Tiểu luận: Khủng hoảng Đông Á
lượt xem 19
download
Tiểu luận: Khủng hoảng Đông Á trình bày về các nội dung chính: diễn biến khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á, nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng Đông Á, tác động của khủng hoảng Đông Á và các bài học kinh nghiệm và một số đề xuất cho nền kinh tế Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Khủng hoảng Đông Á
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á Tiểu luận Khủng hoảng Đông Á Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 -1-
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á LỜ I MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khu vực Đông Á, cuộc khủng hoảng kinh tế cũng âm thầm đi theo và bùng nổ nhanh chóng từ mùa hè năm 1997. Cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, làm thiệt hại nặng nề nền kinh tế ở các nước châu Á và lan rộng ra nhiều nước trên thế giới. Từ những hậu quả khắc nghiệt của cuộc khủng hoảng, người ta đã nhận thức rõ hơn về sự cần thiết phải đối phó với khủng hoảng và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, đồng thời nỗ lực tìm những biện pháp khắc phục hiệu quả nhất. Ngày nay, tất cả các quốc gia đều đã có những chiến lược phát triển kinh tế riêng, đưa đất nước đạt những mục tiêu tăng trưởng nhất định nhưng cũng luôn cảnh giác, tìm cách ngăn chặn các cuộc khủng hoảng kinh tế có thể diễn ra. Sự thành công hay thất bại còn đòi hỏi sự hỗ trợ, hợp tác của nhiều quốc gia, thậm chí là của toàn cầu nên đề tài về khủng hoảng kinh tế vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Từ yêu cầu thực tiễn trên, nhóm chúng tôi đã nghiên cứu về đề tài “Khủng hoảng Đông Á” để tìm tìm ra những nguyên nhân, những kinh nghiệm thực tiễn có ích cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Kết cấu của đề tài gồm có 3 phần, cụ thể như sau: + Phần 1: Diễn biến khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á. + Phần 2: Nguyên nhân, tác động. + Phần 3: Bài học kinh nghiệm và một số đề xuất. Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 -2-
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á PHẦN I KHÁI Q UÁT DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HO ẢNG TÀI CHÍNH ĐÔ NG NAM Á 1. Một số khía cạnh lý thuyết về khủng hoảng. 1.1 Khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong thời đại hiện nay là gì? Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn đến sụp đổ quỹ. Đặc trưng của mỗi quỹ cấu thành nên hệ thống tài chính là các dòng tiền vào/ra, nhận/thanh toán, hình thành tài sản có/tài sản nợ. Khi xảy ra hiện tượng mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số lượng, thời hạn, chủng loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính. Như vậy, khủng hoảng tài chính là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho mọi loại khủng hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó. Chính vì vậy, khủng hoảng tài chính có đặc điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng “thừa” diễn ra trong nền kinh tế thị trường từ nhiều năm nay. Một số dạng khủng hoảng tài chính đặc thù như: * Khủng hoảng ngân hàng; * Khủng hoảng nợ quốc gia; * Khủng hoảng tiền tệ; * Khủng hoảng thị trường chứng khoán; * Khủng hoảng cán cân thanh toán/ Cán cân vãng lai/ Cán cân vốn; * Khủng hoảng khả năng/ tính thanh khoản; * Khủng hoảng ngân sách. Đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất hiện thêm nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của thị trường tài chính trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 -3-
