp này người dân chủ yếu là lao động thủ công, không yêu cầu trình độ cao
mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính. Nghề MTĐ là nghề thủ công mỹ nghệ, sử
dụng nguyên liệu chính là cây mây, song, giang, nứa…chẻ thành các nan mỏng và đan
thành các sản phẩm khác nhau như: giỏ, làn, lãng hoa, đĩa mây, bát mây, bàn ghế
mây…Nghề MTĐ đòi hỏi sự khéo léo của đôi bàn tay, một số công đoạn khó thì do
các nghệ nhân hoặc các thợ lành nghề làm, các công đoạn dễ còn lại thì người dân
trong thôn ai cũng có thể tham gia, chính vì vậy trong xã không có tỉ lệ người thất
nghiệp. Đây cũng là một lợi thế trong phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Hình 2.3 Cụ Thịnh và các cháu nhỏ đang làm hàng MTĐ
Qua khảo sát cũng cho thấy nữ giới tham gia lao động nông nghiệp cao hơn nam
giới (42.1% so với 37.7%), còn trong làm nghề MTĐ thì tỷ lệ này gần như ngang
nhau, nam chiếm 46,2% và nữ là 45.8% (Bảng 2, Phụ lục III). M ặc dù qua số liệu ta
31
không thấy có sự phân biệt giới trong công việc nhưng thực tế phụ nữ ngoài công việc
chính thì hằng ngày họ còn phải làm thêm những công việc khác như: nội trợ, chăm
sóc con cái, vì vậy họ hầu như không có thời gian để nghỉ ngơi.
Như vậy trước khi sáp nhập vào Hà Nội người dân trong xã chủ yếu là lao động
nghề MTĐ và làm nông. Các nhà máy xí nghiệp chưa được xây dựng nhiều, hoạt động
buôn bán dịch vụ cũng chưa phát triển nên tỷ lệ lao động trong hai lĩnh vực này là rất
thấp. Tuy nhiên với vị trí địa lý thuận lợi là nằm gần trung tâm thủ đô Hà N ội thì tiềm
năng lao động ở hai lĩnh vực này là rất lớn.
2.3.1.2 Thời gian lao động
Dưới 4h 5.5%
Tr ên 12h 14%
Từ 4 đến dưới 8h 24.5%
Từ 8 đến 12h 56%
Biểu đồ 2.3 Thời gian lao động của người dân
Qua biểu đồ thể hiện thời gian lao động của người dân trong một ngày là rất dài.
Có tới 56% người dân có thời gian làm việc từ 8 đến 12h và 14 % làm việc trên 12h
mỗi ngày. Chỉ có 24.5% người dân lao động với thời gian hợp lý từ 4 đến 8h/ngày.
Thông qua bảng tương quan giữa nghề nghiệp và thời gian làm việc của người
dân cho thấy: thời gian làm việc từ 4 đến 8h chủ yếu thuộc về người nông dân với
69.2%. Với thời gian trên 12h/ngày thì người làm nghề MTĐ chiếm tỷ lệ cao nhất với
96.4%. Điều này được giải thích do đặc thù nghề MTĐ là nghề thủ công truyền thống,
32
những người thợ làm việc không theo một quy định nhất định về thời gian. Họ có thể
làm việc liên tục từ sáng sớm cho đến tối khuya. Làm việc với thời gian dài như vậy sẽ
gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Nhiều người ngồi đan hàng MTĐ quá
nhiều nên mắc các bệnh như: đau lưng, mờ mắt, khi tiếp xúc quá nhiều với các loại
hóa chất bảo quản sản phẩm, thuốc nhuộm, sấy, hun hàng cũng gây ra một số bệnh
ngoài da, bệnh hô hấp. Hoạt động tiểu thương và công nhân chủ yếu làm việc trong
khoảng thời gian từ 8 đến 12h.
Qua khảo sát cũng cho thấy có sự khác biệt về thời gian lao động giữa nam và
nữ. Thời gian lao động hợp lý từ 4 đến 8h/ ngày ở nam cao hơn ở nữ (32.3% so với
17.8%). Thời gian lao động dài từ 8 đến 12h/ ngày thì nữ cao hơn nam (60.7% so với
50.5%). Như vậy sự phân công thời gian lao động theo giới trên địa bàn xã là chưa hợp
lý.(Bảng 4, Phụ lục III)
2.3.1.3 Thu nhập và nhu cầu chi tiêu
Tìm hiểu về thu nhập của người lao động là một đặc điểm quan trọng trong việc
phản ánh đúng thực trạng các vấn đề về việc làm của người dân trong xã Đông Phương
Yên. Với thời gian lao động dài như vậy nhưng thu nhập của họ rất thấp. Điều này
được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau đây:
Thu nhập bình quân Số lượng Tỷ lệ (%)
Dưới 1 triệu 35 17.5
Từ 1 đến dưới 2triệu 137 68.5
Từ 2 đến dưới 3triệu 22 11.0
Từ 3 đến 5triệu 6 3.0
Trên 5triệu 0 0
Tổng số 200 100
Bảng 2.5 Thu nhập bình quân hàng tháng của người dân
Kết quả cho thấy có tới 86.5% người dân có thu nhập từ 1 đến dưới 2 triệu. M ức
thu nhập này không phải là quá thấp so với thu nhập trung bình ở nông thôn hiện nay,
nhưng mức thu nhập này không tương xứng với thời gian tương đối dài mà người dân
lao động hằng ngày. Ngoài ra có 17.5% người dân có thu nhập bình quân hàng tháng
33
dưới 1 triệu. Với mức thu nhập này thì khó có thể đáp ứng được nhu cầu chi tiêu hàng
ngày của một số gia đình. Để có thể làm rõ nhận định này tác giả đã hỏi thêm về thu
nhập bình quân hàng tháng của gia đình và thu nhập so với nhu cầu chi tiêu. Cụ thể có
44.5% số hộ gia đình có thu nhập từ 3 đến 5 triệu/ tháng. Mức thu nhập từ 2 đến 3
triệu của cả gia đình chiếm tỷ lệ 34%. (Câu 8, Phụ lục II ). Với đa số gia đình có từ 3
đến 4 người trong độ tuổi lao động mà tổng thu nhập phần lớn dưới 5 triệu thì có tới
49% người dân trả lời rằng mức thu nhập này không đảm bảo cuộc sống, 44.5% người
dân cho biết chỉ vừa đủ chi tiêu. Số hộ gia đình có tiền tiết kiệm chỉ có 6.5% (Câu 9,
Phụ lục II).
Qua khảo sát cũng cho thấy những người có thu nhập thấp dưới 1 triệu phần lớn
là những người lao động nông nghiệp (54.3%) và thợ nghề MTĐ (45.7%). Họ cũng là
những người có trình độ thấp, 40% người có thu nhập dưới 1 triệu là người không biết
chữ. Mức thu nhập cao trên 5 triệu chủ yếu thuộc về những người làm nghề buôn bán
và dịch vụ. (Bảng 9, Phụ lục III). Với những người dân có công việc chính là làm hàng
M TĐ thì giá thành sản phẩm rẻ, ngoài ra họ phải bỏ tiền gốc để mua nguyên liệu là
giang, mây, song, nứa…thì tiền lãi còn lại không được bao nhiêu. Người làm nông
cũng vậy, đến mùa thu hoạch lúa, màu bán đi cũng chỉ đủ để trả cho các chi phí giống
lúa, phân bón, thuốc trừ sâu. Họ phải chật vật lắm mới xoay sở được các khoản chi
tiêu trong gia đình.
Qua bảng 3 ta nhận thấy nam giới có thu nhập cao hơn nữ giới. M ức thu nhập
cao từ 2 đến 3 triệu thì nam chiếm 16.1% trong khi nữ là 6.6%. Mức thu nhập cao nhất
là 3 đến 5 triệu tì nam chiếm 5.4% còn nữ chỉ có 0.9%(Bảng 3, Phụ lục III).
Như vậy ta có thể nhận thấy rằng trước khi sáp nhập Hà Nội công việc chủ yếu
của người dân trong xã là làm nghề MTĐ và làm nông. Thời gian lao động trong ngày
là tương đối dài nhưng thu nhập thấp không đủ cho nhu cầu chi tiêu trong cuộc sống
hằng ngày. Đông Phương Yên vốn là làng nghề M TĐ truyền thống nhưng do giá thành
sản phẩm rẻ, giá nguyên liệu ngày càng tăng cao nên nhiều hộ gia đình đã không còn
mặn mà với nghề. Vì vậy khi được hỏi về việc có mong muốn thay đổi công việc hay
không thì đã có tới 79.5% người dân trả lời rằng “có”. Nhu vậy đa số người dân nơi
đây không hài lòng với công việc và thu nhập hiện tại, họ mong muốn tìm một công
34
việc mới với thu nhập cao hơn để ổn định cuộc sống.
2.3.2 Sau khi sáp nhập Hà Nội
2.3.2.1 Loại hình công việc
Sau khi sáp nhập Hà Nội trên địa bàn xã Đông Phương Yên diễn ra quá trình đô
thị hóa mạnh mẽ. Với lợi thế về vị trí địa lý nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ phát
triển, nhiều công ty, doanh nghiệp được xây dựng. Cũng chính vì vậy mà cơ cấu việc
làm của người dân trong xã Đông Phương Yên đã có những biến đổi lớn. Khi được hỏi
về sự thay đổi công việc sau khi sáp nhập Hà Nội thì có 64% người dân trả lời rằng
công việc của họ đã có thay đổi (Câu 17, Phụ lục II). Cụ thể điều này được thể hiện
như sau:
34.5
35
31.5
30
25
20
17
15
12
10
5
2.5
2.5
0
Công nhân
Làm nông
Th ợ thủ công Tiểu thương
Ý kiến khá c
Không có việc ổn định
Biểu đồ 2.4 Công việc chính của người dân sau khi sáp nhập Hà Nội
Qua bảng số liệu ta nhận thấy số lượng người làm công nhân chiếm tỷ lệ cao nhất
với 34.5%, tăng 27.5% so với trước khi sáp nhập Hà Nội. Số lượng người làm nghề
M TĐ giảm mạnh từ 46 % thì nay chỉ còn 17%. Số lao động nông nghiệp cũng giảm từ
35
40% xuống còn 31.5%. Sau khi địa phương sáp nhập vào Hà Nội nhiều vùng đất nông
nghiệp được quy hoạch để làm đường giao thông hoặc để xây dựng các KCN. Trong
quá trình này một số người dân đã mất đất sản xuất nông nghiệp. Nếu như trước đây
họ canh tác 1 mẫu ruộng vừa cấy lúa vừa trồng hoa màu thì nay chỉ còn lai 3 đến 4 sào
để trồng lúa, vì vậy mà làm nông không còn là công việc chính của họ. Số người lao
động MTĐ cũng giảm mạnh là do người làm nghề M TĐ làm việc với thời gian dài, giá
thành sản phẩm rẻ dẫn đến thu nhập thấp nên họ luôn có tâm lý mong muốn tìm một
công việc khác với thu nhập cao hơn. Khi các CT, DN trong và ngoài địa bàn xã tuyển
dụng công nhân thì đã thu hút một lượng lớn lao động làng nghề nơi đây, vì vậy mà
hoạt động sản xuất hàng MTĐ không còn được duy trì như trước. Cùng với sự phát
triển của các KCN và đường giao thông thì các hoạt động buôn bán và dịch vụ nơi đây
cũng phát triển. Số lượng lao động trong lĩnh vực này tăng từ 5% lên 12% sau khi sáp
nhập Hà Nội. Tuy nhiên có một điều đáng chú ý là trước đây không có tỷ lệ người
không có việc làm ổn định thì nay đã bắt đầu xuất hiện hiện tượng này với tỷ lệ 2.5%.
