intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Loan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:118

173
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, số lượng, chất lượng của các doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cũng như những cơ thể sống, các doanh nghiệp cũng phải trải qua thời kỳ hình thành, phát triển và suy tàn. Những doanh nghiệp đó có tồn tại và phát triển được hay không lại phụ thuộc vào tổng thể nhiều nhân tố, từ khách quan thuộc môi trường vĩ mô, các yếu tố thuộc về kỹ năng của chủ doanh nghiệp đến cả các yếu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam

  1. TIỂU LUẬN: Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam
  2. Phần Mở đầu 1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, số lượng, chất lượng của các doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cũng nh ư những cơ thể sống, các doanh nghiệp cũng phải trải qua thời kỳ hình thành, phát triển và suy tàn. Những doanh nghiệp đó có tồn tại và phát triển được hay không lại phụ thuộc vào tổng thể nhiều nhân tố, từ khách quan thuộc môi trường vĩ mô, các yếu tố thuộc về kỹ năng của chủ doanh nghiệp đến cả các yếu tốt may rủi. Tục ngữ Phương Đông có câu chặng đường dài bắt đầu bằng những bước đi đầu tiên, sự phát triển của các doanh nghiệ p cũng vậy. Để có thể tồn tại và phát triển bền vững, ngay từ đầu, người chủ doanh nghiệp phải hội tụ cho doanh nghiệp của mình những nhân tố cần thiết, trong đó có những nhân tố mà bản thân chủ doanh nghiệp đã có, những nhân tố mà hiện chưa có nhưng có thể có được thông qua nỗ lực của bản thân, nhưng cũng có cả những nhân tố mà không thể tự có được và khi đó phải cần đến sự trợ giúp từ bên ngoài. Người ta có thể có được trợ giúp từ người thân, từ các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh doanh khác thông qua quan hệ kinh doanh, nhưng ngày nay các Nghiệp chủ tương lai không thể không quan tâm đến những trợ giúp từ các hiệp hội, hay các tổ chức mang tính chất hiệp hội ngành nghề trong đó Phòng Thương Mại là một kiểu hiệp hội như vậy. Ngày nay, hàng năm có hàng nghìn thậm chí chục nghìn doanh nghiệp ra đời nhưng trong số đó cũng có không ít bị biến mất ngay năm hoạt động. Điều tra về thực trạng này người ta đã kết luận được rằng nếu không tính đế những trường hợp thành lập doanh nghiệp vì các mục đích phi pháp thì nguyên nhân hàng đầu dẫn đến sự thất bại của doanh nghiệp ngay từ khi khởi sự chính là yếu tố năng lực cá nhân của người chủ rồi mới đến các yếu tố khác. Với vai trò to lớn của các doanh nghiệp và những khó khăn gặp phải của doanh nghiệp thì vấn đề trợ giúp cho hoạt động khởi sự là hết sức cần thiết.
  3. Là một tổ chức Phi chính phủ, đại diện và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp, Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam (VCCI), ngày nay còn có thêm chức năng là xúc tiến và hỗ trợ doanh nghiệp, đã ngày càng chứng tỏ được vai trò to lớn của mình trong giới doanh nghiệp. Hoạt động hiệu quả, tạo dựng được uy tín không chỉ trong nước mà cả trên trường quốc tế. VCCI bên cạnh những hoạt động thuộc về chức năng còn được Tổ chức lao động quốc tế (ILO) kết hợp với SIDA chọn làm đối tác để triển khai chương trình “Khởi sự và nâng cao khả năng kinh doanh của doanh nghiệp”, qua đó đã càng khẳng định thêm vai trò to lớn của mình đối với các hoạt động khởi sự doanh nghiệp ở Việt Nam. Với ý nghĩa to lớn của các hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp và vai trò của VCCI thì nghiên cứu về hoạt động trợ giúp của VCCI là rất cần thiết. Với mong muốn được hiểu biết sâu sắc hơn về vai trò, thực trạng các hoạt động hỗ trợ của VCCI để qua đó có thể đưa ra được những kiến nghị với VCCI về hoạt động này. Được sự chấp thuận của VCCI và ĐH KTQD tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam”. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp”. Trong tổng thể cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam có nhiều hình thức pháp lý khác nhau: Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh... tuy nhiên đối tượng mà đề tài hướng vào là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Do đặc thù của các loại hình doanh nghiệp khác nhau nên khởi sự doanh nghiệp tương ứng cũng khác nhau, trong phạm vi đề tài này xin đặt trọng tâm vào hoạt động trợ giúp khởi sự cho các doanh nghiệp “dân doanh”: bao gồm Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể. Người ta có thể bắt đầu khởi sự kinh doanh bằng cách mua đứt một doanh nghiệp – hiếm thấy ở Việt Nam – hay là thành lập một doanh nghiệp mới. Trong phạm vi đề tài này chỉ đề cập đế việc khởi sự thông qua lập mới một doanh nghiệp.
