intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Bản vị vàng

Chia sẻ: Vũ Thị Huệ Huệ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

774
lượt xem
203
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bằng hàm lượng vàng. Dưới chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt (ở dạng giấy bạc hay tiền xu) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả vàng nếu được yêu cầu. Các chính phủ sử dụng thước đo giá trị cố định này nếu chấp nhận thanh toán cả tiền mặt của chính phủ nước khác bằng vàng sẽ có liên hệ tiền tệ ấn định (lượng tiền mặt lưu hành, tỷ giá quy đổi, v.v..)...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Bản vị vàng

  1. Tiểu Luận Bản vị vàng 1
  2. Mục Lục NỘI DUNG ................................................................................................................................ 4 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ MẤT GIÁ CỦA ĐỒNG USD VÀ SỰ TRỞ LẠI CỦA CHẾ ĐỘ BẢN VỊ VÀNG .......................................................................................................................... 4 1.1. Phân tích thực tế về sự mất giá của đồng USD ................................................................... 4 1.2. Chế độ bản vị vàng .............................................................................................................. 4 1.2.1. Định nghĩa ........................................................................................................................ 4 Các định nghĩa khác nhau về bản vị vàng .................................................................................. 5 1.2.2. Lịch sử phát triển .............................................................................................................. 6 1.2.3. Tại sao lại là vàng? ........................................................................................................... 7 1.2.4. Tiền xu cổ đại ................................................................................................................. 10 II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ TRỞ LẠI CỦA CHẾ ĐỘ BẢN VỊ VÀNG .............................. 12 2.1. Nguyên nhân sự trở lại của chế độ bản vị vàng ................................................................. 12 2.1.1. Tác động của tiền tệ đƣợc đảm bảo bằng vàng .............................................................. 12 2.1.2. Sự ổn định nhờ bản vị vàng ............................................................................................ 13 2.1.3. Mô hình Mundell-Fleming ............................................................................................. 14 2.1.4 Vàng với vai trò dự trữ ngày nay..................................................................................... 18 2.1.5. Kim bản vị trở lại? .......................................................................................................... 19 Và những lựa chọn chính sách tiền tệ trong bối cảnh khủng hoảng ......................................... 19 2
  3. LỜI MỞ ĐẦU 3
  4. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ MẤT GIÁ CỦA ĐỒNG USD VÀ SỰ TRỞ LẠI CỦA CHẾ ĐỘ BẢN VỊ VÀNG 1.1. Phân tích thực tế về sự mất giá của đồng USD 1.2. Chế độ bản vị vàng 1.2.1. Định nghĩa Bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà phƣơng tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn đƣợc ấn định bằng hàm lƣợng vàng. Dƣới chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt (ở dạng giấy bạc hay tiền xu) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả vàng nếu đƣợc yêu cầu. Các chính phủ sử dụng thƣớc đo giá trị cố định này nếu chấp nhận thanh toán cả tiền mặt của chính phủ nƣớc khác bằng vàng sẽ có liên hệ tiền tệ ấn định (lƣợng tiền mặt lƣu hành, tỷ giá quy đổi, v.v..) Những ngƣời ủng hộ chế độ bản vị vàng cho rằng hệ thống này đề kháng đƣợc sự bành trƣớng tín dụng và nợ nần. Không nhƣ chế độ tiền luật định (không có vàng bảo đảm), đồng tiền đƣợc bảo đảm bằng vàng sẽ không cho phép chính phủ tùy tiện in tiền giấy. Cản trở này ngăn hiện tƣợng lạm phát do đánh tụt giá tiền tệ. Nó đƣợc tin rằng giúp loại bỏ đƣợc sự bất ổn hệ thống tiền tệ, đảm bảo sự tín nhiệm của tổ chức phát hành tiền tệ và khuyến khích hoạt động cho vay. Ở những nƣớc không áp dụng bản vị vàng một cách triệt để nhƣ tuyên bố bảo đảm hàm lƣợng vàng nhƣng phát hành tiền giấy nhiều hơn, trải qua các cuộc khủng hoảng tín dụng và trì trệ kinh tế. Ví dụ là sự hoang mang ở Hoa Kỳ năm 1819 sau khi Ngân hàng quốc gia thứ hai ra đời năm 1816. Ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới còn áp dụng bản vị vàng. Thay vào đó, tiền luật định đƣợc áp dụng, có nghĩa là Nhà nƣớc áp đặt sử dụng đồng tiền do họ phát hành, yêu cầu nộp thuế, nhận trợ cấp, thanh toán của Chính phủ bằng đồng tiền đó. Ở một số định chế tài chính tƣ nhân, bản vị vàng vẫn đƣợc áp dụng. 4