Con số này không phải là lớn nhưng có nguy cơ gia tăng nếu như không có phương án
giải quyết. Số người không có việc làm ổn định này là lao động nông nghiệp và lao
động thủ công MTĐ khi chuyển sang làm công nhân tại các công ty như: may mặc,
sản xuất đồ chơi, lắp ráp xe máy…Sau một thời gian họ bỏ việc hoặc bị chấm dứt hợp
đồng lao động do không đủ yêu cầu về tay nghề, sức khỏe, độ tuổi…Họ trở thành
những người thất nghiệp.
36
Hình 2.4: Công nhân đi làm tại KCN Phú N ghĩa
Qua khảo sát cũng cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ nam và nữ trong các
công việc làm nông và thợ thủ công. Riêng hoạt động buôn bán, dịch vụ thì tỉ lệ nữ cao
hơn nam (15% ở nữ so với 8.6% ở nam), tỷ lệ nam làm công nhân (39.8%) cao hơn nữ
(29.9%) . Do đặc thù của từng loại hoạt động nghề nghiệp hơn nữa sự chênh lệch tỷ lệ
lao động nam và nữ không phải là quá lớn nên ta có thể thấy trên địa bàn xã không có
sự phân biệt giới trong các loại hình công việc. (Bảng 10, Phụ lục III)
Ta thấy có sự khác biệt về nghề nghiệp ở các độ tuổi của người lao động. Ở độ
tuổi từ 18 đến 30 thì công việc chính của họ là công nhân với tỷ lệ 56.1%. Đây là một
lựa chọn phù hợp với người lao động ở độ tuổi này. Còn đối với độ tuổi 31 đến 55 thì
công việc chính của họ vẫn là công nhân chiếm 39%, ít hơn so với độ tuổi từ 18 đến
30. Ở độ tuổi này bắt đầu xuất hiện tỷ lệ người thất nghiệp, những CT, DN hạn chế
nhận những người trên 40 tuổi trở lên vì thao tác của họ chậm hơn, dễ đau bệnh hơn,
vấn đề an toàn lao động ít được đảm bảo hơn, hơn nữa thời gian gắn bó với CT, DN để
làm công nhân lành nghề là rất ít. Điều đó làm hạn chế cơ hội tìm được công việc ổn
định của họ.
Những người ở độ tuổi trên 55 thì đã hết tuổi lao động đối với nữ, đối với nam
thì đây cũng là một độ tuổi khá cao, lẽ ra họ cần phải được an hưởng tuổi già nhưng
kết quả khảo sát cho thấy có tới 48.4% số người trong độ tuổi này vẫn làm nông. Cụ
M ò năm nay đã 69 tuổi nhưng vẫn đi cấy, cụ cho biết: “ mấy đứa cháu nhỏ đi học hết,
bố mẹ nó thì cũng đi làm công nhân cả, xin nghỉ thì không được, tự nghỉ thì nó phạt rồi
trừ lương, thế là còn mình tôi đi cấy thôi, cứ làm mỗi ngày một ít khi nào xong thì
xong”. Với độ tuổi cao mà họ vẫn lao động những công việc nặng nhọc như vậy là
không đảm bảo sức khỏe. Đây là một khó khăn lớn cho người dân nơi đây.
2.3.2.2 Thời gian lao động trong ngày
Trước khi sáp nhập Hà Nội thời gian lao động của người dân đã dài thì nay
37
khoảng thời gian này còn tăng lên dài hơn nữa. Cụ thể điều này còn thể hiện:
Thời gian làm việc Số lượng Tỷ lệ (%)
Dưới 4h 7 3.5
Từ 4h đến dưới 8h 21 10.5
Từ 8h đến 12h 143 71.5
Trên 12h 29 14.5
Tổng số 200 100
Bảng 2.6 Thời gian làm việc của người dân sau khi sáp nhập Hà Nội
Thời gian lao động từ 8 đến 12h mỗi ngày chiếm đến 71,5%, và trên 12h là
14.5%. Hầu hết người dân đều làm việc vượt nhiều giờ so với thời gian lao động quy
định. Điều này cho thấy áp lực công việc đối với họ là rất lớn. Họ không thể duy trì tần
suất lao động này trong một khoảng thời gian dài vì sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, luôn
trong tình trạng căng thẳng, mệt mỏi, stress…Từ đó nguy cơ bỏ việc và thất nghiệp
cũng tăng lên. Ngoài ra nữ giới cũng phải chịu nhiều áp lực công việc hơn do ngoài
thời gian lao động chính họ còn phải chăm sóc gia đình, dạy dỗ con cái cũng gặp nhiều
khó khăn. Thông qua mối tương quan giữa giới tính và thời gian lao động cho thấy nữ
giới làm việc với thời gian dài hơn nam giới. Đặc biệt là ở mức trên 12h thì nữ chiếm
18.7% trong khi tỷ lệ này ở nam giới là 9.6% (Bảng 11,Phụ lục III, ). Khi được hỏi về
thời gian làm việc trong ngày chị Ngân (29 tuổi) cho biết: “ mình làm công nhân ở
công ty may từ 7h sáng tới 5h chiều, tăng ca 2 tiếng nữa là tới 7h tối, về nhà nấu cơm
ăn xong đã là gần 9h tối rồi nhưng hôm nào thấy khỏe thì vẫn tranh thủ làm thêm ít
hàng MTĐ để kiếm thêm”. Thời gian lao động trên 8 đến 12h chủ yếu thuộc về độ tuổi
từ 18 đến 30 tuổi (87.7%). (Bảng 17, phụ lục III). Ngoài ra ta cũng nhận thấy rằng
những người làm việc với thời gian dài vẫn là những người làm nông và những người
thợ nghề MTĐ. (Bảng 19, Phụ lục III).
2.3.2.3 Thu nhập của người dân
Khi được hỏi về vấn đề thu nhập sau khi sáp nhập Hà Nội thì có tới 76.5% người
dân trả lời rằng thu nhập có khá hơn trước đây.(Câu 16, phụ lục II). Điều này được thể
38
hiện qua bảng số liệu sau đây:
60
51
50
35.5
40
30
20
8.5
0
5
10
0
Dưới 1tr
Từ 3 đến 5tr
Trên 5tr
Từ 1 đến dưới 2tr
Từ 2 đến dưới 3tr
Biểu đồ 2.5 Thu nhập của người dân
Số lượng người lao động có thu nhập từ 2 đến 3 triệu chiếm 51%. Đây là một
mức thu nhập khá cao. M ức thu nhập này phần lớn thuộc về những người là công nhân
(46.1%). (Bảng 21, phụ lục III).Với mức lương cơ bản từ 1.3 đến 1.5 triệu/ tháng cộng
thêm 3tiếng tăng ca mỗi ngày, làm thêm cả những ngày chủ nhật họ mới có được mức
thu nhập như vậy. M ức thu nhập này không phải ổn định tháng nào cũng như tháng
nào mà còn phải phụ thuộc vào thời gian làm việc nhiều hay ít của họ. Ngoài ra những
người làm công nhân này cũng kiếm thêm thu nhập từ làm hàng MTĐ vào buổi tối, từ
đó ta có thể thấy rằng áp lực về công việc và thời gian đối với họ là rất lớn. M ặc dù thu
nhập của người lao động là khá cao nhưng với sự biến động của giá cả thị trường hiện
nay như: giá xăng tăng, điện tăng kéo theo sự tăng giá của hàng loạt các mặt hàng,
nhiều loại thực phẩm còn tăng giá lên gấp đôi khiến cho chi phí sinh hoạt hằng ngày
của người dân cũng tăng lên rất cao. Chính vì vậy dù thu nhập có tăng nhưng không
thể theo kịp mức tăng của giá cả nên người dân vẫn phải “dè dặt” mới đủ chi tiêu cho
cuộc sống.
Qua bảng số liệu cũng cho thấy vẫn còn một tỷ lệ lớn người dân có thu nhập từ
1 đến dưới 2 triệu (35.5%). Mức thu nhập này phần lớn thuộc về những người thợ
39
nghề MTĐ với 33.8%. (Bảng 21, phụ lục III ). Sau khi sáp nhập Hà Nội giá thành các
sản phẩm MTĐ có tăng nhưng kéo theo sự tăng giá của các nguyên liệu đầu vào nên
thực chất tiền lãi từ làm nghề M TĐ không tăng so với trước khi sáp nhập. Cô Hải (41
tuổi) là một người thợ làm nghề MTĐ lâu năm cho biết: “ hàng M TĐ tăng 1.5 lần thì
giá giang, nứa, mây đã tăng gần 3 lần. Ngày trước hàng đan được 1.200đ/chiếc thì
giang chỉ có 500đ/ống, nay hàng lên 2000đ/ chiếc thì giang đã tăng tới 1500đ/ống rồi,
không còn việc gì khác nữa thì cứ làm vậy thôi chứ lời lãi chẳng được bao nhiêu”.
Ngoài ra ta thấy mức thu nhập cao trên 3triệu đến 5triệu vẫn thuộc về những người
buôn bán và dịch vụ với 64.7%. Cùng với quá trình đô thị hóa mạnh mẽ nơi đây thì
đây là một lĩnh vực lao động tiềm năng trong tương lai.
Qua khảo sát cũng cho thấy thu nhập của người dân tỉ lệ thuận với trình độ học
vấn của họ . Trình độ thấp thì thu nhập thấp và trình độ càng cao thì mức thu nhập
cũng khá hơn. Cụ thể là mức thu nhập từ 1 đến dưới 2 triệu/ tháng chủ yếu thuộc về
những người có trình độ tiểu học(42.3%). M ức thu nhập cao hơn từ 2 đến 3 triệu thì có
46.1% số lao động có trình độ THPT. Đối với trình độ cao là TC – CĐ – ĐH thì có
52.9% số lao động có thu nhập từ 3 đến 5 triệu/ tháng. Như vậy ta có thể thấy rằng
trình độ học vấn là yếu tố quan trọng để giúp cho người lao động tìm được một công
việc với thu nhập cao.
2.3.2.4 Mức độ ổn định và mức độ yêu thích công việc
Sự ổn định trong công việc và tâm lý yêu thích công việc là một yếu tố quan
trọng giúp người lao động có thể gắn bó lâu dài và phát triển công việc của mình. Vì
vậy khi tìm hiểu được vấn đề này ta sẽ thấy rõ hơn tính chất công việc của họ.
Về m ức độ ổn định của công việc
Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Mức độ Số lượng Tỷ lệ (%)
Ổn định 69 34.5
Thường xuyên thay đổi 131 65.5
Tổng số 200 100
40
Bảng 2.7 Mức độ ổn định của công việc
Có 65.5% người dân cho biết rằng họ thường xuyên thay đổi công việc của
mình. Đây là một tỷ lệ khá cao phản ánh sự bấp bênh, thiếu ổn định của những công
việc mà người dân đang làm hiện nay. Những công việc này là những công việc lao
động chân tay hoặc làm việc với thời gian quá dài mà thu nhập lại thấp như: lao động
thủ công hoặc công nhân. Chị Nhiên (34 tuổi) là công nhân trong công ty may mặc cho
biết: “ đi làm phải đứng truyền, ủi quần áo cả ngày mỏi hết tay chân, mùa hè thì nóng
không chịu được, chủ quản ở đây lại khắt khe nên người ta nghỉ nhiều. Chị cũng định
tháng sau nghỉ ở nhà một thời gian rồi từ từ xem có công ty nào khác tuyển người thì
lại nộp hồ sơ đi làm tiếp”. Chú Thơm (40 tuổi) là một người thợ MTĐ thì nói: “ hàng
M TĐ này có lúc làm không hết việc, có lúc lại chơi không, tùy vào chủ hàng họ nhận
được nhiều họ giao nhiều, nhận được ít họ giao ít, cũng có đợt chủ có nhiều hàng giao
cho dân mình nhưng ở chợ không có bán giang, mây nên mình cũng không nhận làm
được”.