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1.2 Các mô hình khủng hoảng cơ bản Dựa trên đặc điểm và tính chất của các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã nổ ra, các học giả đã xây dựng nên 3 mô hình khủng hoảng cơ bản như sau: a) Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được P. Krugman (1979) xây dựng và chủ yếu đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai trong điều kiện tỷ giá cố định bị các hoạt động đầu cơ tấn công. M ô hình này xảy ra ở một số nước có nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém, ngân sách thâm hụt trầm trọng, cung tiền tăng quá mức (có thể do Chính phủ in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách) khiến lạm phát gia tăng; những điều này dẫn đến cán cân vãng lai thâm hụt trầm trọng. Trước nguy cơ đồng nội tệ bị giảm giá, Chính phủ buộc phải liên tục can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra thị trường để duy trì tỷ giá cố định. Khi lượng dự trữ ngoại hối giảm xuống một mức thấp nhất định nào đó, các cuộc tấn công mang tính đầu cơ bắt đầu xảy ra, cùng với các điều kiện nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém và thậm chí là sự gia tăng căng thẳng về chính trị và xã hội, đến một thời điểm nào đó, Chính phủ buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá làm cho đồng nội tệ bị mất giá liên tục và khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Mô hình này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng hoảng ở một số nước châu Mĩ La Tinh vào cuối những năm 1970, đầu những năm 1980 và trong những năm 1990. b) Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld (1994 và 1995) xây dựng. Khủng hoảng dạng này còn được gọi là khủng hoảng tự phát sinh (self- fulfilling crisis), có thể xảy ra ở những nước có mức độ yếu kém về tài chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố định của Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp bảo vệ tỷ giá quá tốn kém (chẳng hạn do thắt chặt tiền tệ, lãi suất bị đẩy lên cao, gây tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm). Trước tín hiệu đó, các nhà đầu cơ có thể bán tháo đồng nội tệ để mua ngoại tệ. Những sức ép này buộc Chính phủ không có cách nào khác là phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định để thực thi chính sách tiền tệ mở rộng trước những cuộc tấn công quy mô của giới đầu cơ tiền tệ, và hậu quả là khủng hoảng bùng phát. Biến thể khác của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai xuất phát từ tình trạng thông tin không hoàn hảo mất đối xứng. Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 -4-
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á Trong điều kiện một hoặc một số ngân hàng có “vấn đề”, tình trạng này dẫn đến hành vi “bầy đàn”, gây hoảng loạn tài chính và rốt cuộc dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Mô hình này có thể thấy trong cuộc khủng hoảng của Hệ thống tiền tệ châu Âu (European Monetary System) năm 1992-1993. c) Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno (1999) xây dựng, đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế (Balance of Payment). Khủng hoảng tài khoản vốn thường dẫn đến khủng hoảng “kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng. Việc tự do hoá tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kép: + Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai (CA Deficit) đã khiến cán cân thanh