  5. Chế độ bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà pháp luật quy định dùng vàng để đúc tiền vàng. Trong quá trình phát triển, chế độ này tiến triển dƣới hình thức của 3 chế độ khác nhau: bản vị tiền vàng, bản vị vàng thỏi và bản vị hối đoái vàng. Trong chế độ tiền tệ Bản vị vàng, tiền dù ở dƣới hình t hức nào (đúc bằng vàng, in trên giấy, tiền điện tử, ...), thì ngƣời sở hữu tiền vẫn luôn có một quyền quan trọng: yêu cầu ngƣời phát hành tiền đổi tiền thành vàng theo tỉ lệ đã cam kết. Các định nghĩa khác nhau về bản vị vàng Nếu cơ quan quản lý tiền tệ giữ đủ vàng tƣơng ứng với toàn bộ lƣợng tiền lƣu thông, đó là chế độ bản vị vàng đầy đủ. Một số ngƣời tin rằng không có một chế độ bản vị vàng nào khác ngoài chế độ bản vị đầy đủ. Bởi vì trong một chế độ bản vị vàng một phần (tức là không giữ đủ 100% vàng), sẽ có một lƣợng tiền mặt không đƣợc đảm bảo bằng vàng, nó có thể do cơ quan quản lý tiền tệ muốn thu hồi chi phí phát hành tiền (thuế đúc tiền) và vì thế gây ra lạm phát (bản vị vàng đầy đủ không có lạm phát). Những ngƣời khác, ví dụ những ngƣời ủng hộ kinh tế học trọng cung lại lý luận rằng cứ khi nào mà vàng còn đƣợc sử dụng làm phƣơng tiện đo giá trị kinh tế thì khi đó là chế độ bản vị vàng. Chế độ bản vị vàng đầy đủ không thể vận hành đƣợc bởi hai lý do: Thứ nhất, lƣợng vàng trên thế giới là quá nhỏ so với lƣợng tiền cần  thiết để duy trì hoạt động kinh tế toàn cầu. Thứ hai, lƣợng tiền vừa đủ (có nghĩa là không gây lạm phát và cũng  không giảm phát) không phải là cố định, nó biến động liên tục cùng với mức độ hoạt động thƣơng mại. Trong một quốc gia theo chế độ bản vị vàng, tiền xu vàng lƣu thông nhƣ tiền và tiền giấy đƣợc đổi ra vàng trực tiếp theo giá thị trƣờng (chính phủ không 5
  6. thể bắt buộc), tiền giấy giống nhƣ một tờ séc cho phép ngƣời cầm giữ nó quyền sở hữu một lƣợng vàng nhất định đang đƣợc quản lý bởi ngƣời phát hành tờ tiền đó. Tuy nhiên, khi lƣợng vàng đổi đƣợc của tờ tiền giấy đó biến động có nghĩa là tờ tiền giấy trở thành tiền luật định và sẽ thƣờng xuyên giảm nội dung vàng. Đây là trƣờng hợp chính phủ phát hành tiền không có vàng đảm bảo trong chiến tranh. Ví dụ của nó là những đồng đôla do chính phủ Liên bang phát hành trong Nội chiến Hoa Kỳ và tiền giấy của Áo trong thời kỳ Chiến tranh Napoleon. Sau thời gian chiến tranh, tiền lại đƣợc bảo đảm bằng vàng – tức là trở lại hệ thống tiền tệ kim bản vị. Những ngƣời ủng hộ chế độ bản vị vàng chỉ ra rằng chế độ tiền luật định trƣớc sau gì đều dẫn đến lạm phát do sự điều hành kém cỏi hoặc bởi chính phủ cứ in tiền ra để bù đắp thâm hụt ngân sách. Hệ thống bản vị vàng quốc tế có thể tồn tại mà không có chế độ bản vị vàng ở bất kỳ quốc gia nào, khi đó vàng hoặc tiền tệ (đổi ra vàng ở tỷ giá cố định) đƣợc sử dụng là phƣơng tiện thanh toán quốc tế. Ở chế độ này, khi tỷ giá tiền tệ dâng lên hay tụt xuống quanh ngƣỡng đúc tiền (fixed mint rate) và chênh lệch tỷ giá này lớn hơn chi phí vận chuyển vàng giữa các nơi chênh lệch thì một lƣợng vàng lớn sẽ đƣợc luân chuyển cho đến khi tỷ giá trở về với ngƣỡng chính thức là ngƣỡng đúc tiền Các chế độ bản vị vàng quốc tế đều giới hạn số tiền mà các thực thể trong đó có quyền quy đổi lấy vàng. Dƣới chế độ bản vị vàng Bretton Woods, số tiền này gọi là “quyền rút vốn đặc biệt” (Special Drawing Rights – SDRs). 1.2.2. Lịch sử phát triển Tính chất không ổn định của chế độ hai bản vị đã kìm hãm sự phát triển nhanh của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa, nhƣng trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tƣ bản chƣa có đủ điều kiện khách quan để thực hiện một chế độ bản vị đơ n 6