  4. Đề tài được nghiên cứu tại Văn phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam. Trong hệ thống các tổ chức có thể hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp khác nhau, Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam có thể nói là tổ chức uy tín nhất trong hoạt động này. 3. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu bằng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, biện pháp quan sát thực nghiệm, thống kê... 4. Kết cấu đề tài: Gồm 3 chương. Chương I: Lý luận chung về trợ giúp khởi sự doanh nghiệp. Chương này nhằm làm rõ quá trình khởi sự, vai trò, sự cần thiết, nội dung của hoạt động hỗ trợ khởi sự, phân tích ưu nhược điểm của Văn Phòng Thương Mại so với các tổ chức khác trong hoạt động khởi sự doanh nghiệp. Chương II: Phân tích hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của VCCI. Phần này nhằm làm rõ thực trạng hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp,phân tích ưu nhược điểm, những thành tựu đã đạt được và tồn tại cần khắc phục. Trên cơ sở những phân tích đó, những phương hướng, giải pháp cho các hoạt động trợ giúp khởi sự sẽ được làm rõ. Đó chính là nội dung của Chương III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của VCCI.
  5. Chương I. Lý luận về trợ giúp Khởi sự doanh nghiệp Bắt đầu bằng hoạt động khởi sự doanh nghiệp, đó là một quá trình đi từ những nhận thức đến các hành động thiết lập, tổ chức và điều hành hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở phân tích quá trình này người ta sẽ thấy doanh nghiệp cần được hỗ trợ những gì. Câu hỏi đặt ra là tại sao phải thực hiện hoạt động trợ giúp? Để trả lời câu hỏi này cần làm rõ hai vấn đề: Thứ nhất: Vai trò, thực trạng của hệ thống các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng để thấy được sự cần thiết phải trợ giúp doanh nghiệp. Thứ hai: Trong quá trình khởi sự các doanh nghiệp gặp phải vướng mắc gì cần phải giải quyết. Trong hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp Thì Phòng Thương Mại cho thấy ưu điểm vượt trội, và vì vậy việc phân tích ưu thế của Phòng thương mại cũng sẽ giải quyết vấn đề tại sao phải cần tiến hành và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động trợ giúp khởi sự của VCCI. I. Quá trình khởi sự doanh nghiệp. Quá trình khởi sự bắt đầu từ nhận thức của chủ doanh nghiệp. Sau khi đã thống nhất được rằng nên khởi sự doanh nghiệp cho mình, nghiệp chủ phải tiến hành việc lập kế hoạch kinh doanh và thực hiện kinh doanh thường nhật. Hình 1 dưới đây sẽ thể hiện quá trình khởi sự:
  6. Chủ doanh nghiệp Nhận thức cá nhân. Đánh giá bản thân. Lựa chọn ý tưởng kinh doanh. Thách thức khi khởi sự. Chọn lựa chọn loại hình kinh doanh. - - Phân tích điều kiện bản thân. Chọn ý tưởng kinh doanh tốt. - - Tăng cường kỹ năng kinh doanh. Thử nghiệm ý tưởng kinh doanh. - - Phát triển ý tưởng kinh doanh thành - Đánh giá tài chính bản thân. - kế hoạch. Kế hoặch kinh doanh. Đánh giá Lựa Tổ Những Đánh giá Tiến Lập kế thị chọn chức thách sự tồn hành hoạch hình nhân thức và tại lâu kinh trường kinh thức nghĩa dài của sự. doanh doanh doanh pháp lý. vụ. nghiệp. Hình 1: Quá trình khởi sự 1. Nhận thức kinh doanh của bản thân. Trước hết người chủ doanh nghiệp cần nhận thức về bản thân xem mình sẽ có được lợi ích gì khi quyết định khởi sự và nếu so với đi làm thuê cho người khác thì có tốt hơn không. Tuy nhiên không phải ai cũng thích hợp cho việc khởi sự doanh nghiệp cho chính mình. Họ cần phải có những phẩm chất nhất định hoặc nếu không có thì họ cũng phải có khả năng thay đổi bản thân thông qua đào tạo và tự đào tạo cũng như có đủ khả năng tài chính. 1.1. Những đánh giá bản thân. a) Thách thức của khởi sự. Cần xem xét những cái được và cái mất của tự kinh doanh trên cơ sở so sánh giữa việc làm thuê cho người khác với việc “làm thuê cho chính mình”. Làm thuê cho tổ chức thành đạt.