toán (BOP) thặng dư và dự trữ ngoại hối tăng. Điều này dẫn tới sự bành trướng tín dụng, đầu tư và tiêu dùng trong nước. Điểm mấu chốt ở đây là việc đầu tư quá mức (dư thừa năng lực sản xuất), đầu tư kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản…), đã dẫn tới hậu quả là thâm hụt cán cân vãng lai tăng, xuất hiện nền “kinh tế bong bóng” và mức cung dư thừa. Khi các nhà đầu tư nhận thức được những yếu kém kể trên và những dấu hiệu bất ổn khác như sự sụt giảm giá bất động sản và cổ phiếu cũng như các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, họ đồng loạt rút vốn ra khỏi nền kinh tế. Hậu quả là cán cân thanh toán trở nên thâm hụt trầm trọng và dự trữ ngoại hối dần cạn kiệt, báo hiệu về một cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra. + Trong điều kiện tự do hoá cán cân vốn, một lượng vốn ngắn hạn với tỷ trọng quá lớn (lớn hơn nhiều dự trữ ngoại hối) đã đổ vào nền kinh tế. Trong điều kiện giám sát các khoản vay nợ kém hiệu quả, một lượng lớn vốn vay ngắn hạn bằng ngoại tệ đã được cho vay bằng nội tệ để đầu tư dài hạn vào những dự án kém hiệu quả đã dẫn đến vấn đề “sai lệch kép” trầm trọng. Bảng cân đối tài sản của các công ty cũng như của hệ thống ngân hàng - tài chính xấu đi một cách trầm trọng khi đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn lớn của các nhà đầu tư nước ngoài bị rút ra đột ngột; đến lượt nó, tài sản ròng của các ngân hàng bị sụt giảm, dẫn đến tín dụng càng bị thắt chặt và bảng cân đối tài sản của các ngân hàng càng tồi tệ hơn. Quá trình tác động Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 -5-
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á vòng xoáy và cộng hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát trong một thời gian rất ngắn và đẩy các nền kinh tế ngập sâu vào vòng suy thoái. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 được coi là ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba. 1.3 Diễn biến chung của cuộc khủng hoảng a) Năm 1997 - Ngày 2-7, sau khi tung ra gần 24 tỷ USD để giữ giá đồng bạt nhưng không thành công, Ngân hàng Trung ương Thái Lan buộc phải tuyên bố thả nổi đồng bạt, mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á. Đồng bạt lập tức mất giá trên 20% (từ 24,45 bạt/USD còn 29,5 bạt/USD). - Ngày 3-7, Ngân hàng Trung ương Philippin tăng lãi suất vay qua đêm từ 15% lên 24%, sau đó (ngày 7-7) lên 30%; đồng thời bỏ ra 1 tỷ USD để giữa giá đồng peso nhưng cũng không thành công. - Ngày 4-7, Philippin tuyên bố thả nổi đồng pêsô. - Ngày 5-8, tiếp theo việc đóng cửa 16 công ty tài chính vào ngày 27-6, Ngân hàng Trung ương Thái Lan tạm ngưng hoạt động của 42 công ty tài chính, đưa tổng số công ty bị đóng cửa lên 58/90 với tổng số tài sản nợ 1391 tỷ bạt - Ngày 11-8, Hội nghị đặc biệt ở Tokyo do IM F chủ trì đưa ra chương trình viện trợ cả gói cho Thái Lan là 17,2 tỷ USD, kèm theo các điều kiện ngặt nghèo. Cùng ngày, Malaisia tuyên bố không can thiệp vào thị trường ngoại hối. - Ngày 14-8, Indonesia tuyên bố thả nỏi đồng rupiah sau khi Ngân hàng Trung ương đã chi 1,5 tỷ USD để can thiệp vào thị trường, mở rộng biên độ giao dịch từ 8% lên 12% nhưng vẫn không khắc phục được tình hình - Ngày 19-8, Singapore tuyên bố không can thiệp vào thị trường ngoại hối - Ngày 19-9, Bộ trưởng tài chính Philippin được các nước Châu Á ủy quyền đứng ra đề nghị thành lập Quỹ hộ trợ tài chính khu vực Châu Á (quy mô 100 tỷ USD) theo sáng kiến của Nhật Bản Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 -6-