Về m ức độ yêu thích công việc
Đối với đa số lao động nông thôn họ không có nhiều cơ hội lựa chọn nghề
nghiệp nên sự yêu thích và tâm huyết với công việc là rất ít. Điều này được thể hiện
bằng bảng số liệu sau:
Mức độ yêu thích Số lượng Tỷ lệ (%)
Không yêu thích 61 30.5
Bình thường 107 53.5
Yêu thích 28 14.0
Rất yêu thích 4 2.0
Tổng số 200 100
Bảng 2.8 Mức độ yêu thích công việc
Như vậy phần lớn người lao động cảm thấy “bình thường” với công việc mình
đang làm (53.5%). Công việc đối với họ đơn giản chỉ là để kiếm thu nhập phục vụ cho
nhu cầu chi tiêu trong cuộc sống chứ không có gì thú vị. Điều này thể hiện rõ nhất đối
với những người là công nhân, họ làm công ty này được mấy tháng thấy chán thì nghỉ
rồi lại nộp hồ sơ xin vào công ty khác. Anh Phong (25 tuổi) là một công nhân trong
41
DN lắp ráp xe máy cho biết : “đi làm 2 năm mà mình chuyển đến 4 công ty rồi, làm ở
đâu cũng được một thời gian là thấy chán. Công ty mình đang làm bây giờ đến tháng
sau mà không tăng lương thì mình nghỉ ở nhà một thời gian rồi đi học lái xe”. Qua
biểu đồ cũng cho thấy có 30.5% người dân không yêu thích công việc mình đang làm.
Đó chủ yếu là lao động thủ công MTĐ và người làm nông. Những công việc này chủ
yếu là lao động chân tay với thời gian dài, thu nhập lại thấp và không ổn định nên họ
không hề mặn mà với công việc. Chính vì điều này mà làng nghề M TĐ truyền thống ở
xã Đông Phương Yên đang dần mai một và sự yêu nghề, tâm huyết với nghề chỉ còn
lại trong số ít những nghệ nhân lâu năm.
2.3.2.4 Những khó khăn trong vấn đề việc làm của người dân Đông Phương Yên
sau khi sáp nhập Hà Nội
Việc tìm hiểu khó khăn của người dân trong vấn đề việc làm sẽ phản ánh một
cách chính xác, kỹ lưỡng về thực trạng việc làm trong từng lĩnh vực lao động, từ đó
mới có thể định hướng được các giải pháp giúp người dân khắc phục khó khăn, ổn
định công việc.
49.5
50
45
40
35
30
27.5
25
20
14.5
15
14
10.5
10.5
10
5
0
Thiếu vốn
Thiếu việc ở nhà máy
Khó khăn khác
Th ời gia n lao độ ng dài
Không có nơi tiêu thụ sản phẩm
Chưa được đào tạo nghề
42
Biểu đồ 2.6 Những khó khăn trong vấn đề việc làm của người dân
Qua bảng số liệu ta thấy khó khăn lớn nhất mà người lao động nơi đây gặp phải
là thời gian lao động dài chiếm tỷ lệ 49.5%. Những người gặp khó khăn này nhiều nhất
là công nhân với 88.4%. ( Bảng 22, phụ lục III). Hầu như họ phải làm việc trung bình
12h mỗi ngày. Mức thời gian đã vượt xa quy định về thời gian lao động. Tuy người
công nhân được trả lương cho thời gian tăng ca nhưng chỉ 9.000đ/tiếng. mức tiền công
này là quá thấp so với công sức họ đã bỏ ra. Chị Phương là một lao động trong công ty
đồ chơi trẻ em cho biết: “mỗi ngày mình tăng ca 3 tiếng chỉ được thêm có mấy chục
ngàn mà mệt lắm, hôm nào chủ quản cũng bắt công nhân tăng ca, hôm nào mệt hoặc ở
nhà có việc gì xin nghỉ tăng ca họ cũng không cho, nếu tự nghỉ thì họ trừ thưởng
chuyên cần của cả tháng. Họ còn tính điểm nữa, mỗi lần nghỉ tính 1 điểm, khi nào tới
10 điểm thì họ cho nghỉ việc luôn, khổ vậy đấy”. Ngoài ra thợ thủ công M TĐ có 50%
người cho rằng khó khăn của họ là thời gian làm việc một ngày quá dài mà thu nhập
chẳng bao nhiêu.
Khó khăn tiếp theo mà người dân trong xã gặp phải trong vấn đề việc làm là
thiếu vốn với tỷ lệ 27.5%. Công việc thiếu vốn nhiều nhất là tiểu thương với tỷ lệ
95.8%. Những người làm trong lĩnh vực buôn bán này trước đây cũng chủ yếu là lao
động nông nghiệp. Sau khi sáp nhập vào Hà Nội trên địa bàn diễn ra quá trình ĐTH
mạnh mẽ, đất sản xuất nông nghiệp được quy hoạch để làm đường giao thông, các
KCN hoặc các công trình khác, người dân được đền bù một khoản tiền lớn nhưng họ
chủ yếu dùng vào chi tiêu cho gia đình như: xây nhà, mua sắm đồ đạc, vật dụng trong
gia đình. Khi đã sắm sửa đầy đủ thì chỉ còn lại một số ít vốn họ mới đầu tư vào hoạt
động buôn bán, dịch vụ. Trong khi đó đặc thù của hoạt động công việc này là cần
nhiều vốn đầu tư để xoay vòng trong thời gian dài mới đem lại hiệu quả, chính vì vậy
khi kinh doanh, buôn bán họ vấp phải vấn đề lớn nhất là thiếu vốn. Ngoài ra người lao
động cũng gặp phải một số khó khăn khác trong công việc như chưa được đào tạo về
tay nghề, hoặc không nơi tiêu thụ sản phẩm nhưng những khó khăn này chiếm một tỷ
43
lệ nhỏ.
2.3.2.5 Nhu cầu trong vấn đề việc làm của người dân
Từ những khó khăn trong vấn đề việc làm ta có thể thấy nhu cầu của người dân
cũng chính là giải quyết những khó khăn đó. Cụ thể những nhu cầu này được thể hiện
trong bảng theo trật tự như sau:
Những nhu cầu, đề xuất của người dân.
Thứ tự ưu tiên 1 Tăng lương, giảm thời gian lao động tại các công ty, xí nghiệp trong và
ngoài địa bàn xã.
2 Hỗ trợ vốn để sản xuất, mở rộng buôn bán, kinh doanh.
3 Sản phẩm làng nghề M ây tre đan được thu mua với giá cao hơn.
4 Có trung tâm giới thiệu việc làm để người dân dễ dàng tìm được công
việc phù hợp.
5 Chính quyền quan tâm hơn đến làng nghề, có chính sách quy hoạch và
phát triển làng nghề truyền thống. Không để mai một.
6 Chính quyền xã, các tổ chức Đoàn, Hội thường xuyên thông báo cho
người dân những thông tin mới về những hỗ trợ, chính sách, các dự án về việc
làm và những vấn đề mới sau khi sáp nhập Hà Nội.
Bảng 2.8 Sắp xếp thứ tự ưu tiên nhu cầu của người dân
Như vậy ta thấy nhu cầu lớn nhất của người dân là được tăng lương, giảm thời
gian làm việc tại các CT, DN. Đây chính là nhu cầu của những người làm công nhân
trong các CT, DN trên địa bàn trong và ngoài xã. Nhu cầu này của người dân là rất
chính đáng và cấp thiết. Hiện tại đa số công nhân phải làm việc với thời gian quá dài
nhưng mức thu nhập lại không tương xứng với công sức họ bỏ ra. Hơn thế nữa chế độ
ưu đãi, tiền thưởng cho công nhân ở một số CT, DN cũng không có hoặc có rất ít. Thu
nhập thấp khiến cho người lao động gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, chính điều
này cũng tạo nên sự không ổn định trong công việc của họ. Vì vậy việc tăng lương,
giảm thời gian tăng ca cho công nhân là một trong những giải pháp giúp họ giảm áp
lực thích nghi tốt hơn với công việc, có nhiều điều kiện chăm sóc sức khỏe bản thân và
44
gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nhu cầu tiếp theo của người dân là mong muốn được hỗ trợ nhiều vốn hơn để
có thể mở rộng quy mô sản xuất hàng MTĐ, không chỉ sản xuất nhỏ lẻ ở các hộ gia
đình mà còn có điều kiện để mở xưởng, thành lập CT, DN chuyên sản xuất MTĐ xuất
khẩu. Như vậy không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn giải quyết việc làm và tạo
thu nhập ổn định cho nhiều lao động khác trong xã. Đối với lao động nông nghiệp việc
hỗ trợ vốn giúp họ đầu tư cho giống, phân bón, thuốc trừ sâu…nâng cao năng suất lúa
và cây màu. Ngoài ra hỗ trợ vốn cho người dân để đầu tư mua con giống, thức ăn cho
vật nuôi, xây dựng chuồng trại…nhằm phát triển các mô hình chăn nuôi với quy mô
lớn trên địa bàn xã.
Nghề MTĐ trên địa bàn xã đã có từ lâu đời nhưng do quy mô sản xuất nhỏ lẻ,
chưa xây dựng được thương hiệu nên giá thành sản phẩm còn thấp. Chính vì vậy nhu
cầu tiếp theo của người dân trong xã là sản phẩm MTĐ của mình được thu mua với giá
cao hơn. Mặc dù địa phương và một số chủ hàng đã tham gia hội chợ, đẩy mạnh xúc
tiến thương mại nhưng sản phẩm vẫn chưa vươn xa, giá trị sản xuất tiểu thủ công
nghiệp chưa tương xứng nghề truyền thống, sản phẩm ở đây phục vụ xuất khẩu vẫn
phải qua đơn vị trung gian, gắn nhãn mác của một cơ sở xuất khẩu khác chứ không
được mang tên làng nghề, lượng hàng hóa tiêu thụ chậm, lợi nhuận thu được không
cao, điều đó là thiệt thòi lớn cho nghề truyền thống của địa phương. Để có thể nâng
cao giá thành sản phẩm thì làng nghề cần khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ và tạo
tư cách pháp nhân cho các hộ sản xuất, các doanh nghiệp mở rộng giao thương hàng
hóa. Bên cạnh đó, cần đa dạng mẫu mã, đào tạo thợ giỏi để nâng cao chất lượng sản
phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường. Các chủ doanh nghiệp, cơ sở cần đẩy mạnh xúc tiến
thương mại, tham gia triển lãm, hội chợ xây dựng thương hiệu MTĐ Đông Phương
Yên. Hiện nay khu chợ làng nghề của xã đang được đẩy nhanh tiến độ để tạo mặt bằng
thuận lợi cho hộ sản xuất mua bán nguyên vật liệu và tập kết sản phẩm, là nơi quảng
bá giới thiệu để người làm nghề trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt thị hiếu của người tiêu
dùng. Tuy nhiên, trên đây mới là những yếu tố mang tính nội lực. Việc xây dựng
thương hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống Đông Phương Yên còn rất cần sự quan
tâm, hỗ trợ, giúp đỡ của các cơ quan chuyên môn. Có như vậy mới nâng cao được giá
45
trị xuất khẩu và nâng cao giá thành sản phẩm.