  7. Có những người phù hợp trong vai trò là người làm thuê nhưng cũng có người lại đặc biệt phù hợp với vai trò là người chủ. Khi quyết định trở thành một người làm công chắc chắn là người ta sẽ được an toàn, thu nhập đều đặn, có số giờ làm việc thấp hơn, được trả thêm tiền cho giờ làm ngoài, những kỳ nghỉ theo quy định nếu họ không muốn làm thêm, được bảo hiểm thất nghiệp, và nhiều quyền lợi theo quy định của pháp luật dành riêng cho người lao động làm thuê. Những người lao động sẽ chỉ phải có trách nhiệm hữu hạn trên phần công việc được giao, họ không phải lo lắng nhiều về việc làm của mình. Và lợi thế to lớn nhất là họ không phải chịu những rủi ro đối với những khoản tiền mà họ tích góp được. Tuy nhiên, để có được mức lương ổn định và ngày càng cao thì những người làm công phải tham gia vào “cuộc tranh đua ác liệt”. Trên thực tế người làm công ngày nay đã hiểu ra rằng để có thể tiến thân trong các tổ chức thành đạt thì không chỉ có những khả năng mà họ còn cần những đường “đi tắt” và với rất nhiều người thì họ không thể chấp nhận được “sự bất công” này. Những sáng kiến của họ trị giá hàng triệu USD thì họ chỉ nhận được những chiếc giấy khen và khoản tiền ít ỏi. Những bản hợp đồng lao động phụ bắt người ta phải làm thêm nhiều giờ mặc dù họ không muốn và rất nhiều những bó buộc mà họ phải tuân theo. Khởi sự kinh doanh cho bản thân. Người ta bắt tay vào khởi sự vì nhiều lý do, nhưng dù lý do đó là gì cũng trở nên vô nghĩa khi công việc tự kinh doanh của họ không đem lại cho họ những lợi ích nhất định. Là chủ của chính mình, họ không phải tuân thủ mệnh lệnh của người khác ngoại trừ mệnh lệnh của khách hàng – người chủ duy nhất của họ; Tự do làm việc với cường độ của chính mình quy định; Được đánh giá đúng mức, tạo được uy tín cho bản thân mình và thu được lợi nhuận tương xứng với công sức mà họ bỏ ra; Họ có khả năng tự kiểm soát cuộc sống của mình và được hưởng cảm giác sáng tạo, đóng góp của mình cho cộng đồng, cho xã hội. Cũng chính người chủ doanh nghiệp phải đối mặt với những thách thức: Phải làm việc suốt ngày đêm nếu họ muốn doanh nghiệp của mình tồn tại và phát triển. Bất lợi cơ bản nhất là những rủi ro với khoản tiền của mình, của gia đình và khoản vay tín
  8. dụng. Nếu là người làm công anh ta có quyền được hưởng lương đều đặn, những khoản phụ cấp định kỳ, thay vào đó người chủ doanh nghiệp không những phải tự quyết định mức lương của mình - thậm chí anh ta còn không có lương khi doanh nghiệp gặp khó khăn - mà còn phải lo lắng cho khoản lương cho công nhân. Với công việc bù đầu, người khởi sự còn phải đối mặt với những khả năng bất ổn trong quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè. b) Các điều kiện của bản thân. Nhiều người lấy làm thích thú với những lợi ích của khởi sự doanh nghiệp cho chính mình mà quên rằng không phải ai cũng có thể khởi sự doanh nghiệp của mình một cách thành công. Rất nhiều công trình nghiên cứu cũng như thực tiễn đã chỉ ra những đặc tính chung cần có đối với một nghiệp chủ thành công, những đặc tính đó được khái quát như sau: Tình thân ái: Hầu hết các lý thuyết về quản lý nhân sự hiện đại đã chỉ ra mối  quan hệ thân thiện giữa lãnh đạo và công nhân viên sẽ tạo cho doanh nghiệp không khí làm việc tốt, gần gũi, công nhân thoải mái trao đổi ý kiến với người chủ là yếu tố thành công hàng đầu của doanh nghiệp, vì thế chủ doanh nghiệp tương lai cần phải hoà nhập với mọi người, phải kiên nhẫn... Sự nhiệt tình: Sự nhiệt tình có sức lôi cuốn, và phong thái truyền cảm sẽ khích lệ  niềm tin và tinh thần tận tuỵ. Sự chân thành: Thẳng thắn, thật thà, lương thiện.  Tác phong công nghiệp: Làm việc sớm và muộn khi cần thiết để giữ cho doanh  nghiệp đạt mức hiệu quả nhất; là người làm việc nỗ lực hết mình và có lương tâm. Cường tráng: Sức khoẻ tốt, có nghị lực phi thường.  Bền bỉ: Người khởi sự phải kiên định về mục đích; không dễ dàng bị nản chí đặc  biệt là trong giai đoạn khó khăn, làm ăn kéo dài, công việc có vẻ chậm trễ. Tích cực: Người khởi sự cần hoan nghênh mọi sự giúp đỡ có tính chất xây dựng;  khát khao học tập từ mọi nguồn có thể; lạc quan, tự tin sẵn sàng chấp nhận rủi ro.