  7. vàng, vì lƣợng vàng khai thác ra chƣa thể đáp ứng yêu cầu lƣu thông tiền tệ bằng vàng, do đó, phải đúc tiền bạc để đƣa vào lƣu thông. Mãi tới thế kỷ 18 sang thế kỷ 19, do công nghiệp khai thác vàng phát triển, các nƣớc mới có đủ điều kiện chuyển từ chế độ hai bản vị sang chế độ bản vị vàng. Anh là nƣớc có nền kinh tế và thƣơng mại phát triển nhất lúc bầy giờ, là nƣớc đầu tiên thực hiện chế độ bản vị vàng, spng cũng phải trải qua một hời kỳ chuyển tiếp lâu dài từ 1717 đến 1821. Pháp lệnh của nhà nƣớc Anh công bố thực hiện chế độ bản vị vàng vào năm 1816 nhƣng mãi tới năm 1821 mới đƣợc thi hành. Tƣơng tự nhƣ chế độ Bản vị Vàng, còn có chế độ Bản vị Bạc, một đơn vị tiền tệ đƣợc đảm bảo bằng khả năng qui đổi tƣơng đƣơng với một hàm lƣợng bạc nhất định. Vào năm 1930, Ngân hàng Đông Dƣơng phát hành đồng bạc giấy với tỉ lệ qui đổi: cứ 100 đồng bạc bằng bạc thật thì ngân hàng đƣợc phát hành 300 đồng bạc giấy. Đến ngày 31/5/1930, một sắc lệnh của Toàn quyền Đông Dƣơng qui định mỗi đồng bạc Đông Dƣơng có mệnh giá tƣơ ng đƣơng 655 mg vàng. Lúc này, đồng bạc Đông Dƣơng đƣợc chuyển sang chế độ bản vị Vàng. Vì khi đó, đồng Franc của Pháp cũng theo bản vị Vàng, 1 franc Pháp = 65,5mg Vàng nên tỷ giá đồng bạc Đông Dƣơng/Franc Pháp là 1/10. 1.2.3. Tại sao lại là vàng? Vàng đƣợc lựa chọn bởi sự tinh khiết, không bị biến đổi theo thời gian, dễ dàng phân biệt, thẩm định nhờ màu đặc trƣng, độ dẻo, âm thanh khi va chạm, khối lƣợng riêng lớn; vàng là một vật phẩm mà các nhà buôn lựa chọn làm thƣớc đo giá trị - nó đã đƣợc chọn từ xa xƣa là một dạng tiền và vật cất trữ của cải. Đã có rất nhiều vật phẩm đƣợc sử dụng làm tiền, bao gồm cả những thứ tƣởng nhƣ không thể nhƣ vỏ ốc, lá cây thuốc lá. Những thuộc tính cần phải có để một dạng vật chất trở thành dạng cơ bản của tiền là 7
  8. Dễ phân biệt  Bền vững  Ổn định vể lƣợng sẵn có  Giá trị nội tại không bị biến động.  Vàng đáp ứng tất cả các yêu cầu trên và có thể nói rằng nó là dạng vật chất duy nhất trên thế giới đáp ứng đƣợc. Lƣợng vàng mà con ngƣời có đƣợc không thay đổi đột biến trong nhiều thế kỷ; lƣợng vàng bổ sung nhờ khai mỏ là nhỏ và dự tính đƣợc. Phần lớn vàng đƣợc tàng cất trong kho, quỹ, két ở dạng “chức năng” của nó là vật lƣu trữ giá trị. Nhu cầu vàng cho mục đích khác chỉ là trang sức, răng giả và đồ điện tử mà thôi. Việc sử dụng v àng làm đồ trang sức và các vật trang trí khác có thể coi là cùng chức năng lƣu trữ giá trị bởi thuộc tính thẩm mĩ của nó. Hai ứng dụng còn lại chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với lƣợng vàng đƣợc tàng trữ dƣới dạng thỏi, nén; bên cạnh đó, nhu cầu vàng trong lĩnh vực nha khoa đang giảm xuống nhờ việc sử dụng các vật liệu trông giống răng thật. Ngoài vàng ra, bất kỳ vật phẩm nào khác đều có thể biến đổi giá trị khi cung và cầu thay đổi. Quá trình đi đến chọn vàng làm tiền, trong các xã hội, khác nhau theo thời gian và địa điểm. Tuy vậy các nhà sử học tin rằng, giá trị cao của vàng nhờ đẹp, tinh khiết, không bị ăn mòn, luôn ổn định, và dễ nhận ra đã đƣa nó trở thành vật bảo toàn giá trị và thƣớc đo giá trị của các dạng hàng hóa, vật chất khác. Ở thành Babylon cổ đại, giạ lúa mì (36 lít) đã đƣợc sử dụng làm đơn vị tính toán với khối lƣợng vàng tƣơng ứng đƣợc sử dụng làm vật mang giá trị. Những hệ thống tiền tệ cổ xƣa dựa trên lƣơng thực sử dụng vàng để biểu hiện giá trị. Nghiệp vụ ngân hàng (banking) bắt đầu xuất hiện khi vàng ký gửi tại ngân hàng có thể đƣợc chuyển từ một tài khoản sang tài khoản khác trực tiếp hoặc cho vay lấy lãi suất. Khối lƣợng riêng lớn của vàng (19,3 g/cm³) có nghĩa là những thủ đoạn pha vàng với các kim loại khác để có thêm khối lƣợng đều bị dễ dàng phát hiện (câu chuyện “Eureka” nổi tiếng của nhà bác học Ác-si-mét). Có một số kim loại nặng 8
  9. hơn vàng. Trong số các kim loại tƣơng đối phổ biến thì chỉ có osmium (22,6 g/cm³), iridium (22,4 g/cm³), bạch kim (21,45 g/cm³), volfram (19,35 g/cm³) là nặng hơn vàng. Thế nhƣng chúng đều đắt hơn vàng còn volfram thì giá gần bằng vàng. Hợp kim của vàng và volfram thì khó chế tạo và không hiệu quả. Khi đƣợc sử dụng thay mặt vàng trong hệ thống tiền tệ, chức năng của tiền giấy là nhằm giảm nguy hiểm có thể xảy ra khi vận chuyển vàng, giảm khả năng làm xấu những đồng xu vàng và tránh việc rút dần phƣơng tiện thanh toán ra khỏi lƣu thông nhƣ đầu cơ hay hao mòn. Sự xuất hiện tiền giấy ban đầu chỉ thuần túy bởi sự thiếu tin cậy khi vận chuyển vàng, đặc biệt là những rủi ro trên những hành trình dài; bên cạnh đó còn bởi các nƣớc muốn sự giao thƣơng phải đặt dƣới sự kiểm soát của họ. Tiền tệ đƣợc đảm bảo bằng kim loại quý đôi khi đƣợc gọi là tiền biểu hiện. Và giấy bạc đƣợc phát hành theo cách này gọi là chứng chỉ tiền tệ, một cách gọi để phân biệt nó với các dạng khác của tiền giấy. Trên thực tế, trong phần lớn lịch sử xã hội loài ngƣời, bạc mới là phƣơng tiện lƣu thông chủ yếu và là kim loại quan