Nhu cầu thứ tư trong những mong muốn và đề xuất của người dân là có trung
tâm giới thiệu và môi giới việc làm để họ có thể tìm việc dễ dàng hơn. Đa số người
dân trong xã là người có trình độ phổ thông, họ thiếu thông tin về việc làm, không biết
CT, DN nào tuyển người, yêu cầu ra sao, công việc như thế nào. Vì vậy khi có trung
tâm giới thiệu việc làm người dân có thể tìm hiểu được đầy đủ các thông tin từ đó
quyết định nộp hồ sơ xin việc, các CT, DN cũng có thể đưa yêu cầu tuyển dụng của
mình về các trung tâm này để tuyển được người phù hợp.
Ngoài những nhu cầu trên thì một số những nghệ nhân và thợ MTĐ lành nghề
trong xã cũng mong muốn chính quyền quan tâm hơn nữa đến sự phát triển của làng
nghề. Cụ thể là cần có sự quy hoạch tổng thể, định hướng, hỗ trợ làng nghề phát triển
hơn nữa, không để truyền thống làng nghề bị mai một. Ngoài ra hầu hết người dân
trong xã đều mong muốn chính quyền sẽ thường xuyên cung cấp thông tin về những
thay đổi của địa phương sau khi sáp nhập Hà Nội. Những thay đổi này có thể là về
chính sách xã hội, các dự án quy hoạch đô thị, KCN, đường giao thông… Tiếp cận
được thông tin là một trong những điều kiện giúp người dân trong xã thích nghi nhanh
hơn với những thay đổi trong việc làm cũng như trong cuộc sống, định hướng được
nghề nghiệp trong tương lai.
2.3.2.6 Sự hỗ trợ của chính quyền địa phương trong vấn đề việc làm của người
dân xã Đông Phương Yên
Để có thể giúp người dân ổn định công việc thì chính quyền địa phương đóng
vai trò rất quan trọng. Tìm hiểu rõ vấn đề này sẽ giúp cho chúng ta thấy được mức độ
quan tâm của chính quyền dành cho người dân và mối quan hệ giữa họ. Điều này được
thể hiện cụ thể qua sự hỗ trợ của chính quyền trong vấn đề việc làm cho người lao
động. Tuy nhiên theo đánh giá của người dân thì vai trò của chính quyền địa phương
46
trong hỗ trợ việc làm cho người dân là rất nhỏ bé.
Hỗ trợ của chính Số lượng Tỷ lệ (%)
quyền
Không hỗ trợ 141 70.5
Mở lớp đào tạo nghề 29 14.5
Hỗ trợ vốn 33 16.5
Giới thiệu việc làm 17 8.5
Tìm kiếm thị trường 14 7.0
Hỗ trợ khác 11 5.5
Tổng số 200 100
Bảng 2.9 Sự hỗ trợ của chính quyền địa phương trong vấn đề việc làm
Có 70.5% trong tổng số ý kiến đánh giá rằng chính quyền địa phương không hỗ
trợ gì trong vấn đề việc làm của họ. Như vậy ta có thể thấy rằng chính quyền địa
phương chưa thể hiện được vai trò của mình. Đặc biệt là sau khi sáp nhập Hà Nội, tình
hình kinh tế, xã hội địa phương có nhiều thay đổi, cơ cấu việc làm cũng có nhiều biến
đổi mạnh mẽ nhưng chính quyền địa phương không hỗ trợ, không cung cấp các thông
tin cần thiết cho người dân tìm kiếm công việc thích hợp. Xã Đông Phương Yên là
làng nghề M TĐ truyền thống, trước đây nó đã đem lại thu nhập chính và cũng giúp
cho nhiều hộ gia đình trong xã được khá giả, nhưng hiện nay khi người dân không còn
mặn mà với nghề, chính quyền địa phương không quan tâm, không định hướng quy
hoạch sự phát triển cho làng nghề thì nghề MTĐ đang dần mai một và có nguy cơ biến
mất. MTĐ là một nghề thủ công mỹ nghệ với các sản phẩm tinh xảo và đẹp mắt nếu
được quy hoạch đầu tư đúng hướng thì sẽ là một lĩnh vực lao động tiềm năng đem lại
thu nhập cao giúp người dân ổn định cuộc sống.
Tuy nhiên thông qua bảng số liệu ta cũng nhận thấy chính quyền địa phương đã
có sự hỗ trợ về vốn chiếm 16.5%. Đây là những hỗ trợ vô cùng cần thiết, tuy nhiên với
tỷ lệ nhỏ như vậy thì chưa thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn để mở rộng quy mô sản
xuất hay đầu tư kinh doanh buôn bán của người dân trong xã. Hiện nay trên địa bàn xã
cũng đã mở lớp đào tạo nghề MTĐ chiếm 14.5%. Những lớp đào tạo nghề này chủ yếu
dành cho những người khuyết tật nhẹ, không có khả năng làm những công việc nặng
47
nhọc, không làm việc được tại các CT, DN . Đây là một trong những chính sách hỗ trợ
việc làm cho người khuyết tật giúp họ có được thu nhập ổn định, đóng góp vào đời
sống chung của gia đình và hòa nhập tốt nhất vào xã hội.
2.4 Đánh giá những mặt tích cực, hạn chế trong lĩnh vực việc làm của người dân
xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ sau khi sáp nhập Hà Nội
2.4.1 Những chuyển biến tích cực
Sau khi sáp nhập vào Hà Nội trên địa bàn xã Đông Phương Yên có nhiều chuyển biến
tích cực trong vấn đề việc làm của người dân. Cụ thể là:
Thứ nhất: Nhiều cơ hội việc làm mới được mở ra. Cùng với quá trình đô thị
hóa mạnh mẽ nhiều CT, DN đã về đây đầu tư xây dựng và sản xuất. Đặc biệt là KCN
Phú Nghĩa cách xã Đông Phương Yên 3km do Tập đoàn Phú Mỹ làm chủ đầu tư với
tổng diện tích giai đoạn 1 là 170 ha, hiện nay đã có hơn 20 DN trong và ngoài nước
đang hoạt động và giải quyết việc làm cho hơn 7000 lao động trong huyện, trong đó
có gần 1000 lao động trong xã Đông Phương Yên. Đây là một cơ hội lớn về việc làm
cho người dân trong toàn huyện Chương M ỹ nói chung và trong xã Đông Phương yên
nói riêng. Các CT, DN ở đây chủ yếu là may mặc, sản xuất đồ chơi, sản xuất thiết bị ô
tô, xe máy, chế biến thực phẩm…K hi tuyển dụng công nhân họ không yêu cầu cao về
trình độ nên hầu hết những người đủ độ tuổi và sức khỏe đều có thể vào làm việc, nhờ
vậy đã giải quyết được việc làm cho một lực lượng lao động lớn lao động nơi đây.
Ngoài ra sau khi sáp nhập Hà Nội cơ hội cho người dân buôn bán kinh doanh, dịch vụ
cũng rất phát triển. Xã Đông Phương Yên nằm gần trung tâm Thủ đô Hà Nội, lại có
đường quốc lộ 6A chạy qua nối liền với các tỉnh phía Tây Bắc rất thuận lợi cho việc
vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh này xuống Thủ đô và ngược lại. Hơn nữa xã lại nằm
giữa hai thị trấn trẻ là Chúc Sơn và Xuân M ai đang trên đà phát triển mạnh mẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân phát triển các hoạt động kinh doanh của mình. Nếu
như trước đậy trên địa bàn xã hầu như không có bất kì loại hình dịch vụ vui chơi giải
trí nào thì hiện nay các dịch vụ này cũng rất phát triển như: các quán café, phòng trà,
karaoke, các tiệm chăm sóc sắc đẹp, dịch vụ du lịch…Nó đã tạo ra một cơ hội việc làm
mới cho nhiều hộ gia đình trong xã, hơn thế nữa nó cũng đã đáp ứng nhu cầu nâng cao
48
đời sống tinh thần cho người dân nơi đây.
Hình 2.5 Một số công ty tại KCN Phú Nghĩa
Thứ hai: Nâng cao thu nhập cho người dân. Từ những cơ hội việc làm mới thì
đồng thời thu nhập bình quân hàng tháng của cá nhân và hộ gia đình cũng được nâng
cao. Nhiều người dân trong xã hiện nay đã có thu nhập trên 5 triệu/ tháng. Thu nhập
tăng lên đã góp phần cải thiện đời sống cho người dân trong xã.
Thứ ba: Nhiều thuận lợi về mặt cơ chế, chính sách việc làm, các dự án về việc
làm. Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước vì vậy vấn đề việc làm của
người lao động cũng được UBND Thành phố Hà Nội đặc biệt quan tâm. Năm 2010
vừa qua nhiều dự án về việc làm được phê duyệt như: “ Phát triển thị trường lao động
Thành phố Hà Nội đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”; “ Chương trình giải
quyết việc làm Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 – 2015”; “Điều tra về nhu cầu học
nghề và sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố Hà Nội”…Cùng với việc sáp nhập
vào Hà Nội thì các thủ tục hành chính, giải quyết giấy tờ, thủ tục hồ sơ việc làm với cơ
chế một cửa nhanh gọn đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong giải quyết việc làm cho
người dân trong xã.
Thứ tư: Làng nghề có những bước phát triển mới. Làng nghề MTĐ truyền thống
của xã trước đây chủ yếu là lao động chân tay, sản xuất manh mún nhỏ lẻ ở các hộ gia
đình. Hiện nay cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu việc làm nhiều người đã nắm bắt
cơ hội này thành lập những CT, DN chuyên sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm MTĐ.
49
Trên địa bàn xã hiện có 13 CT, DN sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực hàng MTĐ
xuất khẩu. Các doanh nghiệp này tập trung lao động làng nghề tại xưởng sản xuất và
trả lương cho lao động theo tháng, mỗi cơ sở sản xuất thường có từ 30 đến 40 nhân
công. Các DN MTĐ sản xuất trên dây truyền khép kín, từ khâu chọn nguyên liệu, chế
biến đến đan sản phẩm, bảo quản, đóng gói và xuất khẩu. Cũng có một số xưởng sản
xuất thu mua sản phẩm M TĐ từ các hộ gia đình trong và ngoài xã về sơ chế lại và xuất
khẩu ra nước ngoài. Các DN này thường sản xuất theo đơn đặt hàng và đảm bảo được
thị trường tiêu thụ sản phẩm. Như vậy các CT, DN MTĐ trên địa bàn xã đã vừa đảm
bảo được sản lượng hàng xuất khẩu, vừa đảm bảo thu nhập hàng tháng cho các lao
động, giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm sản xuất.