  9. Có sáng kiến: Chủ động; tháo vát, sáng tạo, và tự giác; có thể tự tháo gỡ những  khó khăn không cần sự giúp đỡ của người khác; thu được những ý tưởng tốt mà vận dụng ý tưởng đó vào thực tế kinh doanh. Có trách nhiệm: Khi thất bại thì biết chấp nhận, khi thành công thì không khoe  khoang, khoác lác. Kiên quyết: Nhanh nhạy, không lưỡng lự, can đảm nhưng không khinh suất.  Trên đây chỉ khái quát những đặc tính và cũng là những yêu cầu với một chủ khởi sự để có thể thành công. Tuỳ thuộc vào ngành hàng kinh doanh, quy mô doanh nghiệp, khả năng tài chính... mà những yêu cầu cụ thể sẽ khác nhau cho các doanh nghiệp khác nhau. Hộp 1 dưới đây sẽ chỉ ra yêu cầu với người khởi sự doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ. Chủ doanh nghiệp nhỏ không thể có được những khoản tài chính lớn để có thể thêu từng chuyên gia tư vấn cho từng lĩnh vực cụ thể vì vậy họ cần phải có tổng hợp kiến thức và những đặc tính cá nhân: T ay nghề kỹ thuật. K ỹ năng quản lý kinh doanh. K iến thức về ngành hàng kinh doanh. K hả năng ra quyết định sáng tạo. Đ iều kiện gia đình thuận lợi: người thân thông cảm ủng hộ. C hấp nhận rủi ro. G
  10. iữ được chữ tín. S ức khoẻ. C ó động cơ kinh doanh rõ ràng. Hộp 1: Yêu cầu với một chủ nghiệp nhỏ. c) Nâng cao năng lực làm chủ. Nhiều người khởi sự doanh nghiệp của mình thành công trong khi ngay từ đầu họ chưa có đủ các năng lực cần thiết. Những thiếu sót của họ có khả năng khắc phục được thông qua việc trau dồi thêm. Nhiều người lý luận về một hiện thực là có những chủ doanh nghiệp thành công với trình độ đào tạo kém và họ cho rằng chẳng cần thiết phải học cũng có khả năng thành công. Đó là một quan điểm sai trái. Vấn đề học hỏi phải được hiểu theo nghĩa rộng, nó bao gồm đào tạo và tự đào tạo. Những chủ doanh nghiệp vì một lý do nào đó – hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh gia đình – mà không được đào tạo chính quy, nhưng trong quá trình kinh doanh họ có khả năng thích ứng cao, có khả năng điều chỉnh kịp thời, có khả năng học hỏi nhanh chóng thông qua hoạt động thực tiễn mà không thông qua sách vở. Khoa học là tinh tuý của cuộc sống hiện thực, được đúc kết từ thực tiễn, đến lượt nó khi được phát triển lên một trình độ nhất định nó lại quay lại chi phối thực tiễn. Khoa học kinh tế, khoa học quản lý cũng vậy, việc được đào tạo của người khởi sự cũng cần thực hiện theo hai kênh là bản thân nghiệp chủ phải đào tạo thông qua tự học và đi học. Và sự hỗ trợ đào tạo từ bên ngoài của các tổ chức đào tạo hay xúc tiến cũng là một nhân tố quan trọng.
  11. Nếu một người có khả năng về vấn đề kỹ thuật, anh ta có một bằng sáng chế phát minh và anh ta thấy rằng thật phí khi bán nó cho một doanh nghiệp khác với cái giá mà anh cho là không xứng đáng, anh ta có thể khởi sự cho bản thân mình. Trong tình huống này anh ta nên học hỏi thêm những kiến thức về quản trị kinh doanh. Một người khác có khả năng quản lý rất tốt nhưng chưa có kiến thức kỹ thuật thì có thể trau dồi kiến thức kỹ thuật. Tuy nhiên với những người còn thiếu kiến thức kỹ thuật thì con đường nên làm là liên kết với người có kiến thức kỹ thuật và học hỏi họ. d) Đánh giá tài chính của bản thân. Sau khi chuẩn bị tư tưởng và kiến thức, giờ đây chủ khởi sự phải tính toán nguồn tài chính của bản thân và nguồn tài chính mà anh ta có thể huy động. Trước hết là tài chính của bản thân: chủ nghiệp phải tính toán mức chi tiêu của bản thân và gia đình, tính toán thu nhập có thể đưa vào kinh doanh. Quy mô của vốn tự có của bản thân càng lớn thì quyền chủ động dành cho người khởi sự càng lớn và nguy cơ thất bại do vỡ nợ càng được giảm nhẹ. Ngày nay người ta vẫn thường nói “kiếm tiền bằng sức lực là việc làm bần cùng, kiếm tiền bằng tiền của mình là việc làm bình thường, còn kiếm tiền bằng tiền của người khác