trọng đóng vai trò tiền tệ. Vàng đƣợc sử dụng là vật mang giá trị cao nhất, và là phƣơng tiện thanh toán chỉ khi cần phải gọn nhẹ nhƣ việc thanh toán cho quân đội. Trong một số thời điểm, vàng thay thế bạc trong vai trò đơn vị cơ sở cho thƣơng mại quốc tế, đó là thời kỳ hoàng kim của đạo Hồi (năm 662 đến 1258), thời kỳ đỉnh cao của các thành quốc buôn bán Italia trong thời Phục hƣng, và đáng kể nhất là trong thế kỷ 19. Vàng duy trì vai trò là kim loại của kế toán lƣu trữ tiền tệ cho đến khi hệ thống tiền tệ Bretton Woods sụp đổ năm 1971. Cho đến nay, nó vẫn là đối tƣợng dự trữ quan trọng ở các ngân hàng trung ƣơng và chính phủ, là phƣơng tiện duy trì khả năng thanh khoản và thực hiện chức năng bảo toàn giá trị. Tổng lƣợng vàng mà con ngƣời đã khai thác cho đến nay thật ít một cách kinh ngạc – khoảng 125 ngàn tấn. Nếu toàn bộ số vàng đó đƣợc xếp ở một chỗ thì chỉ một nhà thi đấu bóng rổ đủ chứa toàn bộ (cao 9 m, rộng 18 m, dài 36 m). 9
  10. Giá vàng hiện nay khoảng US$640 một ounce tức là khoảng 20.000 đôla Mỹ một kg, giá trị toàn bộ dự trữ vàng của thế giới là chừng 2,5 nghìn tỷ đôla Mỹ. Con số này còn ít hơn lƣợng tiền mặt lƣu thông tại Mỹ. Do đó, nếu ngƣời ta muốn quay lại bản vị vàng thì hoặc là vàng phải lên giá rất nhiều (vài chục đến vài trăm lần) hoặc chỉ đảm bảo một phần nhỏ giá trị tổng số tiền mặt lƣu hành. 1.2.4. Tiền xu cổ đại Kim loại đầu tiên đƣợc sử dụng làm tiền là bạc hơn 4.000 năm trƣớc, khi những miếng bạc đƣợc sử dụng trong buôn bán. Những đồng xu bằng vàng đầu tiên đƣợc dùng bắt đầu từ 600 năm trƣớc Công nguyên (TCN). Tuy vậy, trƣớc thời điểm đó khá lâu, vàng cũng nhƣ bạc đã đƣợc sử dụng làm vật lƣu trữ của cải và cơ sở cho các giao kèo buôn bán ở Akkadia (một thành phố Tiểu Á) và sau đó là Ai Cập Cổ đại. Bạc vẫn là kim loại tiền phổ biến nhất trong các giao dịch thông thƣờng cho đến thế kỷ 20. Ngày nay, nó vẫn đƣợc lƣu thông ở dạng tiền xu có hai kim loại, nhƣ đồng 20 pê-xô của Mexico phát hành năm 2006. Đế chế Ba Tƣ thu thuế bằng vàng, và khi đế chế này bị Alexander Đại Đế chinh phục, số vàng đƣợc đúc thành tiền của đế quốc do ông đứng đầu. Vàng đƣợc dùng để trả lƣơng cho quân đội và thƣởng cho lính đánh thuê, vi ệc này càng củng cố sự quan trọng của vàng. Nhƣ đƣợc nói đến trong tác phẩm “Hoàng tử” (The Prince) của Niccolo Machiavelli hai ngàn năm sau đó thì, vàng đã trở nên đồng nghĩa với việc chi dùng cho các chiến dịch quân sự. Đế chế La Mã đúc hai loại tiền xu quan trọng, đó là đồng aureus, nặng 7 gram hợp kim vàng -bạc; và đồng solidus, nặng 4,4 gram trong đó có 4,2 gram vàng. Các xƣởng đúc tiền La Mã tích cực một cách xuất sắc - ngƣời La Mã đúc và lƣu hành hàng triệu đồng xu tiền trong thời gian nền Cộng hòa và thời gian Đế chế. Sau sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã và các mỏ vàng ở Châu Âu đã cạn kiệt, Đế quốc Đông La Mã (còn gọi là Đế quốc Byzantine) đúc đồng tiền nimisma hay bezant để kế thừa đồng solidus. Đồng tiền xu mới này có khối lƣợng và độ tinh khiết nhƣ đồng xu cũ và vẫn đƣợc coi là đồng solidi. Thật đáng 10
  11. tiếc, Đế quốc Byzantine, vào khoảng năm 1030 giảm dần hàm lƣợng vàng trong tiền xu của nó cho đến khi tiền xu trong lƣu thông chỉ còn 15% vàn g. Điều này thể hiện sự mất mát giá trị khủng khiếp của đồng tiền này so với những đồng tiền xu thời La Mã vốn có hàm lƣợng vàng từ 95% đến 98%. Từ cuối thế kỷ thứ 7, đồng dinar dần trở thành đồng tiền của thƣơng mại quốc tế. Đồng dinar đƣợc phát hành bởi Để chế Ả rập, theo hình mẫu của đồng tiền solidus La Mã, có cùng kích thƣớc, khối lƣợng, hàm lƣợng vàng. Dinar và solidus của Đế quốc Đông La Mã cùng tồn tại trong lƣu thông trong 350 năm, sau đó, đồng solidus bắt đầu suy yếu. Đồng dinar bằng vàng và đồng dirham bằng bạc đều có nguồn gốc từ ngƣời Ba Tƣ (Persian). Sau đó, những vị vua đạo Hồi cũng chọn đồng tiền này làm tiền của vƣơng quốc, thậm chí Abd al-Malik (trị vì 685-705) cải cách đồng tiền đến mức mà ngƣời ta nghĩ rằng đồng dinar và dirham có xuất xứ từ đây. Ông bỏ những hình vẽ trên đồng xu, quy định chuẩn mực của đồng tiền phải nói về Thƣợng Đế (Allah) và ấn định tỷ lệ vàng-bạc. Thế lực và thƣơng mại lớn mạnh của đạo Hồi đƣa đồng dinar trở thành đồng tiền thống trị từ bờ biển phía tây Châu Phi cho đến bắc Ấn Độ tới tận những năm 1200, và nó vẫn là đồng tiền chủ chốt trong hàng mấy trăm năm sau đó. Vậy là đồng solidus, với những đặc điểm của nhƣ kích thƣớc, hàm lƣợng, khối lƣợng và dù dƣới nhiều tên khác nhƣ dinar, bezant, đã trở thành đơn vị tính toán giá trị trong hơn 1.300 năm qua ba đế chế hùng mạnh. Năm 1284, Cộng hòa Venice (còn có tên Serenissima - một thành quốc Italia tồn tại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 18) phát hành đồng tiền vàng đầu tiên của nó, đồng ducat. Đồng tiền trở thành chuẩn mực của tiền xu Châu Âu cho 600 năm tiếp theo. Các đồng xu các là đồng florin, noble, grosh, zloty và guinea cũng đƣợc phát hành thời gian này ở các quốc gia Châu Âu khác nhằm tạo điều kiện mở rộng thƣơng mại. Đồng ducat, nhờ vai trò ƣu việt hơn hẳn trong giao thƣơng 11