Hình 2.6: Công nhân làm việc tại xưởng sản xuất MTĐ
2.4.2 Những hạn chế
Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong vấn đề việc làm của người dân thì
cũng có không ít những hạn chế, những tác động tiêu cực từ quá trình ĐTH nông thôn
đến việc làm và đời sống của người dân trong xã. Cụ thể là:
Thứ nhất: Thời gian lao động trong ngày kéo dài và những áp lực về công việc,
nhất là đối với người phụ nữ. Sau khi sáp nhập Hà Nội nhiều lao động nông nghiệp và
lao động nghề MTĐ chuyển sang làm công nhân tại các công ty. Họ phải làm việc
trung bình 11 đến 12h/ ngày, thời gian này đã vượt xa thời gian quy định của người lao
động. Ngoài thời gian làm việc ở công ty buổi tối về nhà người phụ nữ phải dọn dẹp
nhà cửa, chăm sóc con cái và nhiều chị em còn tranh thủ làm thêm hàng MTĐ để có
50
thêm thu nhập. Đối với những lao động vẫn còn đất canh tác nông nghiệp thì vào ngày
mùa họ tranh thủ buổi sáng sớm, buổi chiều tối hay những ngày chủ nhật được nghỉ để
làm ruộng. Với cường độ làm việc như vậy thì họ không còn thời gian để chăm sóc
bản thân, từ đó gây ảnh hưởng tới sức khỏe và chất lượng công việc.
Thời gian lao động kéo dài cũng làm nảy sinh một số vấn đề khác trong cuộc sống gia
đình như: buông lỏng việc chăm sóc, quản lý con cái, các thành viên trong gia đình
không có thời gian quan tâm chia sẻ với nhau, không khí gia đình trở nên tẻ
nhạt…những vấn đề này nếu không được giải quyết hợp lý sẽ gây ảnh hưởng rất lớn
tới hạnh phúc gia đình.
Thứ hai: Sự thiếu ổn định trong công việc và sự mất định hướng nghề nghiệp
của một bộ phận thanh niên trong xã, bắt đầu xuất hiện tình trạng thất nghiệp. Do thời
gian lao động kéo dài và những áp lực công việc nên đa số công nhân trên địa bàn xã
thường có ý định nghỉ việc để “xả hơi” một thời gian sau đó sẽ tìm kiếm việc làm
khác. Vì tự ý nghỉ việc nên họ không được chi trả bảo hiểm lao động cũng như không
được hưởng bất kỳ khoản trợ cấp nào. Nhiều thanh niên trong xã tốt nghiệp THPT đi
làm công nhân được một thời gian họ bỏ việc vì thấy công việc nhàm chán, lương lại
thấp, họ luôn mang tâm lý tìm việc khác có thu nhập cao hơn hoặc tìm công ty khác có
mức lương cao hơn, nhưng với trình độ phổ thông lại chưa có kinh nghiệm làm việc
nên không có nhiều lựa chọn cho họ, nhiều thanh niên cứ loay hoay như vậy và trở
thành những người không có việc làm trong một thời gian dài. Chính những lý do này
đã tạo nên sự không ổn định trong lĩnh vực việc làm của người dân trong xã.
Thứ ba: Nguy cơ mai một của làng nghề MTĐ truyền thống. Trước đây xã Đông
Phương Yên có trên 70% hộ gia đình trong xã làm nghề M TĐ, đây là công việc đem
lại thu nhập chính và cũng giúp nhiều hộ gia đình trở nên sung túc và khá giả. Sau khi
sáp nhập vào Hà Nội cùng với sự biến đổi của cơ cấu việc làm, người dân đã không
còn tha thiết với nghề, một số hộ bỏ hẳn nghề, hiện nay trên địa bàn xã chỉ còn lại
khoảng hơn 20% số hộ sản xuất hàng MTĐ. Nếu như trước kia từ trẻ nhỏ, thanh niên
tới các cụ lớn tuổi đều có thể tham gia vào một công đoạn nào đó của nghề thì nay
hoạt động làm nghề chỉ còn do một số ít các nghệ nhân và những người trung niên
đảm nhận. Rất nhiều người không muốn truyền lại nghề cho con cháu vì suy nghĩ rằng
51
bây giờ có nhiều công việc tốt hơn, thu nhập cũng cao hơn. Cụ Thanh năm nay 73 tuổi,
là một nghệ nhân với hơn 30 năm trong nghề nói: “ ngày xưa mình đói khổ gắn bó với
nghề nhiều năm nên không nỡ bỏ, còn bọn trẻ ngày nay thiếu gì việc để làm, học nghề
này rồi làm cả đời cũng chỉ đủ nuôi miệng thôi chứ khá lên thế nào được”. Người dân
trong xã luôn mong muốn cho thế hệ con cháu có những cơ hội việc làm tốt hơn là một
điều dễ hiểu, tuy nhiên họ chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc p hát
triển làng nghề. M TĐ là một nghề thủ công mỹ nghệ với nhiều sản phẩm tinh xảo,
mẫu mã đa dạng và đẹp mắt được ưa chuộng ở thị trường trong và ngoài nước, nếu
được đầu tư đúng cách, quy hoạch hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay
nhà nước ta có nhiều chủ trương nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề truyền
thống trong cả nước nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn và cũng nhằm
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, trong xu thế đó mà nghề MTĐ dần mai một và có
nguy cơ biến mất là một điều đáng tiếc và nó cũng gây ra những tổn hại cho kinh tế địa
phương nói riêng và cho sự phát triển của các làng nghề truyền thống trên cả nước nói
chung.
Thứ tư: Vấn đề an toàn lao động của người dân chưa được chú ý. Sự thu hẹp đất
canh tác và những hệ quả về môi trường. Nhiều lao động nơi đây đã có thói quen sản
xuất nông nghiệp lâu đời, nay họ mất đất sản xuất do quá trình ĐTH, tuy có số tiền đền
bù khá lớn nhưng họ không biết cách đầu tư làm ăn hoặc có đầu tư nhưng chưa quen
với cung cách làm ăn hiện đại nên hầu hết sự đầu tư này không đem lại hiệu quả. Cùng
với quá trình ĐTH này Nhiều CT, DN được hình thành nhưng do mới thành lập, các
chủ CT, DN còn thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn nên vấn đề môi trường và an toàn lao
động chưa được quan tâm đầu tư. Các hóa chất bảo quản, thuốc nhuộm, khói lò sấy
không qua xử lí xả ra làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Các lao động làm việc
trong các cơ sở sản xuất không có hợp đồng lao động, không được hưởng BHYT, một
số công nhân làm việc trong môi trường độc hại như: phun in sơn, đùn ép nhựa, tẩy
trắng, nhúng hóa chất chống mối mọt cũng không có dụng cụ, quần áo bảo hộ lao động
gây ảnh hưởng đến sức khỏe.
Tiểu kết chương II: Thông qua phân tích thực trạng việc làm của người dân xã
52
Đông Phương Yên ta nhận thấy nổi lên một số vấn đề sau đây:
Lực lượng lao động trong xã rất dồi dào. Xã Đông Phương Yên là làng nghề
M TĐ truyền thống vì vậy không chỉ những người trong độ tuổi lao động mới có khả
năng lao động tạo thu nhập mà tất cả các thành viên trong gia đình đều có thể làm việc
đóng góp thu nhập vào đời sống chung của gia đình.
Trước khi sáp nhập Hà Nội thì đa số người dân trong xã làm nghề MTĐ, nhưng
Chương 3: NHẬN ĐỊNH TIỀM NĂNG, THẾ M ẠNH VÀ ĐỀ
XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIẢI QU YẾT VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI DÂN XÃ ĐÔNG PHƯƠNG YÊN – CHƯƠNG MỸ
SAU KHI SÁP NHẬP HÀ NỘI
3.1 Những tiềm năng và thế mạnh của xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ -
Hà Nội trong việc giải quyết việc làm cho người dân
Việc tìm hiểu tiềm năng và thế mạnh của cộng đồng sẽ giúp cho chúng ta cũng
như cộng đồng có những định hướng hiệu quả trong phát huy thế mạnh của cộng đồng
để giải quyết khó khăn trong vấn đề việc làm của người dân, đáp ứng nhu cầu của họ
một cách tốt nhất. Từ việc xác định được thực trạng chính của cộng đồng thì những
tiềm năng của cộng đồng được biểu hiện như sau:
3.1.1 Tiềm năng con người
Xã Đông Phương Yên với dân số khá đông, trong đó số người trong độ tuổi lao
động và có khả năng lao động là 5780 người, đây là một nguồn lao động dồi dào đóng
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
ĐPY có truyền thống lâu đời với nghề MTĐ, nghề được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Trong xã có nhiều nghệ nhân lâu năm và thợ lành nghề với đôi bàn
tay khéo léo tạo nên những sản phẩm tinh xảo, đẹp mắt và có giá trị. Lực lượng lao
động nghề MTĐ không chỉ là những nghệ nhân hay những người trong độ tuổi lao
động mà còn có cả những trẻ em, thiếu niên hay những cụ già đã ngoài tuổi lao động,
53
đây là một tiềm năng lớn về con người trong phát triển nghề MTĐ tại địa phương.
Trong lao động nông nghiệp và làm công nhân đa số những người lao động có
sức khỏe tốt, đặc biệt là tinh thần siêng năng, chăm chỉ, chịu thương chịu khó trong lao
động. Họ luôn có ý thức vươn lên, vượt qua khó khăn mong muốn có một cuộc sống
ổn định. Chính vì vậy mà họ dù làm nông vất vả nhưng họ vẫn tranh thủ làm thêm
hàng MTĐ vào buổi tối. Những người là công nhân cũng vậy, họ tranh thủ buổi tối và
những ngày chủ nhật để đan hàng MTĐ kiếm thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống
hằng ngày.
Tinh thần đoàn kết là một sức mạnh giúp vượt qua mọi khó khăn vươn lên phát
triển. Người dân trong xã luôn biết tương trợ, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Trong sản
xuất MTĐ các hộ gia đình phân chia các công đoạn sản xuất để tiết kiệm thời gian. Hộ
gia đình nào làm nhanh công đoạn nào thì được giao cho công đoạn đó, từ đó cùng tạo
điều kiện cho nhau kiếm thêm thu nhập. Trong lao động nông nghiệp cũng vậy, vào
mùa vụ họ đổi công cho nhau để làm việc cho nhanh, khi đi làm công nhân họ giúp đỡ
nhau về phương tiện đi lại...Chính nhờ những điều này mà cuộc sống của người dân
nơi đây được cải thiện, tình làng nghĩa xóm luôn được đề cao và phát huy.
3.1.2 Tiềm năng về cơ sở vật chất
Hệ thống cơ sở vật chất của xã được đầu tư xây dựng kiên cố. Hàng năm đều có
xây dựng công trình mới và tu bổ, nâng cấp những công trình mới. Đặc biệt sau khi
sáp nhập vào Hà Nội cơ sở hạ tầng của xã được đầu tư mạnh mẽ.
Hệ thống thủy lợi được xây dựng đảm bảo tưới tiêu cho hầu hết diện tích đất
nông nghiệp. M ạng lưới điện đảm bảo cung cấp ánh sáng cho 100% dân cư. Hệ thống
đường giao thông được rải nhựa và bê tông hóa đến 90%, rất thuận tiện cho việc đi lại,
lưu thông hàng hóa. Hệ thống trường học cấp I, cấp II, trạm y tế đều được xây dựng
kiên cố và đạt tiêu chuẩn đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân. M ỗi thôn trong
xã đều có nhà văn hóa riêng tạo điều kiện cho Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Đoàn
thanh niên...sinh hoạt hàng tháng.
Trên địa bàn xã hiện có 13 CT, DN MTĐ với 30 chủ hộ đứng ra thu mua sản
phẩm từ người dân, có 1 công ty chế biến sữa, sự hoạt động của các CT, DN này sẽ
góp phần rất lớn vào tạo việc làm cho người dân nơi đây. Ngoài ra trên địa bàn xã còn
54
có khu chợ Đông Phương Yên và 1 chợ bán giang, mây là nơi diễn ra các hoạt động
giao lưu buôn bán cho người dân trong xã và các khu chợ lân cận và cung cấp nguyên
liệu cho người dân làm nghề MTĐ.
