JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Educational Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 4, pp. 91-99<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0061<br />
<br />
TÍCH HỢP KIẾN THỨC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC HÀNH KĨ NĂNG NGHỀ<br />
TRONG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KĨ THUẬT TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM<br />
KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THEO MÔ HÌNH TPACK<br />
Bùi Văn Hồng<br />
<br />
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh<br />
Tóm tắt. Năng lực dạy học của Giáo viên Kĩ thuật (GVKT) được hình thành và phát triển<br />
ngay trong quá trình dạy học (QTDH), đặc biệt là khả năng Chuyên môn Kĩ thuật, Kĩ năng<br />
thực hành nghề và ứng dụng sự tiến bộ của Công nghệ trong đổi mới phương pháp dạy học<br />
(PPDH). Giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo các ngành Sư phạm Kĩ thuật (SPKT) tại<br />
trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSPKT TP. HCM) là xây dựng<br />
chương trình đào tạo theo mô hình nối tiếp, tăng cường cơ sở hạ tầng mạng internet cho<br />
việc đổi mới PPDH theo định hướng Blended Learning, thành lập Trung tâm Bồi dưỡng và<br />
đánh giá Kĩ năng nghề. Việc tích hợp kiến thức công nghệ và Kĩ năng thực hành nghề vào<br />
chương trình đào tạo GVKT giúp sinh viên rèn luyện kĩ năng ứng dụng Công nghệ trong<br />
dạy học, phát triển Kĩ năng thực hành, từ đó, nâng cao năng lực dạy học chuyên ngành kĩ<br />
thuật.<br />
Từ khóa: Giáo viên kĩ thuật; Tích hợp trong dạy học; TPACK; Kĩ năng thực hành nghề.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Khoa học – Kĩ thuật, các sản phẩm công nghệ cao<br />
ngày càng được ứng dụng phổ biến trong sinh hoạt, trong sản xuất công nghiệp và trong giáo dục.<br />
Điều này đã làm thay đổi lớn nhu cầu học tập (NCHT) của người học cả về nội dung chuyên môn,<br />
phương pháp, lẫn hình thức học tập. Do đó, bên cạnh những yếu tố cơ bản của QTDH cần được<br />
thay đổi, thì người dạy với vai trò là chủ thể của quá trình này cũng cần phải nâng cao năng lực dạy<br />
học đáp ứng NCHT đa dạng của người học. Giáo dục Kĩ thuật là lĩnh vực có kiến thức gắn liền với<br />
công nghệ và tác động qua lại trực tiếp với công nghệ, nên NCHT của người học có những thay<br />
đổi rất nhanh và đa dạng. Vì vậy, GVKT không những giỏi về Chuyên môn Kĩ thuật, Nghiệp vụ<br />
SPKT, mà còn là chuyên gia trong lĩnh vực Công nghệ, ứng dụng Công nghệ trong dạy học và Kĩ<br />
năng thực hành nghề. Tuy nhiên, thực tế dạy học hiện nay cho thấy, phần lớn các chương trình đào<br />
tạo GVKT chủ yếu trang bị kiến thức, kĩ năng kĩ thuật và nghiệp vụ sư phạm, mà chưa chú trọng<br />
đến kiến thức Công nghệ, Kĩ năng sử dụng Công nghệ trong dạy học và Kĩ năng thực hành nghề.<br />
Do đó, đa số GVKT ở nước ta hiện nay gặp nhiều khó khăn đối với việc ứng dụng Công nghệ mới<br />
trong dạy học và tổ chức dạy học Thực hành kĩ năng nghề. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết<br />