  12. với thế giới đạo Hồi và khả năng xây dựng quỹ dự trữ vàng mới, đã là đồng tiền tiêu chuẩn để các đồng tiền khác quy đổi. Ở Châu Mỹ, từ khi bắt đầu chinh phục đế chế Aztec và Inca của ngƣời da đỏ, Tây Ban Nha vốn chỉ có nhiều bạc, đã tiếp cận đƣợc nguồn vàng mới để đúc tiền. Đơn vị tiền bằng vàng cơ bản của Tây Ban Nha là đồng escudo, và đồng “doblión” (tƣơng đƣơng 8 escudo). Đồng doblion ban đầu đƣợc ấn định nặng 27,68 gram vàng 22 carat (92%) và có giá trị gấp 16 lần lƣợng bạc tƣơng đƣơng. Năm 1704, khu vực Caribe lựa chọn vàng là tiền tệ lƣu hành nhờ lƣợng vàng dồi dào của nó. Việc lƣu hành tiền xu của Tây Ban Nha tạo ra đơn vị đo giá trị của Hoa Kỳ, đồng đôla dựa trên nguồn bạc của Tây Ban Nha và thị trƣờng tiền tệ Philadelphia bắt đầu giao dịch bằng đồng tiền thuộc địa Tây Ban Nh a. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ TRỞ LẠI CỦA CHẾ ĐỘ BẢN VỊ VÀNG 2.1. Nguyên nhân sự trở lại của chế độ bản vị vàng Những điểm cơ bản của lý luận bản vị vàng nằm ở lý luận theo David Hume rằng lạm phát là do lƣợng tiền mặt tăng lên và sự bất trắc của sức mua tiền tệ trong tƣơng lai o bế lòng tự tin của doanh nghiệp và dẫn đến thƣơng mại và đầu tƣ giảm sút. Luận điểm trung tâm của bản vị vàng là nó xóa đi sự bất trắc, sự không thống nhất giữa các loại tiền cũng nhƣ những giới hạn có thể trong tƣơng lai. Các đối tác thƣơng mại sẽ mang lại lợi ích to lớn cho một nền kinh tế bằng cách mở rộng thị trƣờng của hàng hóa đó , bằng sự đáng tin cậy của tín dụng cung cấp cho nhau và bằng sự vững vàng của thị trƣờng hàng hóa. Trong lý luận bản vị vàng, sự hạn chế tài chính và tiền tệ mà chính phủ phải tuân thủ là trung tâm của những lợi ích giành đƣợc. Những ngƣời cổ súy cho bản vị vàng tin rằng chính phủ là có hại cho nền kinh tế, nó can thiệp vào thị trƣờng vốn vận hành hoàn hảo và hạn chế tự do cá nhân. 2.1.1. Tác động của tiền tệ được đảm bảo bằng vàng Sự cam kết duy trì khả năng chuyển đổi tiền ra vàng một cách chặt chẽ hạn chế quá trình tạo ra tín dụng. Tín dụng bởi các tổ chức ngân hàng dƣới chế độ 12
  13. bản vị vàng đe dọa khả năng chuyển đổi của giấy bạc do họ phát hành và dẫn đến hậu quả là vàng bị rút ra khỏi các quỹ dự trữ của ngân hàng đó ngoài ý muốn. Kết quả của việc đánh mất sự tự tin làm cho 2.1.2. Sự ổn định nhờ bản vị vàng Theo lý thuyết, bản vị vàng giới hạn quyền năng của chính phủ trong việc tạo ra lạm phát bằng cách bơm thêm tiền giấy vào lƣu thông, mặc dầu vậy, có bằng chứng cho thấy trƣớc Thế chiến thứ nhất, các nhà quản lý tiền tệ đã không mở rộng hay thu hẹp cung tiền ngay cả khi nƣớc đó bị thất thoát vàng. Bản vị vàng tạo ra sự vững chắc của thƣơng mại quốc tế do nó cung cấp một cơ cấu cố định tỷ giá tiền tệ. Sau các chế độ bản vị bạc mất giá liên tục của mƣời năm đầu thế kỷ 18, vàng đƣợc coi là sự thay thế tốt hơn và trở thành nguyên nhân, mục đích cho thƣơng mại. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19, những lập luận chống lại bản vị vàng tạo ra xu hƣớng chính trị ở đa số các quốc gia công nghiệp nghiêng về những dạng tiền tệ dựa trên bạc, hoặc thậm chí là tiền giấy không thôi. Dƣới chế độ bản vị vàng cổ điển quốc tế, những biến động về giá ở một quốc gia sẽ đƣợc điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ bởi cơ chế tự cân bằng thanh toán gọi là cơ chế dòng chảy giá cả-bản kim (bản kim ở đây là tiền xu vàng). Cơ cấu này nhƣ sau: Đầu tiên, khi giá một loại hàng hóa giảm xuống nhờ cung tăng vọt,  tăng hiệu quả vốn, giảm giá đầu vào hoặc do cạnh tranh, ngƣời mua sẽ nghiêng về hàng hóa đó nhiều hơn những hàng hóa khác. Bởi sự ổn định tỷ giá tiền-vàng, ngƣời tiêu dùng ở các nƣớc khác sẽ mua hàng hóa đƣợc định giá thấp nhất và vì thế, vàng sẽ chảy về các nƣớc có nền kinh tế hiệu quả nhất. Lúc đó, quốc gia mới nhận luồng vàng đến phải tăng cung tiền tệ và  chịu áp lực lạm phát vừa phải để bù lại việc giảm giá trƣớc đó. 13