và qua đó mang lại tiền cho cả người khác mới là việc nên làm”. Việc có được vốn của người khác có thể thông qua liên kết, liên doanh, đây là việc làm an toàn nhưng cũng đồng nghĩa là chia sẻ lợi ích. Chủ khởi sự cũng có thể thực hiện vay vốn của các tổ chức tín dụng. Trong tình huống này, ý tưởng kinh doanh và bản kế hoạch kinh doanh trở thành một tài sản có ích giúp có được vốn vay. Sau khi dự tính các nguồn vốn có thể huy động chủ nghiệp phải tính tổng số vốn mình có để lựa chọn quy mô, loại hình doanh nghiệp. Các chủ nghiệp nhỏ và rất nhỏ có thể tham khảo tính toán tài chính khởi sự trong hộp 2 sau: STT Chỉ tiêu Số lượng tiền 1 Tiền hiện có của chủ nghiệp ----------- 2 Thu nhập của nghiệp chủ (/tháng). -----------
  12. 3 Thu nhập gia đình(/tháng). ----------- 4 Chi tiêu bản thân và gia đình (/tháng) ----------- 5 Tiền dư cho kinh doanh trong năm 12 x {(2)+(3)-(4)} 6 Tổng vốn kinh doanh năm đầu khởi sự của nghiệp (1)+(5) chủ 7 Vốn huy động của đối tác(bạn bè, người thân...) ----------- 8 Vốn mà doanh nghiệp có thể vay. ---------- 9 Tổng số vốn ban đầu kinh doanh (6)+(7)+(8) Hộp 2: Tính toán khả năng tài chính cho khởi sự. 1.2. Lựa chọn ý tưởng kinh doanh. Sau khi đã nhận thức về bản thân như ở phần trước người khởi sự đã biết có nên kinh doanh hay không. Nếu như câu trả lời là có thì phải tiến hành tìm kiếm và lựa chọn cơ hội kinh doanh cho mình. Và bước đầu tiên là xác định loại hình kinh doanh phù hợp. a) Lựa chọn loại hình kinh doanh. Có nhiều loại hình kinh doanh khác nhau nhưng có thể phân vào 4 loại: Kinh doanh thương mại: Nói đến kinh doanh thương mại người khởi sự có thể hiểu một cách giản đơn là dùng “vốn” của mình để mua hàng hoá từ người bán buôn hoặc người sản xuất để đem bán cho khách hàng khác, khách hàng lại có thể là người bán khác hay là người tiêu dùng cuối cùng. Thực ra, kinh doanh thương mại được hiểu rộng rãi hơn nhiều nó bao gồm cả kinh doanh nhiều loại hàng hoá vô hình khác – dịch vụ, nhưng trong phạm vi mà người khởi sự cần quan tâm thì kinh doanh thương mại được xem là thương mại hàng hoá, tức là đối tượng mua bán ở đây là hàng hoá hữu hình. Còn kinh doanh các hàng hoá chủ yếu là vô hình khác thì lại được xếp vào kinh doanh dịch vụ. Kinh doanh sản xuất: Là sử dụng trình độ, máy móc hay tay nghề để tạo ra sản phẩm. Tất nhiên sản xuất nông lâm nghiệp hay ngư nghiệp cũng là kinh doanh sản xuất
  13. nhưng những loại hình này có những đặc thù riêng nên được xét riêng thành kinh doanh nông lâm ngư nghiệp. Vậy nên lựa chọn loại hình kinh doanh nào? Nhìn chung, cần căn cứ vào điểm yếu, điểm mạnh của bản thân nghiệp chủ, căn cứ vào yêu cầu của từng loại hình kinh doanh. Hình 2 dưới đây sẽ thể hiện khái quát yêu cầu của từng loại hình kinh doanh. Trên c ơ sở đó người khởi sự phải so sánh, đối chiếu với những gì mình có, những gì thuộc về thế mạnh, điểm yếu để lựa chọn một loại hình phù hợp. Dịch vụ: Thương mại: - Cung cấp dịch vụ đúng - Địa điểm và hình thức lúc, đúng địa điểm. đẹp. - Chất lượng dịch vụ phải - Trình độ bán hàng phải cao. tốt. - Giá dịch vụ hợp lý. - Hàng hoá bán phải thoả - Dịch vụ hỗ trợ khách mãn nhu cầu khách hàng hàng. nhắm tới. - Các yêu cầu khác - Giá bán phải hợp lý. Định hướng tới khách - Lưu kho phải hợp lý. hàng và người lao động. - Các yêu cầu khác. - Quan tâm đến lợi ích khách hàng để thu được lợi nhuận. - Quan tâm đến lợi ích công nhân để khuyến khích lao động tích cực. Sản xuất: Nông lâm ngư nghiệp. - Hiệu quả sản xuất phải - Phải sử dụng hiệu quả cao. đất đai và nguồn nước. - Bố trì nhà xưởng phải - Việc bán sản phẩm phải hợp lý. kịp thời vụ. - Cung cấp nguyên vật - Chi phí cho sản xuất thì liệu, tồn kho nguyên vật không cao. liệu phải hợp lý. - Vấn đề vận chuyển phải - Năng xuất lao động cao. kịp thời.. - Chất lượng sản phẩm - Cần phải bảo tồn đất đai phải cao. và nguồn nước. - ít thất thoát, hao phí. Hình 2: Yêu cầu đối với từng loại hình kinh doanh. b) Tìm kiếm ý tưởng kinh doanh tốt. ý tưởng kinh doanh là vấn đề cốt lõi. Sẽ không thể tiến hành kinh doanh nếu không có được ý tưởng kinh doanh tốt. Một ý tưởng kinh doanh tồi được thực thi sẽ chỉ mang