3.1.3 Thế mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên
Đông Phương Yên có đường quốc lộ 6A chạy qua, lại nằm trong chuỗi đô thị
M iếu M ôn - Xuân Mai – Sơn Tây, nằm giữa tam giác du lịch Hà Nội – Ba Vì – Chùa
Hương, đây là những điều kiện rất thuận lợi để phát triển các loại hình kinh doanh,
buôn bán, dịch vụ du lịch...
Đối với hoạt động của làng nghề thì nguyên liệu chủ yếu là cây mây, cây giang,
cây nứa được khai thác ở rừng tự nhiên nằm ở vùng Quốc Oai, Sơn Tây, Hòa Bình
cách đó hơn 10km, việc vận chuyển dễ dàng cũng làm giảm đi chi phí nguyên liệu đầu
vào. Nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 20km, đây cũng là một lợi thế cho làng nghề
vì nền kinh tế Thủ đô phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của làng nghề. Thị trường
tiêu thụ sản phẩm ở khu vực gần Thủ đô cũng mạnh hơn những nơi khác, đặc biệt là từ
khi toàn bộ tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội.
Hình 3.1 Khu chợ buôn bán mây, giang, tre tại xã Đông Phương Yên
3.2 Đề xuất một số biện pháp nhằm giải quyết, ổn định việc làm cho người
55
dân xã Đông Phương Yên
Đề ra các biện pháp nhằm giải quyết và ổn định việc làm cho lao động nông thôn
là một vấn đề mang tính cấp thiết, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi quá trình
ĐTH nông thôn đang diễn ra mạnh mẽ, tỷ lệ thất nghiệp ngày tăng. Vấn đề này nhận
được sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước, các cấp chính quyền và toàn thể người dân.
Tuy nhiên để giải quyết vấn đề một cách triệt để thì một cá nhân hay một bộ phận cơ
quan Nhà nước có thể làm được mà cần có sự phối hợp chặt chẽ, chia sẻ trách nhiệm
giữa các cấp, các ngành đoàn thể, sự ủng hộ và tham gia tích cực của người dân.
3.2.1 Chủ trương và phương hướng và những biện pháp tổng thể giải quyết
việc làm của Đảng và Nhà nước
Về chủ trương:
Giải quyết việc làm cho người lao động vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, vừa
mang tính cấp bách, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành,
các tổ chức chính trị xã hội và của chính người lao động. Nhà nước, các cấp ngành có
chương trách nhiệm xây dựng chương trình giải quyết việc làm hàng năm và từng thời
kỳ, đề ra chỉ tiêu việc làm, các giải pháp thực hiện, có hệ thống chính sách ưu đãi
khuyến khích có liên quan đến tạo nhiều việc làm mới, thu hút lực lượng lao động và
có trách nhiệm với người lao động.
Nhà nước tạo những điều kiện cần thiết thông qua cơ chế, chính sách, luật pháp
và hỗ trợ một phần về tài chính để khuyến khích các tổ chức, đơn vị kinh tế và người
lao động ở mọi thành phần kinh tế tự giải quyết việc làm và tạo việc làm mới.
Người lao động được tự do hành nghề, lập hội nghề nghiệp, liên doanh, liên kết,
hợp tác và tự do thuê mướn lao động trên cơ sở pháp luật và sự hướng dẫn của N hà
nước. Nhà nước bảo vệ và khuyến khích các chủ doanh nghiệp, kể cả các chủ tư nhân,
gia đình và mọi người làm giàu chính đáng, tạo được nhiều chỗ làm việc mới và thu
hút được nhiều lao động.
Phát huy mọi nguồn tiềm năng trong nước, khai thác đến mức tối đa tiềm năng
trong dân (vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm làm ăn...), đồng thời tranh thủ và sử dụng có
hiệu quả các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các chương trình và dự án việc làm có
56
mục tiêu.
Giải quyết việc làm phải gắn với quy hoạch tổng thể, phát triển kinh tế - xã hội
và đồng thời phải căn cứ vào hai chỉ tiêu chủ yếu là hiệu quả kinh tế và chỗ làm mới
để lựa chọn các dự án phát triển kinh tế.
Giải quyết việc làm phải gắn liền với việc không ngừng nâng cao chât lượng lao
động, do đó phải xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng
yêu cầu trong từng lĩnh vực việc làm nói riêng và yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐ H
đất nước nói chung.
Về phương hướng:
Phương hướng cơ bản là gắn việc giải quyết việc làm với nhiệm vụ thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế, gắn
lao động với đất đai và tài nguyên của đất nước; kết hợp giữa giải quyết việc làm tại
chỗ là chính với mở rộng hoạt động để phát triển việc làm ngoài nước.
Tổ chức đào tạo, đào tạo lại và phổ cập nghề cho lao động xã hội để họ tự tìm
việc làm, tự hành nghề.
Hướng trọng điểm giải quyết việc làm là khuyến khích, thu hút các lực lượng lao
động, kể cả lao động "chất xám", nhằm khai thác tiềm năng kinh tế của 10 triệu ha đất
rừng đất đồi, đất ven biển, vào việc định canh, định cư đồng bào dân tộc ít người để ổn
định đời sống, phát triển sản xuất hàng hoá và chống nạn phá rừng; đồng thời cần tổ
chức việc làm cho lao động dôi thừa trong khu vực Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, học
sinh đã tốt nghiệp các trường lớp đào tạo, thanh niên đến tuổi lao động, người đi lao
động ở nước ngoài về vào việc phát triển sản xuất, chế biến các mặt hàng xuất khẩu,
mở rộng các hoạt động dịch vụ cho sản xuất và đời sống ở thành thị, vùng đồng bằng
đông dân.
Tập trung thực hiện các chương trình quốc gia về việc làm trong kế hoạch 5 năm
2011- 2015. Chương trình được thực hiện ở vùng đồng bằng đông dân ít đất (đặc biệt
là đồng bằng Sông Hồng) chủ yếu là phát triển kinh tế hộ gia đình, thu hút lao động
vào thâm canh, nâng hệ số sử dụng đất lên trên 2 vòng năm, tận dụng các mảnh đất
trũng, đất sình lầy, gò đồi cải tạo thành đất nông nghiệp để tạo thêm việc làm tại chỗ,
57
phát triển chăn nuôi (nhất là chăn nuôi cho xuất khẩu), phát triển ngành nghề ở nông
thôn, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ sinh học để nuôi trồng
đặc sản xuất khẩu có giá trị cao.
Chương trình tổng thể giải quyết việc làm ở thành thị, đặc biệt là ở các thành phố
lớn, các KCN tập trung. Thực hiện chương trình đào tạo, đào tạo lại và dạy nghề gắn
với dịch vụ việc làm (giới thiệu, tư vấn, cung ứng lao động...) thông qua các dự án
phát triển các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm, trung tâm áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ ở một số địa phương và thành phố lớn, ở các tổ
chức xã hội (Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân...).
Chương trình xúc tiến việc làm phát triển công nghệ và dịch vụ theo các dự án
nhỏ linh hoạt ở các thành phố, thị xã, thị trấn, trước hết là thành phố Hà Nội và thành
phố Hồ Chí minh; khôi phục và phát triển nghề cổ truyền.
Chương trình phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn, nhất là ở địa bàn có điều
kiện lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, phát triển các công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, các dự án thu hút vốn đầu tư của nước ngoài để tạo việc
làm trong nước thông qua gia công xuất khẩu, liên doanh, các dự án viện trợ cho mục
đích phát triển và gắn với việc làm.
Các biện pháp tổng thể :
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu giải quyết việc làm trong tình hình hội nhập kinh
tế quốc tế, cần thực hiện tốt các biện pháp chủ yếu sau:
Một là: Hoàn thiện thể chế thị trường lao động theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; nghiên cứu, xây dựng và ban hành các văn bản, cơ chế, chính sách theo hướng
tiếp cận với chuẩn mực chung của quốc tế về lao động, việc làm và thị trường lao
động, phù hợp các thông lệ và cam kết quốc tế của Việt Nam trong hội nhập; đẩy
mạnh cải cách hành chính theo hướng minh bạch, công khai và đơn giản; tăng cường
phân cấp, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương nhằm tạo hành lang pháp
lý cho hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm.
Hai là: Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế
cho đầu tư phát triển, nhất là những vùng, ngành, lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều
lao động như: các vùng kinh tế động lực, trọng điểm ở 3 miền, khu vực dân doanh,
58
trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; kinh tế trang trại, hợp tác xã, làng nghề, xã
nghề tiểu thủ công nghiệp ...; khu vực dịch vụ, nhất là các dịch vụ thu hút nhiều lao
động kết hợp khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất nước và con người Việt Nam.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa -
hiện đại hóa để tạo thêm nhiều việc làm tại chỗ, góp phần giảm bớt áp lực về lao động
ra các thành phố làm việc.
Ba là: Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước trong giải quyết việc làm và phát
triển thị trường lao động thông qua việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm đến năm 2010, thực hiện lồng ghép có hiệu quả Chương trình với các chương
trình mục tiêu quốc gia khác (về giáo dục - đào tạo, về giảm nghèo...) và các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trên địa bàn cấp tỉnh, thành phố. Quan tâm
công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, coi đây là một
trong những giải pháp góp phần tạo việc làm cho người lao động.
Bốn là: Hoàn thiện và phát triển thị trường lao động, góp phần vào việc hình
thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, tập
trung vào các nội dung như: xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao
động nhằm phổ biến rộng rãi cho mọi đối tượng có nhu cầu; phát triển đồng bộ hệ
thống giao dịch trên thị trường theo hướng quy hoạch tổng thể hệ thống trung tâm giới
thiệu việc làm và các cơ sở giới thiệu việc làm, đầu tư nâng cao năng lực các trung
tâm, xây dựng 3 trung tâm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm đạt tiêu chuẩn, đa dạng hóa các
"kênh" giao dịch trên thị trường lao động; tổ chức thường xuyên, định kỳ các sàn giao
dịch việc làm để có thể kết nối hoạt động giao dịch trên phạm vi toàn quốc.
Năm là: Nâng cao chất lượng nguồn lao động cả về trình độ học vấn và trình độ
chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng tay nghề; thực hiện liên thông giữa các cấp trình độ;
giáo dục - đào tạo theo định hướng gắn với cầu lao động, đồng thời, nâng cao hiểu biết
về pháp luật, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp và nâng cao thể lực đảm bảo cung
cấp đội ngũ lao động có chất lượng cả về thể lực và trí lực, đáp ứng yêu cầu của nền
sản xuất công nghiệp. Đây là một quá trình lâu dài với nhiều cơ chế, chính sách thích
hợp, đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành và phải thực hiện ngay từ bậc
59
học phổ thông.
Sáu là: Hoàn thiện và phát triển hệ thống an sinh xã hội. Hội nhập kinh tế, Việt
Nam phải mở cửa thị trường, thực hiện theo các quy luật của thị trường, kèm theo đó
là chúng ta sẽ đối mặt với những tác động tiêu cực từ thị trường, nhất là trong vấn đề
xã hội. Vì vậy, hệ thống an sinh xã hội là một công cụ quan trọng để góp phần ngăn
ngừa và hạn chế những tiêu cực này. Trong thời gian tới, hệ thống an sinh xã hội cần
tập trung vào các chính sách đối với lao động nông thôn bị mất việc làm, thiếu việc
làm do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, đối với lao động dôi dư và các chính
sách về bảo hiểm xã hội, đặc biệt là bảo hiểm thất nghiệp, ... tạo cơ hội cho mọi đối
tượng đều được hưởng thành quả từ hội nhập, thực hiện mục tiêu phát triển vì con
người của Đ ảng ta.