  14. Đồng thời, lƣợng tiền lƣu hành ở các nền kinh tế kém hiệu quả bị  giảm đi, vì vậy giá cả ở các nƣớc này giảm xuống cho đến khi sự cân bằng đƣợc khôi phục. Các ngân hàng trung ƣơng, với mục đích ngăn cản luồng vàng chảy đi, sẽ chống đỡ bằng cách tăng tỷ lệ lãi suất làm sao để đƣa giá cả trở lại mức cân bằng quốc tế nhanh hơn. Về mặt lý thuyết, chừng nào còn duy trì bản vị vàng thì chừng đó hạn chế đƣợc lạm phát cao hoặc giảm phát ngoài tầm kiểm soát. Có một thời gian, ngƣời ta tin rằng các thị trƣờng luôn luôn vận hành rạch ròi (xem nguyên lý Say). Sự giảm phát sẽ làm thay đổi giá của vốn trƣớc tiên, có nghĩa là giá của vốn giảm và cho phép tăng trƣởng nhanh hơn đồng thời giá cả về mặt dài hạn vẫn ổn định. Tuy nhiên, in trên thực tế, điều này lại không diễn ra mà tiền lƣơng (giá của lao động), chứ không phải giá của tƣ bản, sẽ bị hạ xuống trƣớc tiên. 2.1.3. Mô hình Mundell-Fleming Theo kinh tế học tân cổ điển, mô hình Mundell-Fleming diễn tả động thái của các đồng tiền trong chế độ bản vị vàng. Do giá trị tiền tệ đƣợc gắn liền với hàm lƣợng vàng, những yếu tố tự do còn lại để điều tiết thị trƣờng vốn -tiền tệ là (1) tự do di chuyển luồng vốn và (2) chính sách tài chính, tiền tệ. Một lý do khiến đa số các nhà kinh tế học vĩ mô hiện nay không ủng hộ sự trở lại của bản vị vàng là mối quan ngại hai yếu tố trên không đủ để đối phó với suy thoái hoặc giảm phát lớn. Việc xem xét tình huống lý thuyết vàng trở lại là cơ sở giá trị dẫn đến một câu hỏi là sự tín nhiệm của ngân hàng trung ƣơng ra sao trong một cơ chế không dựa trên kim loại quý. Dẫu cho những phần thƣởng lớn sẵn sàng trao cho ai giải đƣợc những câu hỏi trên, thì kỷ nguyên bản vị vàng của thế kỷ 19 và thế kỷ 20 vẫn là một giai đoạn mà cơ sở khác hẳn với cái cách hệ thống tiền tệ thả nổi ngày nay đƣợc đo đếm, xác định giá trị. Mundell lập luận rằng vì trong một nền kinh tế công nghiệp, một lƣợng lớn tƣ bản không linh động, chế độ bản vị vàng quốc tế hoặc thậm chí là chỉ ở một 14
  15. quốc gia có thể đƣợc tái lập. Vẫn theo ông, điều này sẽ cho phép ngân hàng trung ƣơng một phạm vi tự do đủ để giảm thiểu tác động tiêu cực của chu kỳ kinh tế. Nó sẽ giảm tỷ lệ lãi suất ở pha suy thoái và tăng trở lại để kiềm chế tăng trƣởng nóng. Milton Friedman không thống nhất ở điểm này, ông nêu ra các tác động bởi tiền tệ về mặt lƣợng sẽ gây ra giảm phát trong hệ thống đó và các quốc gia thành công sẽ nhận ra lợi ích thu đƣợc ít hơn là Mundell kỳ vọng, bởi luồng vàng di chuyển đến một quốc gia sẽ gây lạm phát ở nƣớc đó. Cuộc tran h luận này tƣơng tự cuộc tranh luận của Adam Smith và David Hume trong thế kỷ 18 về việc tăng lƣợng tiền tệ có phải là một mục tiêu đáng thực hiện hay không. Nhiều quốc gia chống lƣng cho nền kinh tế bằng cách tích trữ vàng. Số dự trữ này không phải để bảo đảm giấy bạc đƣợc phát hành mà nó là tài sản bảo vệ tiền tệ khỏi tỷ lệ lạm phát cao. Những ngƣời cố súy cho vàng cho rằng không cần biện pháp này vì tiền tệ tự nó đã mang giá trị nội tại Bản vị vàng khi đó đƣợc khuyến khích bởi những ngƣời tin rằng một vật cất trữ giá trị ổn định là thành tố quan trọng nhất đối với sự an tâm trong kinh doanh. Nói chung thì ngày nay đại đa số các chính phủ và các nhà kinh tế không ủng hộ bản vị vàng, vì chế độ này thƣờng cho thấy là không tạo đủ sự linh hoạt cho nguồn cung tiền tệ và chính sách tài khóa. Và lý do của việc này là ở chỗ nguồn cung cấp vàng mới (tức là nguồn cung cấp thêm tiền tệ dƣới chế độ bản vị vàng) thì giới hạn và phải đƣợc sử dụng một cách căn cơ. Một quốc gia đơn lẻ không thể cách li nền kinh tế của nó với những biến động suy thoái và lạm phát của thế giới. Thêm vào đó, quá trình điều chỉnh thâm hụt chi tiêu ở một quốc gia có thể lâu dài và đau đớn khi mà tỷ lệ thất nghiệp gia tăng hoặc thụt lùi tốc độ phát triển kinh tế. Trong số những ngƣời phản đối mạnh mẽ, John Maynard Keynes nhấn mạnh vào điểm bản vị vàng dựa vào kim loại cứng nhắc. Những ngƣời ủng hộ trƣờng phái của ông cho rằng bản vị vàng gây ra giảm phát, điều khiến suy thoái càng trầm trọng bởi ngƣời ta không muốn đầu tƣ khi giá cả giảm xuống, v ì vậy 15