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - Ngày 23-10, thị trường chứng khoán Hong Kong sụt 10,4% (1.211,47 điểm), mở đầu đợt khủng hoảng thị trường chứng khoán toàn cầu - Ngày 27-10, lần đầu tư kể từ năm 1987, thị trường chứng khoán M ỹ phải đóng cửa một giờ sau khi giá cổ phiếu giảm 554 điểm - Ngày 28-10, Sở giao dịch chứng khoán Toronto ngừng giao dịch 30 phút khi chỉ số TSE giảm 5% - Ngày 31-10, IMF công bố khoản việc trợ cả gói 43 tỷ USD cho Indonesia sau khi Chính phủ Indonesia công bố các biện pháp cải cách kinh tế trong 3 năm tới theo thỏa thuận với IMF (tiết kiệm chi tiêu, xóa bỏ độc quyền, xóa bỏ bảo hộ mậu dịch…) - Ngày 3-11, Thủ tướng Thái Lan Chavalit tuyên bố từ chức - Ngày 17-11, đồng won Hàn Quốc giảm giá mạnh, vượt quá mức 1000won/USD, đạt 1.008,6 won/USD - Ngày 21-11, Bộ trưởng Tài chính Hàn Quốc thông báo Chính phủ Hàn Quốc chính thức đề nghị IMF hỗ trợ - Ngày 24-11, Yamaichi-một trong bốn công ty chứng khoán lớn nhất Nhật Bản tuyên bố phá sản, kết thúc 100 năm tồn tại, để lại khoản nợ không có khả năng thanh toán lên tới 3.000 tỷ Yên (25 tỷ USD). Đây là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử N hật Bản - Ngày 3-12, IM F đã công bố khoản hỗ trợ tài chính cả gói 57 tỷ USD cho Hàn Quốc sau một tuần đàm phán căng thẳng - Ngày 23-12, đồng won giảm xuống mức kỷ lục: 1920won/USD do có tin Hàn Quốc nợ tới 220 tỷ USD, IM F và G7 quyết định giải ngân khẩn cấp cho Hàn Quốc 10 tỷ USD b) Năm 1998 - Ngày 5-1, mở đầu chiến dịch quyên góp vàng để khắc phục khủng hoảng của Hàn Quốc. Chiến dịch này được nhân dân Hàn Quốc hưởng ứng mạnh mẽ (đến giữa tháng 3 đã quyên góp được 225 tấn, xuất khẩu 196,3 tấn, thu 1,82 tỷ USD) Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 -7-
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - Ngày 8-1 đồng Rupiah của Indonesia lần đầu tiên đã vượt trên mức 10.000 rupiah/USD lên 10.225 rupiah/USD. Sau đó, hàng loạt các đồng tiền khác trong khu vực đều bị mất giá ở mức kỷ lục mới - Ngày 2-2, Chính phủ Trung Quốc ra thông báo không phá giá đồng nhân dân tệ - Ngày 11-2, Bô trưởng Tài chính Indonesia thông báo Indonesia sẽ sớm thiết lập chế độ bản vị tiền tệ (CBS), theo đó tỷ giá rupiah sẽ được cố định so với đôla Mỹ (giải pháp IM F plus) - Ngày 15-2, Hội nghị hàng năm lần thứ 33 thống đốc các ngân hàng trung ương ASEAN quyết định thành lập đội đặc nhiệm tiền tệ ASEAN nhằm nghiên cứu kỹ thuật cho việc áp dụng chế độ đồng tiền chung ASEAN - Ngày 10-3, ông Suharto tái đắc cử Tổng thống Indonesia nhiệm kỳ thứ bảy. Cùng ngày, IMF đe dọa sẽ hoãn giải ngân 3 tỷ USD cho Indonesia cho tới khi nước này từ bỏ ý định bản vị tiền tệ. - Ngày 6-4, IMF cho rằng thời điểm tồi tệ nhất của khủng hoảng kinh tế Châu Á đã qua. - Ngày 8-4, cuộc đàm phán hơn 3 tuần giữa IMF và Indonesia đã kết thúc và đạt được thỏa thuận về các chương trình cải cách kinh tế của nước này. - Ngày 5-5, Indonesia tăng giá xăng lên 71,43%, dầu hỏa -25%, điện dân dụng-60%, cước phí vận chuyển – 50% …gây bất bình lớn trong xã hội (việc tăng giá này nằm trong khuôn khổ thỏa thuận với IMF ngày 15-1-1998 nhằm từng bước xóa bỏ bao cấp về giá). - Ngày 12-5, biểu tình của sinh viên lan rộng ra nhiều thành phố của Indonesia, cảnh sát nổ súng làm 6 sinh viên bị chết. - Ngày 14-5, sinh viên các trường đại học ở hầu khắp Indonesia đã nghỉ học để biểu tình tưởng nhớ 6 sinh viên bị thiệt mạng. Lần đầu tiên ông Suharto tuyên bố có thể từ chức. Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 -8-