quả học tập của người học. Vì vậy, việc nghiên cứu tích hợp kiến thức Công nghệ và Thực hành Kĩ<br />
Ngày nhận bài: 12/2/2017. Ngày nhận đăng: 20/4/2017.<br />
Liên hệ: Bùi Văn Hồng, e-mail: bvhonglg@yahoo.com<br />
<br />
91<br />
<br />
Bùi Văn Hồng<br />
<br />
năng nghề trong chương trình đào tạo GVKT tại trường ĐHSPKT TP. HCM là cần thiết trong giai<br />
đoạn hiện nay ở nước ta.<br />
Tại một số nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới như Mỹ, Đức, Úc, Phần Lan việc<br />
tích hợp kiến thức công nghệ vào chương trình đào tạo và huấn luyện GVKT là rất triệt để và hiệu<br />
quả. Các kiến thức kĩ thuật có tính ứng dụng đều được mô tả thông qua các sản phẩm Công nghệ<br />
hoặc được mô phỏng quy trình công nghệ sản suất bằng các phần mền máy tính chuyên ngành.<br />
Phần lớn các kiến thức và kĩ năng sư phạm đều được triển khai dưới sự hỗ trợ của các thiết bị công<br />
nghệ cao, kết hợp với mạng internet hoặc phần mềm dạy học. Trong hầu hết các buổi học, việc<br />
tương tác giữa người học với người học, và giữa người học với người dạy luôn có sự kết hợp giữa<br />
tương tác giác mặt với tương tác không giáp mặt thông qua môi trường mạng internet [1, 2, 3]. Ở<br />
nước ta trong những năm gần đây, việc nghiên cứu ứng dụng Công nghệ trong dạy học đã được<br />
phát triển rất nhanh. Nhiều công trình nghiên cứu và sản phẩm ứng dụng Công nghệ dạy học đã<br />
góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học. Năm 2013, Bùi Văn Hồng<br />
và Nguyễn Thị Lưỡng đã nghiên cứu phát triển phương tiện dạy học (PTHD) môn Điện tử cơ bản<br />
theo hướng tích hợp giữa PTDH vật lí với PTDH ảo dựa trên mô hình tích hợp TPACK [4]. Kết<br />
quả cho thấy, PTDH tích hợp có vai trò như một giảng viên trợ giảng, vừa làm nhiệm vụ truyền<br />
tải và cung cấp nội dung học tập, vừa làm nhiệm vụ hướng dẫn sinh viên trong học tập. Ngoài<br />
ra, PTDH tích hợp còn có vai trò hỗ trợ và định hướng giảng viên trong việc sử dụng linh hoạt<br />
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ mới dừng lại ở việc tích<br />
hợp Công nghệ trong PTDH, chưa đề cập đến việc tích hợp Công nghệ đối với các yếu tố còn lại<br />
của quá trình dạy học (QTDH). Về vấn đề tích hợp kiến thức Công nghệ vào chương trình đào tạo<br />
GVKT, Bùi Văn Hồng (2013) đã đề xuất quy trình và giải pháp cho việc tích hợp này. Theo tác giả,<br />
để đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người học, kiến thức Công nghệ được tích hợp vào trong<br />
tất cả các yếu tố của QTDH. Từ việc điều chỉnh mục tiêu dạy học theo hướng tích hợp đến nội<br />
dung dạy học, PPDH, phương tiện dạy học và kiểm tra đánh giá. Giải pháp để thực hiện quy trình<br />
tích hợp này là các cơ sở đào tạo cần phải hiện đại hóa cơ sở hạ tầng mạng và thiết bị công nghệ,<br />
tăng tính chủ động của giảng viên trong QTDH [5]. Kết quả nghiên cứu này giúp giảng viên có<br />
thêm cơ sở khoa học cho việc ứng dụng Công nghệ trong QTDH, linh hoạt trong sử dụng PPDH<br />
và rèn luyện ứng dụng Cộng nghệ trong dạy học cho sinh viên. Tuy nhiên, quy trình và giải pháp<br />