3.2.2 Các biện pháp cụ thể nhằm giải quyết việc làm cho người dân xã Đông
Phương Yên – Chương Mỹ - Hà Nội
Đối với xã Đông Phương Yên có nhiều điều kiện thuận lợi trong giải quyết và ổn
định việc làm cho người dân như: điều kiện vị trí địa lý, cơ sở vật chất, những chính
sách ưu đãi, tiềm năng lao động của người dân...Trong đó những nguồn lực trong cộng
đồng giữ vai trò then chốt, là lực lượng quan trọng giúp người dân tiếp cận thông tin,
phát huy thế mạnh trong tìm kiếm và ổn định việc làm. Đông Phương Yên cũng là một
xã có truyền thống nghề MTĐ lâu đời vì vậy các giải pháp về việc làm cũng cần gắn
liền với việc khôi phục, quy hoạch và phát triển làng nghề, đó mới là sự phát triển lâu
dài và bền vững.
3.2.2.1 Phát huy nội lực của bản thân người dân lao động xã Đông Phương
Yên
Để có thể ổn định được việc làm thì phụ thuộc rất nhiều vào chính bản thân
người lao động, họ cần ý thức được rằng họ mới chính là chủ thể trong giải quyết việc
làm cho chính mình. Họ là những người lao động có sức khỏe, sức trẻ, có trình độ học
vấn chung, có tinh thần sáng tạo... Vì vậy khi đưa ra các phương án để giải quyết và ổn
định việc làm thì cần phát huy tối đa những điểm mạnh này.
Đối với người lao động nông nghiệp:
Trong lao động nông nghiệp do nhiều yếu tố như thiếu vốn, sản xuất không đúng
60
kỹ thuật, diễn biến phức tạp của thời tiết nên cây lúa và các loại cây màu năng suất,
chất lượng không cao. Hơn nữa hiện nay diện tích đất nông nghiệp đang dần thu hẹp,
sản lượng thu được chỉ vừa đủ đáp ứng nhu cầu của gia đình, hầu như không có hoặc
có rất ít thu nhập từ làm nông. Vì vậy người dân cần tích cực tham gia vào các lớp
khuyến nông, tập huấn nâng cao kỹ thuật sản xuất các giống lúa mới, thâm canh, tăng
vụ. Tìm hiểu thêm các chính sách hỗ trợ cụ thể cho nông nghiệp như: chính sách hỗ trợ
vốn của Hội nông dân, Hội phụ nữ để đầu tư cho sản xuất nông nghiệp một cách hiệu
quả. Ngoài trồng lúa và cây màu người dân cũng có thể áp dụng một số mô hình chăn
nuôi gia súc, gia cầm để nâng cao thu nhập. Hiện trong xã có mô hình chăn nuôi vịt
siêu trứng của gia đình anh Giảng với gần 1000 con vịt đẻ trứng mỗi ngày, hay mô
hình chăn nuôi nuôi lợn nái của gia đình cô Hòa. Đây là những mô hình chăn nuôi đem
lại hiệu quả kinh tế cao và cần nhân rộng tại địa phương.
Đối với thợ thủ công làm nghề M TĐ:
Trong hoạt động sản xuất MTĐ những nghệ nhân, những thợ lành nghề và người
dân cần chú ý đến một số vấn đề như :
Khơi dậy truyền thống và lòng yêu nghề của nhân dân trong xã, giữ gìn bản sắc
văn hoá nghề nghiệp như : Tổ chức các cuộc thi tài nghệ, để nghị UBND Xã, Huyện
có hình thức khen thưởng động viên các cơ sở sản xuất hiệu quả, các nghệ nhân tài ba.
Tổ chức hoạt động giao lưu văn hoá giữa các thôn đã được đón danh hiệu làng nghề
M TĐ, trao đổi kinh nghiệm phát triển nghề, hằng năm tổ chức lễ kỉ niệm đón nhận
danh hiệu hình thành những thuần phong mỹ tục ở làng nghề M TĐ.
Ngoài ra người dân cần chú ý học tập, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề. Lao động
làm việc trong nghề M TĐ hiện nay chủ yếu là cách truyền nghề trực tiếp của bố mẹ,
anh chị em và người lớn tuổi, do đó khả năng sáng tạo chưa cao. Để làng nghề MTĐ
phát triển hơn nữa, lao động trong nghề cần phải được đào tạo về kỹ thuật, luôn luôn
học hỏi rèn luyện để nâng cao tay nghề, tạo ra những sản phẩm chất lượng và uy tín.
Các cán bộ quản lí cũng cần được bồi dưỡng, nâng cao trình độ để đáp ứng yêu
cầu phát triển làng nghề. Tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi, truyền dạy kinh nghiệm
của các nghệ nhân giỏi để các thế hệ sau học hỏi và tiếp thu. Họ không chỉ truyền dạy
61
những kinh nghiệm trong nghề mà còn truyền dạy cả lòng nhiệt huyết, những gì là tinh
hoa nhất của nghề MTĐ, để cho thế hệ sau hiểu được giá trị của nghề và phát huy
chúng theo cách riêng của mình.
Đối với người làm công nhân:
Trước khi vào làm việc cần tìm hiểu rõ về tính chất, đặc điểm và yêu cầu của
công việc, về những nội quy, quy định của các CT, DN xem có phù hợp với thời gian,
sức khỏe và khả năng của mình hay không, từ đó mới quyết định nộp hồ sơ đi làm và
có sự yêu thích và gắn bó với công việc. Cần phải xem xét kỹ những điều khoản trong
hợp đồng lao động để tránh vi phạm trong khi làm việc và đảm bảo được quyền lợi của
bản thân. Trong khi làm việc cần có tinh thần hợp tác, tích cực, luôn nắm bắt cơ hội
nâng cao tay nghề và phát triển trong công việc.
Đối với tiểu thương:
Sau khi sáp nhập vào Hà Nội hoạt động buôn bán, kinh doanh, dịch vụ ở địa
phương cũng đang phát triển hết sức nhanh chóng như: mở các đại lý, tạp hóa, quán
ăn, dịch vụ vui chơi giải trí, du lịch...Những người làm trong lĩnh vực này để hoạt
động kinh doanh của mình ổn định và có thu nhập cao cần chú ý một số vấn đề như:
tìm hiểu trước về lĩnh vực kinh doanh sau đó lên kế hoạch kinh doanh cụ thể, tính toán
đến các rủi ro để có phương án dự phòng, chuẩn bị đầy đủ về nguồn vốn đầu tư.
Những người mở các dịch vụ như: cafe giải khát, karaoke, chăm sóc sắc đẹp,
internet...cần tìm hiểu trước nhu cầu của người dân, chọn địa điểm kinh doanh thuận
lợi...Chú ý đến chất lượng sản phẩm, thái độ phục vụ và chăm sóc khách hàng...Chuẩn
bị vốn để quay vòng đầu tư, mở rộng kinh doanh.
3.2.2.2. Trách nhiệm của chính quyền địa phương, vai trò của các tổ chức
đoàn thể, câu lạc bộ trên địa bàn xã Đông Phương Yên
Chính quyền địa phương cần có sự khảo sát lại một cách toàn diện tình hình đời
sống của người dân, đặc biệt là trong vấn đề việc làm. Từ đó đánh giá chính xác hơn
đời sống và thực trạng việc làm của người dân, đề ra và thực hiện các giải pháp giải
quyết và ổn định việc làm một cách triệt để.
Chính quyền cần quy hoạch tổng thể làng nghề MTĐ. Sản xuất công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp nói chung và làng nghề nói riêng là một bộ phận quan trọng trong
62
cơ cấu kinh tế. Do vậy, phát triển làng nghề phải được quy hoạch tổng thể và gắn với
kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của địa
phương. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể làng nghề, cần xây dựng quy hoạch chi tiết
từng khu dân cư, khu sản xuất, giao thông, điện nước…Các cơ quan có chức năng như:
Sở công nghiệp, phòng Công nghiệp phối hợp với các ngành Xây Dựng, Địa Chính,
Giao thông, Thương mại, Du lịch … và chính quyền xã phát triển làng nghề theo định
hướng phát triển kinh tế của xã, huyện, thực hiện các mục tiêu của UBND Thành phố
Hà Nội.
UBND Xã kết hợp với Ban văn hoá – thông tin giúp các làng nghề xây dựng làng
văn hoá. Đầu tư các dự án phát triển làng nghề, đưa các dự án vào kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội hàng năm của địa phương…từ đó tạo điều kiện cho làng nghề MTĐ
ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Cần xây dựng các điểm sinh hoạt văn hoá liên
quan đến nghề, xây dựng nhà thờ tổ, câu lạc bộ làng nghề, văn phòng giao dịch…để
giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa người dân trong một làng nghề và giữa các làng
nghề với nhau.
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: UBND Xã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho
làng nghề M TĐ tiếp cận, tìm kiếm, khai thác, mở rộng thị trường trong nước và ngoài
nước, tạo cơ hội giao lưu buôn bán. Ban dân vận Xã và các ngành có liên quan phối
hợp hướng dẫn thành lập Hiệp hội làng nghề góp phần làm tăng sức mạnh, tăng sức
cạnh tranh trên thị trường trong sản xuất kinh doanh cũng như tiêu thụ sản phẩm. Có
như vậy mới tập hợp được sức mạnh về vốn, trí tuệ và kinh nghiệm của Chính quyền
địa phương, của các CT, DN và của toàn thể nhân dân trong nghề M TĐ.
Tổ chức kiểm tra, giám sát các hoạt động buôn bán sản phẩm M TĐ cần kiên quyết
chống buôn lậu, gian lận trong buôn bán và tiêu thụ sản phẩm M TĐ.
Về nguyên liệu cho quá trình sản xuất: quy hoạch các vùng nguyên liệu tập
trung từ việc trồng rừng mây, tre, giang tới việc khai thác, buôn bán các khu chợ. Căn
cứ vào tình hình phát triển kinh tế – xã hội của Xã trong từng sản xuất.
Việc khai thác mây, tre, giang, nứa cần phải được quản lí chặt chẽ, khai thác hợp lí và
gắn liền với trồng tái sinh, đảm bảo nguồn nguyên giai đoạn cần hình thành các dịch
vụ khai thác, cung cấp nguyên liệu, đảm bảo ổn định cho liệu có thể khai thác lâu dài.
63
Chính quyền Xã đề nghị lên huyện, tỉnh sớm có chủ trương bảo hiểm, trợ giá đối với
một số loại cây trồng, nguyên liệu như mây, tre, nứa… cung cấp nguyên liệu ổn định
cho quá trình sản xuất hàng xuất khẩu.
Về nguồn vốn đầu tư: Quỹ tín dụng nhân dân, Hội nông dân trong xã, Ngân hàng
phục vụ người nghèo, Hội phụ nữ, các tổ chức xã hội trên địa bàn có vốn cho vay cần
ưu tiên cho các hộ, các CT, DN trong làng nghề muốn mở rộng sản xuất được vay vốn
với lãi suất thấp.