  14. lại thất bại. Có 2 cách để có thể tìm được một ý tưởng kinh doanh tốt, hai cách đó dựa trên 2 quan điểm chủ đạo: Quan điểm định hướng sản xuất: Theo quan điểm này, người khởi sự sẽ tìm ra được ý tưởng kinh doanh dựa trên những thứ mình có, như nhà máy của cha mẹ để lại, khả năng giải quyết vấn đề của bản thân... để tiến hành kinh doanh. Có thể diễn đạt một cách đơn giản quan điểm này như sau: Tôi có khả năng về tin học, tôi đã được đào tạo về phần cứng nên tôi sẽ kinh doanh sửa chữa máy vi tính. Hay như: cha mẹ tôi cho tôi một căn hộ mặt phố rất tiện lợi vì thế tôi quyết định kinh doanh thương mại, tôi sẽ bán hàng... Quan điểm định hướng khách hàng: Theo quan điểm này người khởi sự có thể tìm kiếm ý tưởng kinh doanh dựa trên những nhận thức của anh ta về nhu cầu thị trường về loại sản phẩm dịch vụ mà anh ta muốn cung cấp. Ví như: Khi thấy như cầu về thị trường đối với loại máy điện thoại di động rất cao, khả năng kinh doanh thành công là rất lớn vì thế tôi quyết định buôn điện thoại di động. Hay như, nhận thấy nhu cầu về một loại sản phẩm có khả năng xử lý rác cho các gia đình tại khu chung cư cao tầng là rất cần thiết tôi đã nẩy ra ý tưởng là tạo ra một loại thùng chứa rác thải sinh học có khả năng phân huỷ rác thải tạm thời, không gây mùi hôi. Một ý tưởng tốt là ý tưởng kết hợp được 2 quan điểm trên. Nếu người khởi sự đã có những thứ mình có để tiến hành kinh doanh thì những ý tưởng kinh doanh của anh ta phải làm sao phù hợp với nhu cầu khách hàng và xu hướng biến động nhu cầu tiêu dùng khách hàng hiện nay. Ngược lại, khi phát hiện ra nhu cầu thị trường nào đó người khởi sự nên tận dụng những nguồn lực sẵn có của mình tiến hành kinh doanh tránh lãng phí. Ví dụ: khi có được mảnh đất mặt đường thuận tiện người khởi sự quyết định kinh doanh thương mại nhưng anh ta sẽ buôn bán loại hàng gì? anh ta thấy nhu cầu ô tô ngày càng cao anh ta định làm đại lý ô tô cho Toyota nhưng vì yêu cầu vốn quá lớn nên anh ta phải chuyển sang kinh doanh điện thoại di động cũng là sản phẩm có nhu cầu cao hiện nay. c) Thử nghiệm và phát triển ý tưởng kinh doanh.
  15. Khi người khởi sự đã hình thành được ý tưởng kinh doanh của mình thì cần phải tiến hành phân tích xem ý tưởng đó có thực thi hay không. Có nhiều cách thức để phân tích, thử nghiệm ý tưởng nhưng cách tốt nhất và phổ biến nhất là mô hình SWOT (Mô hình phân tích điểm mạnh - điểm yếu, cơ hội - nguy cơ) Trên cơ sở phân tích điểm mạnh điểm yếu, cơ hội và nguy cơ người chủ khởi sự có thể nhận ra có nên khởi sự theo ý tưởng kinh doanh này hay không. Kết quả phân tích có thể dẫn tới:  Tiếp tục ý tưởng kinh doanh và làm một bản luận chứng khả thi đầy đủ.  Thay đổi ý tưởng kinh doanh này.  Bỏ qua hoàn toàn ý tưởng kinh doanh này, tiến hành tìm kiếm ý tưởng kinh doanh mới. Nếu quyết định phát triển ý tưởng kinh doanh này, người khởi sự cần phát triển nó thành một kế hoạch kinh doanh hoàn chỉnh. ở giai đoạn này người khởi sự cần nhiều thông tin và những thông tin cần đến phải chính xác. Những thông tin cơ bản cần đến có thể khái quát gồm: Thông tin về chính sách, xu hướng biến động môi trường vĩ mô như: Công nghệ, kinh tế, xã hội, nhân khẩu, chính trị..., những thông tin về thị trường bao gồm khách hàng và đối thủ cạnh tranh... 2. Lập kế hoạch kinh doanh. 2.1. Phân tích thị trường. Dù cho người ta dự định thành lập loại hình doanh nghiệp nào và việc thành lập đó là nhắm vào một thị trường mới hay là thị trường đã có sự cạnh tranh gay gắt, thì mỗi nghiệp chủ tương lai cũng cần phải phải dựa trên số liệu thị trường được nghiên cứu kỹ làm cơ sở cho các quyết định của mình. a) Tìm hiểu khách hàng. Khách hàng có ý nghĩa sống còn với công việc kinh doanh. Có được lợi nhuận thì phải cung cấp cho khách hàng những gì mà họ cần đó là sản phẩm – dịch vụ với tổng thể các nhân tố tạo thành cái được gọi là “sản phẩm đồng bộ”, tức là sản phẩm dịch vụ