được tác giả đề xuất trong nghiên cứu này chỉ là định hướng về lí luận, chưa có những vận dụng<br />
cụ thể vào trong quá trình dạy học. Năm 2016, trên cơ sở đánh giá những thành công của trường<br />
ĐHSPKT TP. HCM về việc ứng dụng Blended Learning trong phát triển các lớp dạy học số, kết<br />
hợp với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ IoT (Internet of Things), Bùi Văn Hồng cho rằng,<br />
việc ứng dụng công nghệ IoT để phát triển mô hình dạy học số tại trường ĐHSPKT TP. HCM là<br />
phù hợp với bối cảnh hiện nay, nhằm tạo ra sự đa dạng về loại hình đào tạo, linh hoạt về phương<br />
pháp và hình thức dạy học, kiểm tra đánh giá, qua đó, đáp ứng tốt nhu cầu học tập đa dạng của<br />
sinh viên [6]. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ IoT trong dạy học là một vấn đề mới hiện nay. Nên<br />
trong nghiên cứu của mình, tác giả chỉ mới phân tích xu hướng phát triển Công nghệ và đề xuất<br />
định hướng mở rộng mô hình dạy học số ứng dụng công nghệ IoT, mà chưa đề xuất hay minh họa<br />
những ứng dụng cụ thể.<br />
Với mục đích đề cấu trúc chương trình và biện pháp thực hiện việc tích hợp kiến thức Công<br />
nghệ và Thực hành Kĩ năng nghề trong chương trình đào tạo GVKT tại trường ĐHSPKT TP. HCM,<br />
bài viết này trình bày kết quả nghiên cứu về mô hình TPACK, các yếu tố năng lực tích hợp trong<br />
chương trình đào tạo và biện pháp thực hiện.<br />
<br />
92<br />
<br />
Tích hợp kiến thức công nghệ và thực hành kĩ năng nghề trong đào tạo giáo viên kĩ thuật tại trường...<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
<br />
Để đảm báo tính khách quan và đúng đắn của kết quả nghiên cứu, bài viết sử dụng các<br />
phương pháp nghiên cứu sau:<br />
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: bài viết tiến hành phân tích các thành tố bên trong mô<br />
hình TPACK và mối quan hệ giữa chúng để xác định các năng lực thành phần và năng lực chung<br />
cần thiết của giáo viên. Bên cạnh đó, bài viết cũng phân tích sự tác động của công nghệ đến sự<br />
thay đổi NCHT của người học cả về phương pháp, hình thức và mức độ nội dung học tập. Từ đó,<br />
bài viết các định mối quan hệ giữa các thành phần năng lực đối với GVKT làm cơ sở cho việc đề<br />
xuất cấu trúc khung chương trình đào tạo và các giải pháp thực hiện chương trình đào tạo GVKT<br />
tại trường ĐHSPKT TP. HCM theo mô hình TPACK.<br />
- Phương pháp phỏng vấn sâu: tiến hành trao đổi trực tiếp với các giảng viên và nhà khoa<br />
học về các thành phần năng lực, nội dung (các học phần kiến thức, kĩ năng) và thời lượng của<br />
chương trình đào tạo để lựa chọn và điều chỉnh cấu trúc khung chương trình đào tạo phù hợp với<br />
định hướng tích hợp.<br />
- Phương pháp chuyên gia: kết quả nghiên cứu được gửi đến các giáo viên, nhà khoa học có<br />
kinh nghiệm trong lĩnh vực Giáo dục Kĩ thuật để đánh giá tính khả thi khung chương trình và giải<br />
pháp thực hiện.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Mô hình TPACK của Matthew J. Koehler<br />
<br />
TPACK (Technological Pedagogical Content Knowledge) đã được Mishra & Koehler<br />