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - Ngày 16-5, đã có khoảng 500 người thiệt mạng và hàng nghìn người bị thương trong 4 ngày bạo loạn ở Jakarta. Chính phủ tuyên bố giảm giá nhiên liệu (xăng-dầu) trung bình 8,33% và hủy bỏ kế hoạch tăng giá điện dự tính từ tháng 8 tới. - Ngày 21-5, 9 giờ sang, Tổng thống Indonesia Suharto tuyên bố từ chức, chấm dứt 32 năm cầm quyền, Phó Tổng thống Habibie tuyên thệ nhậm chức Tổng thống. - Ngày 1-6, tỷ giá Yên/USD đã lên đến 138,9 Yen/USD, gần đạt mức kỷ lục 139,82 Yên/USD vào ngày 26-4-1991 - Ngày 3-6, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân tái khẳng định Trung Quốc không phá giá đồng nhân dân tệ. - Ngày 7-6, giá đồng Yên trên thị trường New York tiếp tục giảm mạnh ở mức kỷ lục mới :140,13 Yên/USD - Ngày 9-6, Bộ trưởng cao cấp Lý Quang Diệu cho rằng việc đồng Yên tiếp tục mất giá sẽ gây sức ép phá giá đồng nhân dân tệ. Tuy nhiên, ông tin rằng Trung Quốc sẽ làm tất cả để bảo vệ đồng nhân dân tệ và họ có thể bảo vệ được ít nhất trong một năm - Ngày 12-6, chỉ số Hang Seng của thị trường chứng khoán HongKong giảm 5% xuống dưới mức 8.000 điểm, còn 7.979,37 điểm-đây là mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua. Tại Đài Loan, chỉ số giá chứng khoán cũng giảm 3%, xuống mức thấp nhất trong 11 năm qua, chỉ số giá chứng khoán giảm còn khoảng 300 điểm - Ngày 13-6, Cục quản lý ngoại hối Trung Quốc công bố dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã lên tới 140,91 tỷ USD, tăng 1 tỷ USD so với đầu năm. Đồng Yên Nhật đã giảm còn 144,75 Yên/USD, mức thấp nhất kể từ tháng 8-1990 - Ngày 15-6, đồng Yên Nhật đã mất giá gần tới điểm tâm lý 150 Yên/USD và đạt 146,55 Yên/USD, gây ra sự lo sợ toàn cầu và kéo theo sự mất giá của hầu hết các đồng tiền trong khu vực so với đồng đola M ỹ. Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã khẩn cấp chỉ thị cho các ngành liên quan và các chuyên gia kinh tế nhanh chóng vạch ra phương án đối phó với tình huống khi đồng Yên Nhật xuống dưới mức 150 Yên/USD Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 -9-
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á - Ngày 17-6, Mỹ vào cuộc, lần đầu tiên sau 7 năm, Cục dự trữ liên Bang Mỹ (FED) đã phối hợp với Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) cứu trợ đồng Yên bằng cách cùng bỏ ra 2 tỷ USD để mua đồng Yên vào. Theo AFP, sự phối hợp can thiệp “đáng kinh ngạc” của M ỹ và Nhật gây sửng sốt trên các thị trường làm cho giá đồng Yên lập tức được khôi phục ở mức 136,2 Yên /USD. Dư luận thế giới rất hân hoan trước sự kiện này. Tâm lý lo sợ về một cuộc khủng hoảng vòng hai được giải tỏa - Ngày 20-6, Hội nghị các thứ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng các nước nhóm G7 và 11 nước Châu Á – Thái Bình Dương tại Tokyo thảo luận về việc ổn định đồng Yên, ngăn chặn làn song thứ hai của cuộc khủng hoảng tại khu vực và tìm cách khôi phục nền kinh tế Nhật Bản đang suy thoái chưa từng có trong 23 năm. Hội nghị đưa ra tuyên bố 9 điểm, trong đó hoan nghênh sự phối hợp Nhật – Mỹ can thiệp vào thị trường để hỗ trợ đồng Yên, hoan nghênh Trung Quốc cam kết tiếp tục duy trì tỷ giá đồng nhân dân tệ, kêu gọi Nhật Bản sớm điều chỉnh hệ thống tiền tệ, giải quyết các khoản nợ khó đòi và cái cách chế độ thuế, hoan nghênh cam kết cải cách kinh tế của Indonesia nhằm ổn định tình hình - Ngày 22-6, Phái đoàn IM F do Phó Tổng Giám đốc điều hành, ông Fischer, dẫn đầu đã tới Matxcova đàm phán về việc cho Nga vay 10-15 tỷ USD để ổn