  16. mà xƣơng sống của hoạt động kinh tế càng bị sức ép. Cũng theo họ, chế độ bản vị tƣớc đi khả năng chống lại khủng hoảng kinh tế đó là khả năng tăng cung tiền tệ để thúc đấy kinh tế khôi phục. Trái lại, những tín đồ của bản vị vàng chỉ ra rằng kỷ nguyê n công nghiệp hóa và toàn cầu hóa của thế kỷ 19 là bằng chứng của sự tính thực tiễn và ƣu việt của chế độ bản vị vàng và nêu ra rằng nƣớc Anh đã đi lên vị trí đế vƣơng, cai trị gần một phần tƣ dân số thế giới và xây dựng đế quốc thƣơng mại mà ngày nay là Khối thịnh vƣợng chung Anh. Những kẻ ky cóp vàng (goldbug) lấy nó là vật bảo vệ trƣớc sự lạm phát giá cả hàng hóa và là biểu hiện cội nguồn của tài nguyên. Vì vàng có thể đổi ra bất kỳ đồng tiền nào, đƣợc chấp nhận ở mọi quốc gia trên thế giới, họ xem vàng là vật bảo đảm trƣớc sự phiêu lƣu của các ngân hàng trung ƣơng trong chính sách tiền tệ và vàng là phƣơng tiện chống rủi ro biến động tiền tệ. Với lập luận này, họ cho rằng cuối cùng thì chế độ vàng sẽ trở lại vì nó là vật mang giá trị ổn định duy nhất. Ngày nay, không nhiều nhà kinh tế học ủng hộ việc trở lại bản vị vàng trừ trƣờng phái kinh tế học Áo và trƣờng phát trọng cung. Tuy vậy nhiều nhà kinh tế lớn đồng tình với việc lấy kim loại là cơ sở của tiền tệ, đồng thời lập luận chống lại tiền luật định. Trong số này có Alan Greenspan - ngƣời từng đứng đầu Cục Dự trữ Liên bang trong 19 năm, và nhà kinh tế học vĩ mô Robert Barro. Năm 2000, Greenspan đã phát biểu: “nếu anh sống trong chế độ bản vị vàng hoặc một cơ chế khác mà các ngân hàng trung ƣơng không có quyền thao túng, thì hệ thống đó vận hành một cách tự động. Lý do mà có rất ít sự ủng hộ bản vị vàng đó là những hệ quả của sự tự điều chỉnh đó không đƣợc coi là thích đáng ở thế kỷ 20 và 21. Tôi là một trong số ít ngƣời vẫn còn cái nhìn lƣu luyến về chế độ bản vị vàng ngày xƣa, anh biết điều này rồi, nhƣng tôi vẫn phải nói với anh, tôi ở trong đám thiểu số giữa các đồng nghiệp vẫn tranh luận về vấn đề này.” [1]. Hệ thống tiền tệ ngày nay dựa vào đồng đôla Mỹ nhƣ một đồng tiền để neo vào, 16
  17. đồng tiền mà các giao dịch lớn đƣợc đo lƣờng. Những bất ổn tiền tệ, không thể quy đổi và hạn chế tiếp cận tín dụng là số ít trong những lý do vì sao mà hệ thống tiền tệ ngày nay bị chỉ trích. Một loạt các giải pháp thay thê đã đƣợc đề xuất, bao gồm cả tiền tệ dựa trên năng lƣợng, giỏ hàng hóa hoặc giỏ tiền tệ; vàng cũng chỉ là một trong những giải pháp đó. Lý do các lựa chọn này không đƣợc thực hiện trên thực tế cũng là lý do mà hệ thống bản vị vàng sụp đổ: tỉ lệ chuyển đổi cố định do chính phủ định ra không có mối liên hệ hữu cơ nào giữa cung và cầu về vàng và cung và cầu về hàng hóa. Vì vậy, bản vị vàng có xu hƣớng bị bãi bỏ khi các chính phủ nhận thấy việc bỏ qua nó có lợi ích hơn. Thực chất, bản vị vàng không có nghĩa là các quốc gia không thể chuyển sang tiền luật định khi có chiến sự hoặc trong các tình trạng khẩn cấp khác. Điều này vẫn xảy ra mặc dù vàng tăng giá trong các tình huống nhƣ vậy vì mọi ngƣời thƣờng sử dụng vàng để tích trữ vì lo sợ rằng tiền luật định thƣờng cho phép lạm chi và do đó thƣờng dẫn tới lạm phát hoặc sử dụng tem phiếu. Khó khăn về thực tiễn là vàng hiện tại không đƣợc phân phối theo sức mạnh kinh tế cũng là một yếu tố: Nhật Bản là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, lại có dự trữ vàng ít hơn rất nhiều so với cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế này. Năm 1996, hệ thống tiền vàng điện tử (e-gold) đƣợc phát hành riêng với nỗ lực lập lại bản vị vàng và tạo ra một hệ thống tiền tệ toàn cầu mới. Các hệ thống tiền vàng điện tử khác cũng lần lƣợt ra đời nhƣ e-Bullion và GoldMoney. Năm 2001 Thủ tƣớng Malaysia Mahathir bin Mohamad đề xuất một đồng tiền mới mà dự kiến sẽ đƣợc áp dụng đầu tiên với trao đổi thƣơng mại giữa các nƣớc đạo hồi. Đồng tiền đƣợc đề xuất có tên là dinar vàng hồi giáo và đƣợc xác định là 4,25 gram vàng 24 cara (100%). Mahathir Mohamad đƣa ra khái niệm 17
  18. này trên cơ sở lợi ích về kinh tế của đồng tiền là có cơ sở ổn định và là một biểu tƣợng chính trị để nâng cao đoàn kết giữa các nƣớc hồi giáo. Một mục tiêu có thể suy diễn của hành động này là giảm phụ thuộc vào đồng Đô la Mỹ để dự trữ tiền tệ, và để thiết lập một đồng tiền không dựa trên nợ tuân theo luật Hồi giáo cấm tính lãi suất. Tuy vậy, đồng tiền dinar vàng này vẫn chƣa trở thành hiện thực. 2.1.4 Vàng với vai trò dự trữ ngày nay Trong thập niện 1990, nƣớc Nga bán hết phần lớn lƣợng dự trữ vàng từ thời Liên Xô, trong khi đó, một số quốc gia khác tích trữ vàng để chuẩn bị cho Liên minh tiền tệ và Kinh tế Châu Âu. Chỉ còn đồng Franc của Thụy Sĩ là đồng tiền chuyển đổi ra vàng. Tuy nhiên, dự trữ vàng với lƣ ợng đáng kể tại nhiều nƣớc là một công cụ bảo vệ đồng tiền của họ và tránh ràng buộc vào đồng đôla Mỹ, thực tế này hình thành lƣợng dự trữ khổng lồ tiền thanh khoản