  16. có khả năng đáp ứng các cấp độ nhu cầu khác nhau. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, sự thoả mãn của khách hàng phải trên cơ sở lợi ích mà khách hàng có được và chi phí cho sản phẩm dịch vụ phải chi ra cho việc tiêu dùng đó. Một sản phẩm dịch vụ tốt phải là sản phẩm dịch vụ có khả năng thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng hay ít nhất cũng phải thoả mãn tốt hơn sản phẩm dịch vụ của đối thủ cạnh tranh, vì thế mà vấn đề giá cả của sản phẩm dịch vụ, các dịch vụ hỗ trợ khách hàng cũng là nhân tố tham gia trực tiếp vào việc làm thoả mãn khách hàng. Vậy vấn đề cốt lõi ở đây là thông tin về khách hàng. Chủ doanh nghiệp tương lai phải trả lời được những câu hỏi cơ bản sau:  Doanh nghiệp sẽ hướng vào những loại khách hàng nào? những thông tin về loại này càng cụ thể càng tốt. Khách hàng là nam – nữ, làm những nghề nghiệp gì, ở khoảng độ tuổi nào, thuộc tầng lớp xã hội nào, họ là người dân tộc nào, sống ở đâu, mua hàng ở đâu, thích mua vào khi nào...  Khách hàng cần hàng hoá và dịch vụ gì? Đâu là đặc tính cốt lõi của sản phẩm dịch vụ, điểm mạnh cốt yếu của sản phẩm cung ứng là gì? Về màu sắc, kích thước, chất lượng, hay giá cả?...  Khách hàng sẽ chấp nhận mức giá bao nhiêu cho sản phẩm dịch vụ cung ứng?  Khách hàng có mua hàng thường xuyên không?  Họ mua với số lượng nhiều hay ít?  Tại sao họ lại mua sản phẩm này, có những khả năng nào mà khách hàng có thể chuyển sang sử dụng sản phẩm khác.  v.v... Nhìn chung, người khởi sự có khả năng điều tra được các thông tin loại này càng cụ thể càng tốt. b) Nắm được thông tin về đối thủ cạnh tranh. Như đã đề cập, để có thể thành công sản phẩm dịch vụ phải thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng hay ít ra cũng phải thoả mãn tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Trên thị trường, dù là người đi tiên phong trong một lĩnh vực mới thì chủ khởi sự vẫn chắc chắn
  17. phải gặp đối thủ cạnh tranh, không chỉ có cạnh tranh trực tiếp mà còn phải đối mặt với nhiều cấp độ cạnh tranh khác nhau như cạnh tranh loại sản phẩm dịch vụ, cạnh tranh ngành... Vì những lý do đó, để thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng so với đối thủ cạnh tranh thì người khởi sự cần phải lắm rõ thông tin cạnh tranh gồm:  Mức độ cạnh tranh theo ngành.  Cạnh tranh sản phẩm.  Cạnh tranh nhãn hiệu.  Đối thủ cạnh tranh trực tiếp: Họ bán với giá bao nhiêu? Chất lượng hàng hoá và dịch vụ của họ như thế nào? Họ cung cấp thêm những dịch vụ gì? Giá thuê địa điểm kinh doanh của họ là cao hay thấp? Trang thiết bị có hiện đại hay không? Nhân viên của họ có được đào tạo chu đáo hay không? trả lương cao hay thấp? Họ có quảng cáo hay không? Quy mô, mức độ quảng cáo có cao không? Họ phân phối dịch vụ như thế nào? Chiến lược kinh doanh của họ là như thế nào? và v.v... Kết luận cuối cùng của việc phân tích đối thủ cạnh tranh là chỉ ra được những điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh và có thể so sánh vơi bản thân. Vậy làm thế nào để biết được thông tin về khách hàng và đối thủ cạnh tranh?. Nếu như những nghiệp chủ lớn thường sử dụng hệ thống thông tin hai cấp là: Hệ thống thông tin tình báo và Hệ thống nghiên cứu thông tin – tiến hành điều tra, thí nghiệm. Thông thường người khởi sự không có đủ điều kiện để thực hiện điều đó, khi đó họ có thể thực hiện thu thập thông tin như trong Hộp 3 dưới đây.