định đồng Rup, tránh sự sụp đổ tài chính ở Nga. Chính phủ Nhật Bản quyết định thành lập Cục giám sát tài chính có khoảng 400 nhân viên đê thanh tra các ngân hàng và đánh giá lại các khoản nợ khó đòi trong khu vực ngân hàng đang gặp khó khăn. (Theo ước tính, tổng số nợ của tất cả các ngân hàng có thể lên tới 100 nghìn Yên Nhật, riêng 18 ngân hàng lớn nhất Nhật Bản thừa nhận đang đối đầu với tổng số nợ khó đòi là 21,7 nghìn tỷ Yên, tương đương 164 tỷ USD. Đây là nguyên nhân chính gây ra suy thoái kinh tế ỏ nước này) - Ngày 23-6, Thủ tướng Nga công bố chương trình ngăn chặn khủng hoảng, trong đó có tăn thu 20 tỷ rúp (3,2 tỷ USD); giảm chi 42 tỷ rup, cải cách thuế; giải quyết nợ lương 66,6 tỷ rúp (6,8 tỷ USD) và vay IM F 10-15 tỷ USD. - Ngày 25-6, Indonesia đã đạt được thỏa thuận mới với IMF về việc tiếp tục giải ngân thêm 1 tỷ USD trong tổng số tiền cứu trợ cả gói 43 tỷ USD cho nước này. Đây Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 10 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á là thỏa thuận thứ tư giữa hai bên kể từ tháng 10-1997. Việc giản ngân số tiền trên được coi là dấu hiệu về sự công nhân của IM F đối với chính phủ của ông Habibie. - Ngày 29-6, Ngân hàng thế giới (WB) và Chính phủ Anh đã ký thỏa thuận thành lập Quỹ tín dụng ASEM (được khởi xướng tại Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu-ASEM II hồi đầu tháng 4-1998) để khắc phục hậu quả khủng hoảng. Dự kiến số vốn ban đầu của quỹ vào khoảng 35-40 tỷ USD. - Ngày 30-6, Nhật Bản và 6 nước Châu Âu tuyên bố dự định thành lập cơ chế giám sát khu vực - Ngày 1-7, người đứng đầu Quỹ tiền tệ quốc tế, ông Camdessus kêu gọi các nước đóng góp tài chính vào tổ chức này vì nó sắp cạn tiền do hỗ trợ các nước Châu Á bị khủng hoảng - Ngày 13-7, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto đã tuyên bố từ chức Chủ tịch Đảng Dân chủ tự do và Thủ tướng Chính phủ để nhận trách nhiệm về các thất bại của Đảng Dân chủ tự do trong cuộc bầu cử Thượng viện vào ngày 12-7-1998 - Ngày 11-8, đồng Yên lại tụt xuống mức trên 146 Yên/USD và nhiều nhà kinh tế đã dự đoán đồng Yên có thể mất giá tới 155, thậm chí 160 Yên/USD - Ngày 23-8, Tổng thống Nga Yeltsin đã bất ngờ tuyên bố bãi nhiệm toàn bộ nội các chính phủ bao gồm cả Thủ tướng Kiriyenko, đồng thời tái bổ nhiệm cựu Thủ tướng Chernomurdin đứng ra thành lập chính phủ mới - Ngày 2-9, lần đầu tiên Chủ tịch Giang Trạch Dân đề cập khả năng phá giá đồng nhân dân tệ trong tương lai. Ông nói “Trung Quốc đã lựa chọn con đường duy trì sự ổn định của đồng nhân dân tệ. Hiện nay, điều đó không thay đổi. Song, không phải tình hình cứ tiếp tục như thế mãi bởi không phải lúc nào cũng phán đoán được mọi việc trên thế giới đúng 100%”. Ông Anwar Ibrahim, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Tài Chính M alaisia đã bị cách chức. Ông có thể bị kết án bởi Đạo luật an ninh của Malaisia Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 11 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 2. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tại các nước Đông Nam Á: 2.1 Thái Lan: 2.1.1 Tình hình kinh tế Thái Lan trước khủng hoảng: a) GDP tăng cao, liên tục phát triển, xuất khẩu phát triển: Thái Lan bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa đất nước từ năm 1961, khi bắt đầu kế hoạch phát triển 6 năm lần thứ nhất. Tốc độ tăng trưởng GD P trong thập niên 60 khoảng 8%/năm, trong thập niên 70 khoảng 7%/năm và trong thập niên 80 khoảng 8%/năm. Từ năm 1991 tới 1996, tốc độ tăng trưởng GDP cũng đạt bình quân 7,7%/năm. Thái Lan thực thi một chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu từ thập niên 80: - Năm 1986-1990, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 28%/năm. - Năm 1992 và 1993 khoảng 13%/năm - Năm 1994 và 1995 khoảng 20%/năm - Năm 1996 tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chỉ còn 3,4% so với 1995. Giá trị xuất khẩu theo đầu người đạt 630 USD/người năm 1991 đã tăng lên 1.177 USD/người năm 1996. Như vậy nhìn vào mức độ tăng trưởng GD P của Thái Lan suốt 3 thập kỷ từ 1961 đến 1996 ta thấy rất đáng yên tâm vì tốc độ GD P bình quân hàng năm luôn từ 7% đến 8%. Tuy nhiên, chỉ tiêu GD P mới phản ánh đầu ra của nền kinh tế mà chưa đề cập đến đầu vào. Đầu vào chính là đầu tư. Trong thời kì 1991-1996 đầu tư của Thái Lan rất cao, hàng năm chiếm bình quân 40% GDP. b) Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém hiệu quả Ở Thái Lan trong giai đoạn từ 1991-1996 đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính và sử dụng vốn vay ngắn hạn của nước ngoài. Trong tổng số vốn nước ngoài thuần đã đổ vào Thái Lan là 85,293 tỉ USD thì đầu tư trực tiếp chỉ chiếm 10,36% (8,844 tỉ USD), đầu tư gián tiếp 19,23% (16,404 tỉ USD) và tín dụng, vay ngắn hạn tới 70,4% (60,045 tỉ USD) Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 12 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á Việc sử dụng đến gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn đến các công ty vì phải trả lãi thường xuyên và bằng ngoại tệ (với tín dụng ngắn hạn). Hậu quả là nếu quản lý kinh doanh không tốt thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty sẽ thấp. Tỉ suất thu hồi hay tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình quân của các doanh nghiệp đã giảm từ 8%/năm vào 1991 xuống chỉ còn 1%/năm 1996. Trong một nền kinh tế mà lãi suất cho vay là 16,3%/năm còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng đã đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng phá sản doanh nghiệp. c) Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả: Trước nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và do có phần buông lơi vai trò giám sát hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đi vay nên các ngân hàng và công ty tài chính Thái Lan đã rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước. Tổng số nợ nước ngoài của hệ thống Ngân hàng Thái Lan so với cung tiền M2 đã tăng từ 2,8% năm 1991 lên 28,69% năm 1996. Tổng số nợ nước ngoài so với tổng tài sản nước ngoài mà hệ thống ngân hàng có đã tăng từ 171% năm 1991 lên 694% năm 1996. Trong cùng thời gian này tỉ lệ lợi nhuận trên tài sản của hệ thống ngân hàng Thái Lan đã giảm chỉ còn 0,99%/năm. Rõ ràng Thái Lan đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng. d) Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán: Trong suốt các năm 1991-1996. cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới 14,7 tỉ USD. Một lý do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kiềm hãm, nhập khẩu được khuyến khích khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định (25 bath/USD), lạm phát trong nước cao hơn Mỹ (5% so với 3%) làm cho đồng bath bị lên giá so với USD. Để bù đắp khoản thâm hụt thương mại 35,26 tỷ USD và để có vốn đầu tư với mức bình quân 40% GDP mỗi năm, thì con đường không tránh khỏi là phải vay tiền nước ngoài.Vì vậy nợ nước ngoài của Thái Lan không ngừng tăng từ 35,99 tỉ USD năm 1991 lên 89 tỉ USD năm 