cao. Đồng đôla yếu có xu hƣớng đƣợc bù lại bởi giá vàng mạnh lên. Vàng vẫn là tài sản tài c hính cơ bản của gần nhƣ tất cả các ngân hàng trung ƣơng bên cạnh ngoại tệ và trái phiếu chính phủ. Nó cũng đƣợc tích trữ tại các ngân hàng trung ƣơng nhƣ là một biện pháp đề phòng .... Ƣớc tính, 25% toàn bộ lƣợng vàng có trên mặt đất đƣợc cất giữ tại quỹ của các ngân hàng trung ƣơng. Tiền xu vàng và vàng thỏi đƣợc mua bán rộng rãi tại các thị trƣờng có tính thanh khoản cao, và do đó vẫn là hình thức cất giữ tài sản cá nhân. Cho dù một số tổ chức, cá nhân phát hành tiền ví dụ tiền kỹ thuật số quy ra vàng, thì chúng vẫn phải đƣợc bảo đảm bằng dự trữ vàng của họ. Năm 1999, để bảo vệ vai trò cất trữ giá trị của vàng, Ngân hàng trung ƣơng Châu Âu đã ký “thỏa thuận Washington”, tuyên bổ rằng họ không cho phép vay nợ vàng để đầu cơ và họ cũng không tham gia vào thị trƣờng vàng với vai trò là ngƣời bán, trừ khi các giao dịch đó đã ký kết trƣớc thời điểm ký thỏa thuận trên. 18
  19. Những năm cuối của Thời kỳ khủng hoảng giá hàng hóa (1980 -2000) cũng đã ảnh hƣởng đến vàng, giá vàng đã tăng vƣợt mức giá đƣợc giao dịch trong vòng 20 năm. Thực tế này dẫn đến hậu quả là các tổ chức quản lý tiền tệ lại sử dụng vàng để giữ vững giá trị đồng tiền của họ, dẫu vậy, không có nghĩa là quay trở lại bản vị vàng. Trên thực tế ngày nay thì ngƣợc lại, vàng càng đắt đỏ thì bản vị vàng càng khó thực hiện. 2.1.5. Kim bản vị trở lại? Nhiều quan sát viên cho rằng giá vàng lên xuống theo hình zig zag cũng chỉ để làm đà sửa soạn nhảy lên các kỷ lục mới do sự mất lòng tin vào tiền giấy của nhiều nƣớc. Khuynh hƣớng này đƣợc sự tán đồng của Chủ tịch Ngân hàng Thế giới khi mới đây ông đã nhắc lại vai trò quan trọng của vàng trong chế độ kim bản vị (gold standard) của những năm xƣa khi vàng đƣợc cả thế giới tài chính coi nhƣ thƣớc đo giá trị của các đồng tiền “giấy” của nhiều quốc gia. Lời tuyên bố của ông đã gây “sóng” lớn cho vàng từ vài tuần nay cũng nhƣ nhiều xôn xao trong các thị trƣờng tài chính và hàng hóa. Và chợt nhớ mấy câu vè của ông Lƣơng Văn Tự (nguyên Thứ trƣởng Bộ Thƣơng mại) về vàng ở Việt Nam: “Ngày xƣa bản vị là vàng Ngày nay tiền tệ đƣờng hoàng lên thay Bây giờ tiền tệ lung lay Những ngƣời lo ngại lại quay về vàng” Và những lựa chọn chính sách tiền tệ trong bối cảnh khủng hoảng Chuyện giá vàng mới gây “sóng to”, hay nhắc nhở về kim bản vị trên đây, hay chuyện chính sách “nới lỏng định lƣợng” của FED (Cục Dự trữ liên bang Mỹ) đều có liên hệ mật thiết với nhau nhƣ dƣới đây. 19
  20. Ngày 3-11, khi FED họp thông báo về chính sách nới lỏng tiền tệ QE 2, cả giới tài chính toàn cầu chờ đợi xem FED sẽ quyết định tăng liền một lúc lƣợng mua trái phiếu vào khoảng 600 tỉ đô la Mỹ (để bơm thêm thanh khoản vào nền kinh tế Mỹ với tác động lớn ngay lập tức), hay chỉ tăng nhỏ giọt làm nhiều kỳ, mỗi kỳ mua độ 100 tỉ. Chọn lựa triển khai theo cách thứ hai của FED rốt cuộc nhằm tránh làm xao động thêm nền tài chính thế giới. Nhất là nguy cơ chiến tranh tiền tệ khi các ngân hàng trung ƣơng khác có thể cũng phải tiếp tục nới lỏng thêm chính sách tiền tệ để bảo vệ tỷ giá và thúc đẩy thêm độ tăng trƣởng kinh tế trong nƣớc của họ. Một chi tiết nữa là từ giữa năm 2008 FED can thiệp mạnh mẽ qua chính sách QE 1 bằng cách mua mạnh mẽ trái phiếu, nâng cao ba lần bảng cân đối (balance sheet) của họ từ 800 tỉ đô la Mỹ lên 2.400 tỉ đô la Mỹ. Lúc này nhiều lo ngại đã xuất hiện về tỷ giá đồng đô la Mỹ và ảnh hƣởng đến mức thanh khoản quá cao trong hệ thống tài chính toàn cầu và đã là một động lực chính đẩy giá vàng lên cao khi giới đầu tƣ và đầu cơ mua vàng nhƣ một tài sản an toàn (safe heaven asset). Nếu lần này FED mua luôn 600 tỉ đô la Mỹ trái phiếu, bảng cân đối sẽ lên tới 3.000 tỉ đô la Mỹ và càng làm vàng có giá trị hơn nhƣ tài sản để dành, dù lạm phát Mỹ hay thế giới chƣa bốc ngay trong ngắn hạn. Đây là lý luận mà ít ngƣời để ý khi cho rằng lúc kinh tế chƣa phục hồi mạnh thì lạm phát sẽ còn thấp và giá vàng sẽ phải xuống mạnh! Nhƣ một thách thức, vàng hiện đang ở chung quanh mức những kỷ lục mới thiết lập trên 1.400 đô la Mỹ/ounce. Nhiều quan sát viên cho là giá vàng còn có thể leo lên các đỉnh cao mới trong 2-3 năm tới. Trở lại tình hình Mỹ, Nhà Trắng đã phải chấp nhận thua trong cuộc b ầu cử Quốc hội giữa kỳ và mất đa số tại Hạ viện về tay đảng Cộng hòa do thất bại của các chính sách kinh tế trong hai năm qua. Tổng thống Obama đang phải tìm 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2