  18. Dự đoán dựa trên sự hiểu biết sẵn có: Bằng kinh nghiệm hiểu biết của mình, người khởi sự có thể ước tính mức độ cạnh tranh, tính toán được mức độ tiêu dùng hiện tại và dự đoán biến động nhu cầu tiêu dùng tương lai. Cách này dựa trên sự hiểu biết chủ quan nên thường ít chính xác, tuy nhiên nó cũng mang lại nhiều hữu ích. Sử dụng thông tin trong ngành: Chủ khởi nghiệp có thể tham khảo thông tin thứ cấp từ các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin từ các tổ chức độc lập, thông tin từ cơ quan nhà nước, thông tin từ các nhà tư vấn. Các thông tin thứ cấp thường là không cập nhật và ít hữu ích, các thông tin tư vấn thường phải chi phí nhiều. Tham khảo ý kiến:Người ta có thể tham khảo ý kiến của bạn bè, ng ười thân, đặc biệt có thể tham khảo ý kiến trực tiếp của khách hàng thông qua phiếu điều tra. Hộp 3: Cách thức thu thập thông tin thị trường. 2.2. Lập kế hoạch Marketing. Với thông tin đã thu thập được người khởi sự sẽ lập được cho mình kế hoạch Marketing theo nguyên tắc 4P. a) Sản phẩm (Product). ở đây nghiệp chủ phải quyết định bán sản phẩm hàng hoá dịch vụ nào với những đặc tính phù hợp với nhu cầu khách hàng ra sao? Quyết định về sản phẩm cần phải được hiểu là gồm cả việc quyết định các nhân tố cấu thành sản phẩm dịch vụ:  Chất lượng hàng hoá.  Bao bì sản phẩm.  Thương hiệu.  Dịch vụ hỗ trợ sản phẩm như bảo hành, tư vấn, vận chuyển, xếp dỡ... b) Giá cả (Price). Là chi phí mà khách hàng phải bỏ ra để có được sự thoả mãn. Việc định giá cũng là một vấn đề phức tạp, nó phụ thuộc vào nhiều nhân tố, như chiến lược kinh doanh, các
  19. chiến lược giá, mục tiêu của doanh nghiệp. Nhưng dù sản phẩm hàng hoá dịch vụ được định giá giá như thế nào nó vẫn phải gồm các thành phần:  Chi phí sản xuất cho sản phẩm dịch vụ.  Chi phí xúc tiến và chi phí ngoài sản xuất khác.  Lợi nhuận dự kiến. Các cấu thành giá cả sản phẩm dịch vụ này yêu cầu phải có tính linh hoạt cao. Nó không thể cứng nhắc trên cơ sở những chi phí sản xuất mà còn phải căn cứ vào sự sẵn sàng chấp nhận của khách hàng, vào mức giá bán ra của đối thủ cạnh tranh. Với tổng thể các nhân tố này, nghiệp chủ thậm chí phải chấp nhận mức lãi suất âm. c) Địa điểm (Place). Địa điểm cũng góp phần vào việc thoả mãn khách hàng. Địa điểm thuận lợi cũng có nghĩa là chi phí cung cấp của doanh nghiệp thấp, chi phí mua hàng của khách hàng thấp, người mua hàng không phải mất nhiều thời gian tìm kiếm... tất cả làm tăng giá trị sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng cho khách hàng. Những yêu cầu cơ bản với một địa điểm tốt:  Tiện lợi cho giao thông.  Tiện lợi cho quan sát.  Tại nơi tập trung đông khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp.  Không gây ra những xung đột với các quy định pháp luật như: giao thông vận tải... d) Xúc tiến bán (Promotion). Xúc tiến bán là tổng thể các hoạt động không trực tiếp nhằm thúc đẩy việc bán được sản phẩm, nó bao gồm các hoạt động cơ bản như:  Quảng cáo.  Khuyến mại.
  20.  Hội chợ triển lãm.  Bán hàng trực tiếp.  Quan hệ công chúng và các hoạt động khuếch trương khác. Nhìn chung, việc xúc tiến bán cần phải chi phí nhiều và vấn đề đặt ra với doanh nghiệp mới là lựa chọn và sử dụng các phương thức, phương tiện xúc tiến nào một cách hợp lý nhất. 2.3. Lựa chọn hình thức pháp lý phù hợp. Chủ khởi sự có thể chọn nhiều hình thức pháp lý khác nhau. Hình thức pháp lý ảnh hưởng đến chủ nghiệp trên nhiều phương diện:  Thủ tục đăng ký kinh doanh.  Rủi ro về mặt tài chính.  Khả năng tăng vốn kinh doanh.  Việc ra quyết định trong kinh doanh.  Thuế và các trách nhiệm pháp lý khác.  Tính năng động trong vận hành doanh nghiệp. ở Việt Nam tồn tại các hình thức pháp lý sau đây:  Doanh nghiệp nhà nước do Luật Doanh nghiệp nhà nước điều chỉnh.  Hợp tác xã do Luật Hợp tác xã điều chỉnh.  Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty Hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân, Hộ kinh doanh cá thể do Luật Doanh nghiệp điều chỉnh.  Doanh nghiệp có vốn 100% nước ngoài, Doanh nghiệp liên doanh, Hợp đồng hợp tác kinh do Luật Đầu tư nước ngoài điều chỉnh.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1