Ngoài ra Chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cũng cần chú ý
thêm một số vấn đề như: thực hiện tuyển chọn và công nhận các nghệ nhân và các thợ
tài hoa để có chính sách bồi dưỡng, sử dụng phù hợp với điều kiện của địa p hương. Tổ
chức cho đi tham quan nước ngoài, tham gia triển lãm, giới thiệu sản phẩm đối với cán
bộ và người lao động có nhiều công lao xây dựng và phát triển làng nghề.
Sau khi địa phương sáp nhập vào Hà Nội nhiều cơ hội việc làm mới được mở ra
nhưng người dân chưa tiếp cận được với các việc làm do thiếu thông tin, vì vậy chính
quyền cũng có thể cho xây dựng trung tâm giới thiệu việc làm để các nhà tuyển dụng
thuận lợi trong việc tuyển người, còn người dân thì có thể chọn được công việc phù
hợp với bản thân. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các chính
sách khuyến khích phát triển sản xuất của Nhà nước, của Huyện, Thành phố để mọi
người yên tâm bỏ vốn đầu tư sản xuất làm giàu cho mình và góp phần làm giàu cho xã
hội.
Đoàn thanh niên phối hợp với các trung tâm dạy nghề, các CT, DN trên địa bàn
xã kịp thời định hướng cho những đối tượng học sinh nghỉ học sớm hoặc lớp thanh
niên đã tốt nghiệp THPT đi học nghề, giúp họ nắm bắt thông tin việc làm, định hướng,
hỗ trợ, tạo điều kiện cho họ có việc làm phù hợp với tay nghề, từng bước ổn định cuộc
sống.
3.2.2.3 Nâng cao vai trò của các CT, DN trên địa bàn xã Đông Phương Yên
Các CT, DN trên địa bàn xã thì hầu hết đều là sản xuất hàng MTĐ xuất khẩu.
Những CT, DN đã góp phần rất lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều lao động. Tuy nhiên để cơ sở của
mình ngày càng lớn mạnh và giúp giải quyết, ổn định việc làm cho người dân thì các
64
CT, DN cần chú ý một số giải pháp như sau:
Các CT, DN cần giảm bớt một số thủ tục không cần thiết khi tuyển dụng, thực
hiện bình đẳng đối với cả nam và nữ trong tuyển dụng. Cần có kế hoạch đào tạo nâng
cao tay nghề cho người lao động, quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của công
nhân.
Đối với các CT, DN M TĐ cần tổ chức giới thiệu, quảng bá sản phẩm MTĐ. Tổ
chức hội chợ triển lãm các sản phẩm MTĐ hàng năm, đề nghị lên UBND Huyện,
Thành Phố dành một khoản ngân sách cho lĩnh vực này. UBND Xã dành vị trí thuận
tiện để tổ chức các trung tâm, cửa hàng để giới thiệu sản phẩm. Tổ chức quảng cáo,
tiếp thị, thông tin dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm, chống ép giá đối với sản phẩm
làng nghề M TĐ. Các CT, DN có thể liên kết với nhau để Thành lập hiệp hội làng
nghề, đảm bảo đầu vào, thị trường tiêu thụ, giá thành sản phẩm, xây dựng thương hiệu
riêng trên thị trường để sản phẩm MTĐ có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong
65
và ngoài nước.
.
Hình 3.2 Một số sản phẩm của làng nghề MTĐ xã Đông Phương Yên
Các CT, DN cần đối mới công nghệ thiết bị và bảo vệ môi trường, đầu tư ngân
quỹ của mình cho việc mua sắm các thiết bị, máy móc phục vụ cho quá trình sản xuất,
kết hợp công nghệ tiên tiến và phương pháp cổ truyền nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm. Thường xuyên cập nhật thông tin chuyển giao công nghệ, kỹ thuật. Hàng năm
có kế hoạch đầu tư nghiên cứu ứng dụng, trang bị kỹ thuật, nghiên cứu thiết kế chế
tạo, cải tiến các mẫu mã MTĐ ngày càng phong phú, tinh xảo đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao của người tiêu dùng. Đầu tư các thiết bị và hệ thống xử lý chất thải,
thuốc nhuộm, hóa chất…một cách an toàn, giảm gây ô nhiễm môi trường từ sản xuất.
Một vấn đề rất quan trọng đó là các CT, DN trên địa bàn xã cần quan tâm đến
người lao động. Có chính sách lương, thưởng hợp lý. Tăng lương cho những lao động
lâu năm, những người có tay nghề cao, những người có năng suất lao động tốt nhằm
khuyến khích họ làm việc hăng say, hiệu quả và gắn bó với cơ sở. Có hợp đồng lao
động, đóng đầy đủ BHYT cho lao động trong xưởng.
Chú ý đến an toàn lao động của người lao động, mua sắm đầy đủ các vật dụng,
quần áo bảo hộ cho những lao động làm việc trong môi trường độc hại như sơn, tẩy
hóa chất, thuốc nhuộm…tránh gây ảnh hưởng tới sức khỏe.
Nhìn chung trong giai đoạn hiện nay quá trình ĐTH nông thôn diễn ra mạnh mẽ
ở những vùng ven những đô thị lớn như Hà Nội, kéo theo đó là hàng loạt các vấn đề về
chuyển dịch cơ cấu việc làm, thu hẹp đất nông nghiệp, tình trạng thất nghiệp…ngày
càng gia tăng. Một trong những phương án hiệu quả để giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn trong quá trình ĐTH đó là việc đưa ra chính sách khuyến khích nhằm
66
khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. Vì vậy cần tăng cường sự quản lí
của nhà nước đối với làng nghề. Chính quyền từ huyện đến xã cần tạo điều kiện để
người lao động được làm chủ hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật. Tạo điều
kiện về mặt bằng sản xuất, vay vốn thủ tục hành chính, thông tin kinh tế kỹ thuật, đào
tạo, chính sách xã hội. Quy định rõ chế độ thanh tra, kiểm tra của các cơ quan Nhà
nước đối với các cơ sở sản xuất làng nghề ngăn chặn tình trạng các thủ tục rườm rà
gây khó khăn cho sự phát triển làng nghề. Các nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ hằng năm của
Nhà nước cho vấn đề việc làm, phát triển làng nghề cần được sử dụng một cách triệt
để, hợp lí, tránh việc lãng phí, tham những, cắt xén nguồn ngân quỹ dành cho các dự
án này.
3.2.2.4 Tăng cường đội ngũ cộng tác viên và nhân viên công tác xã hội
Nhân viên công tác xã hội là người trung gian, giữ vai trò quan trọng trong việc
tạo mối liên kết giữa người lao động nông thôn với các tổ chức đoàn thể và các CT,
DN đóng trên địa bàn, giúp họ tiếp cận với các thông tin về việc làm, phát huy năng
lực của mình để tìm được việc làm phù hợp.
Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng
và Nhà nước về lĩnh vực lao động – việc làm đến tất cả người dân, giúp họ hiểu được
quyền và nghĩa vụ của mình trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là
trong lĩnh vực việc làm.
Phối hợp với Hội nông dân, Hội phụ nữ mở các lớp tập huấn khuyến nông, vận
động người dân tích cực tham gia để học hỏi kiến thức, kỹ năng trong chăn nuôi, trồng
trọt, từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất.
Nhân viên công tác xã hội cần phối hợp, tham gia trong các câu lạc bộ nghề
M TĐ ở địa phương, tổ chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa những nghệ nhân
trong làng nghề đối với thế hệ trẻ, phát huy truyền thống và lòng yêu nghề. Tham gia
làm cộng tác viên hoặc nhân viên trong các trung tâm giới thiệu việc làm để tư vấn,
định hướng nghề nghiệp cho người dân, đặc biệt là cho lớp thanh niên trẻ tiếp cận với
67
các cơ hội việc làm phù hợp với sở thích và năng lực của bản thân.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Quá trình ĐTH đang diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn huyện Chương Mỹ nói chung
và trên Xã Đông Phương Yên nói riêng. Quá trình này đã đem lại sự phát triển về cơ
sở hạ tầng, y tế, giáo dục… đặc biệt là những chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu việc làm
của người dân nơi đây. Đó là việc chuyển từ làng nghề thủ công truyền thống sang
buôn bán, kinh doanh dịch vụ và làm công nhân. Nếu như trước đây hầu hết người dân
trong xã đều là thợ thủ công sản xuất hàng MTĐ thì nay chỉ còn lại khoảng 17% người
còn theo nghề, số lao động trong nông nghiệp cũng giảm đi do diện tích đất sản xuất bị
thu hẹp, thay vào đó số người làm công nhân đã tăng lên đến 34.5%, ngoài ra hoạt
động buôn bán, dịch vụ cũng đang rất phát triển.
Cùng với sự thay đổi về cơ cấu việc làm thì thu nhập của người dân cũng tăng
lên, 51% người có thu nhập từ 2 đến 3 triệu/tháng, đây là một mức thu nhập khá cao
đối với người lao động nông thôn. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay giá cả thị trường
nhiều biến động, giá xăng, giá điện tăng kéo theo sự tăng giá của hàng loạt các mặt
hàng và các loại thực phẩm nên với mức thu nhập như vậy thì người dân phải “dè dặt”
mới đủ chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày. Hơn nữa mức thu nhập này không ổn định
hàng tháng mà phụ thuộc nhiều vào thời gian làm việc trong ngày của người lao động.
Họ phải làm việc trung bình 10 đến 12h/ ngày, đây là khoảng thời gian vượt xa thời
gian quy định của người lao động. Thời gian làm việc quá dài cũng gây ảnh hưởng tới
68
một số vấn đề khác trong cuộc sống của người dân như việc chăm sóc con cái không
được quan tâm, không có thời gian nghỉ ngơi nên ảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng
công việc cũng không đảm bảo. Đa số công việc của người dân đang làm đều mang
tính chất không ổn định, ngoài ra trên địa bàn xã đã bắt đầu xuất hiện tỉ lệ người thất
nghiệp do không tìm được công việc phù hợp với khả năng và nhu cầu của mình.
Nhìn chung thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên sau khi sáp
nhập Hà Nội có nhiều biến đổi mạnh mẽ. Có những chuyển biến tích cực song bên
cạnh đó còn tồn tại những hạn chế. Đông Phương Yên có truyền thống lâu đời về làm
hàng MTĐ xuất khẩu. Sau khi địa phương sáp nhập vào Hà Nội nhiều CT, DN MTĐ
được thành lập, đây là một bước phát triển mới song bên cạnh đó nguy cơ mai một
làng nghề là rất lớn vì hầu hết người dân không còn gắn bó, tha thiết với nghề. Việc
quy hoạch tổng thể nhằm duy trì và phát triển làng nghề truyền thống là một trong
những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết việc làm ở nông thôn một cách bền vững.
Ngoài ra địa phương cũng có nhiều tiềm năng trong việc giải quyết và ổn định việc
làm cho người dân, đó là tiềm năng về con người như lực lượng lao động lớn, có tay
nghề, sự cần cù và tinh thần sáng tạo trong công việc…những điều kiện thuận lợi về vị
trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, sự phát triển của cơ sở hạ tầng…Phát huy tối đa
những tiềm năng và thế mạnh này trong cộng đồng sẽ giúp người dân ổn định việc làm
và tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên để làm được điều này thì
cần phải có sự kết hợp đồng bộ của các ngành, các cấp chính quyền và các đoàn thể tại
69
địa phương cùng với sự nỗ lực, hợp tác tích cực từ phía toàn thể người dân.