(2006) phát triển và có cấu trúc như minh họa ở hình 1 [7]. Mô hình này là sự tích hợp có tính chất<br />
phức tạp của ba loại hình kiến thức khác nhau, bao bồm: kiến thức về nội dung (CK), kiến thức về<br />
sư phạm (PK) và kiến thức về công nghệ (TK). Do đó, TPACK có thể được hiểu như sau:<br />
TPACK là sự tích hợp kiến thức nội dung, sư phạm và công nghệ. Sự tích hợp này nhằm nói<br />
đến khả năng của giáo viên về chuyên môn, sư phạm và công nghệ trong quá trình dạy học.<br />
Từ cấu trúc của mô hình TPACK ở hình 1 cho thấy, việc tích hợp ba loại kiến thức cơ bản<br />
đứng độc lập nhau làm xuất hiện các loại kiến thức mới nằm trong các vùng giao nhau. Trong đó:<br />
(1) Tại vùng giao nhau giữa kiến thức sư phạm (PK) với kiến thức nội dung chuyên môn<br />
(CK), kiến thức nội dung sư phạm (PCK) được hình thành. Đây chính là ý tưởng về kiến thức sư<br />
phạm được sử dụng vào việc dạy học một nội dung chuyên môn cụ thể.<br />
(2) Tại vùng giao nhau giữa kiến thức công nghệ (TK) với kiến thức nội dung chuyên môn<br />
(CK), kiến thức nội dung công nghệ (TCK) được hình thành. Đây là kiến thức về mối quan hệ giữa<br />
nội dung và công nghệ. Tức là những kiến thức công nghệ được sử dụng vào việc dạy học một nội<br />
dung chuyên môn cụ thể.<br />
(3) Tại vùng giao nhau giữa kiến thức công nghệ (TK) với kiến thức sự phạm (PK), kiến<br />
thức sư phạm công nghệ được hình thành (TPK), trong đó nhấn mạnh sự tồn tại, thành phần và khả<br />
năng của các thiết bị công nghệ mới được sử dụng trong dạy học. Hay nói cách khác, đây chính là<br />
kiến thức sư phạm trong việc sử dụng công nghệ mới vào quá trình dạy học.<br />
(4) Cuối cùng, tại vùng giao nhau của ba loại hình kiến thức trên đã hình thành kiến thức<br />
nội dung công nghệ sư phạm (TPACK). Kết quả này là sự tích hợp năng lực của giáo viên trong<br />
QTDH. Thực chất của sự tích hợp này là nhấn mạnh đến khả năng hiểu biết và điều chỉnh mối<br />
quan hệ giữa ba thành phần kiến thức đó của giáo viên. Hay nói cách khác, để dạy học hiệu quả<br />
một chủ đề nào đó, đòi hỏi năng lực của giáo viên phải nằm trong vùng giao thoa giữa nội dung<br />
93<br />
<br />
Bùi Văn Hồng<br />
<br />
chuyên môn, sư phạm và công nghệ.<br />
<br />
Hình 1. Cấu trúc của mô hình TPACK [7]<br />
<br />
2.3.<br />
<br />
Nhu cầu học tập của người học dưới tác động của Công nghệ<br />
<br />
NCHT của người học là nhu cầu về nội dung, cách thức, địa điểm, không gian và thời gian<br />
học tập của một người học hoặc một nhóm người học [5].<br />
Trong dạy học Kĩ thuật, khi mục tiêu dạy học đã được xác định, nội dung học tập cần thiết<br />
của từng khóa học (môn học) đã được lựa chọn phù hợp, người học có những nhu cầu khác nhau<br />
về cách thức, phương pháp, thời gian và địa điểm học tập tùy thuộc vào điều kiện và phong cách<br />
học tập của mỗi cá nhân. Dưới sự tác động trực tiếp và sâu sắc của các thiết bị công nghệ như: máy<br />
tính, điện thoại di động thông minh (Smart phone), phần mềm hỗ trợ dạy học, các trang mạng kết<br />
nối cộng động ảo (Facebooke, Twitter, YouTube, . . . ), đặc biệt là sự ra đời của công nghệ IoT đã<br />
làm thay đổi NCHT của người học như: Từ học tập thông qua ghi nhớ, thành học tập thông qua kết<br />
hợp hiểu biết nhiều nội dung mới và thực hành thực tế; Từ học tập chính khóa trên lớp, thành học<br />
tập kết hợp giữa học trên lớp, học cá nhân, học cùng với gia đình, học cùng với bạn bè, học qua<br />
mạng internet (tham gia các lớp học số), ...<br />
Như vậy, sự phát triển của Công nghệ đã tác động trực tiếp đến NCHT của người học, đặc<br />
biệt là nhu cầu về phương pháp, hình thức và mức độ nội dung học tập.<br />
<br />
2.4.<br />
<br />
Tích hợp kiến thức Công nghệ và Thực hành Kĩ năng nghề trong chương<br />
trình đào tạo GVKT tại trường ĐHSPKT TP. HCM<br />
<br />
2.4.1. Mối quan hệ giữa các thành phần năng lực trong chương trình đào tạo GVKT<br />
Với mục tiêu đào tạo GVKT giỏi về Chuyên môn Kĩ thuật, Kĩ năng thực hành nghề và<br />
PPDH chuyên ngành, chương trình đào tạo GVKT tại trường ĐHSPKT TP. HCM được phát triển<br />
dựa trên sự tích hợp của ba khối kiến thức và năng trên (hình 2).<br />
94<br />
<br />
Tích hợp kiến thức công nghệ và thực hành kĩ năng nghề trong đào tạo giáo viên kĩ thuật tại trường...<br />
<br />
Hình 2. Mối quan hệ giữa các yếu tố năng lực trong chương trình đào tạo GVKT<br />
Trong đó:<br />
(1) Mục tiêu đào tạo: là đào tạo GVKT giỏi về Chuyên môn Kĩ thuật, Kĩ năng thực hành<br />
nghề, nghiệp vụ SPKT và Kĩ năng vận dụng Công nghệ vào dạy học. Do đó, các thành phần năng<br />
lực được tích hợp trong mục tiêu đào tạo cả các chương trình SPKT như sau:<br />
- Năng lực về Chuyên môn Kĩ thuật.<br />
- Năng lực về Thực hành Kĩ năng nghề.<br />
- Năng lực về Nghiệp vụ SPKT.<br />
- Năng lực về ứng dụng Công nghệ trong dạy học.<br />
(2) Chuyên môn Kĩ thuật: là khối kiến thức, kĩ năng giúp hình thành và phát triển năng lực<br />
Chuyên môn Kĩ thuật cho sinh viên để trở thành kĩ sư trong tương lai. Ví dụ: kĩ sư Điện – Điện tư,<br />
kĩ sư Công nghệ Ô tô, kĩ sư Công nghệ chế tạo máy,. . .<br />
(3) Thực hành Kĩ năng nghề: là những nội dung thực hành để phát triển tay nghề cho sinh<br />
viên phù hợp với từng vị trí nghề nghiệp của GVKT theo tiêu chuẩn Kĩ năng nghề quốc gia. Ví dụ:<br />
Nghề Điện công nghiệp, Nghề Lắp đặt điện và điều khiển công nghiệp, Nghề Cắt gọt kim loại,. . .<br />
(4) Sư phạm Kĩ thuật: là khối kiến thức, kĩ năng giúp hình thành và phát triển năng lực về<br />
Nghiệp vụ SPKT cho sinh viên để trở GVKT trong tương lai.<br />
(5) Bối cảnh phát triển Công nghệ: là những thành tựu của Công nghệ tác động đến QTDH<br />
và ứng dụng phù hợp trong đổi mới PPDH.<br />
Theo mối quan hệ ở hình 2, năng lực dạy học của GVKT là sự tích hợp các năng lực Chuyên<br />
môn Kĩ thuật, Kĩ năng thực hành nghề, nghiệp vụ SPKT và Kĩ năng vận dụng Công nghệ vào dạy<br />
học. Năng lực này được hình thành và phát triển thông qua QTDH trong bối cảnh Công nghệ phát<br />
triển.<br />
<br />
2.4.2. Cấu trúc khung chương trình đào tạo<br />
Các thành phần năng lực của chương trình đào tạo GVKT được phân bố như bảng 1.<br />
95<br />
<br />