1996, gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm và bằng 54% Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 13 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á GD P. Mặc dù số nợ này được dùng cả để tăng dự trữ quốc gia, từ 18,4 tỷ USD năm 1991 lên 38,7 tỉ USD năm 1996, song do đầu tư tài chính và tín dụng ngắn hạn chiếm tới 90% tổng vốn đầu tư từ nước ngoài hàng năm nên số nợ ngắn hạn chiếm tỉ trọng tới 67% tổng số nợ nước ngoài năm 1995 và 51% năm 1996, và nợ ngắn hạn năm 1995 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ của quốc gia và năm 1996 gấp 1,18 lần. Tức là Thái Lan thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. 2.1.2 Diễn biến khủng hoảng tài chính ở Thái Lan Khi xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng, những người có đủ thông tin về các nguy cơ này tất sẽ lo lắng. Lo sợ các ngân hàng và tổ chức tài chính phá sản, họ mất tiền đã gửi sẽ thúc đẩy họ rút tiền ra khỏi các tổ chức này. Lo sợ tỷ giá hối đoái tăng, đồng tiền bath mất giá sẽ khiến họ đổ xô đi mua đô la làm cầu đô la tăng. Thực tế từ đầu năm 1997 đến tháng 3/1997 người dân và các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn của mình ở dạng tiền mặt ra khỏi các ngân hàng và công ty tài chính buộc chính phủ phải đóng cửa thị trường chứng khoán một ngày và yêu cầu mọi tổ chức tài chính phải có thêm dự trữ tiền mặt và công bố 10 công ty tài chính đang ở trạng thái không bình thường. Cuộc khủng hoảng ở Thái Lan bùng nổ do hoạt động người dân và nhà đầu tư rút vốn khỏi các ngân hàng làm phá sản hàng loạt các ngân hàng và công ty tài chính. Kế đó là tác động khi họ đổi đồng bath lấy ngoại tệ USD, làm tỉ giá hối đoái tăng vọt. Chỉ trong năm 1997 hơn 22 tỉ USD cho vay ngắn hạn đã được thu hồi và rút ra khỏi Thái Lan. Sự phá sản của các ngân hàng, công ty tài chính và sự tăng vọt của tỉ giá hối đoái sẽ làm cho các doanh nghiệp vốn đã kém hiệu quả bị thua lỗ, phá sản. Trong năm tháng đầu 1998, gần 4000 doanh nghiệp ở Thái Lan bị phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp tuy tác động chậm hơn song sẽ lại thúc đẩy quá trình phá sản các ngân hàng, công ty tài chính. Trong số 108 ngân hàng, công ty tài chính của Thái Lan, từ tháng 4/97 đến tháng 3/98, 64 ngân hàng, công ty tài chính có vấn đề (chiếm 59%), trong đó 56 bị đình chỉ hoạt động, 4 bị quốc hữu hóa hoặc chính phủ giám sát và 4 bị bán cho các công ty nước ngoài. Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 14 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 2.1.3 Hậu quả của khủng hoảng: Hậu quả trực tiếp của khủng hoảng kinh tế tài chính ở Thái Lan là: - Các ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp phá sản hàng loạt, kinh tế quốc gia suy thoái. Tăng trưởng kinh tế từ 6,7% năm 1996 giảm còn -0,4% năm 1997, -8,3% năm 1998 và 1% năm 1999. - Gần 2 triệu người lao động mất việc làm, mất thu nhập. - Các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin, rút vốn ra khỏi đất nước, làm xấu đi môi trường đầu tư. Năm 1995, 1996, mỗi năm có khoảng 20 tỉ USD vốn được rót vào Thái Lan, nhưng năm 1997, 15,8 tỉ USD vốn được rút ra khỏi quốc gia, năm 1998 thêm 9,5 tỉ USD vốn chạy ra nước ngoài. 2.2 Indonesia: 2.2.1 Tình hình Indonesia trước khủng hoảng: a) Hai lần khủng hoảng kinh tế và hai lần cải cách kinh tế: Indonesia có nguồn dầu mỏ lớn thứ 7 thế giới, bị Hà Lan chiếm làm thuộc địa từ thế kỉ 16 và giành độc lập từ 1949. Quá trình công nghiệp hoá diễn ra từ cuối thập kỉ 60. Xuất khẩu của Indonesia chủ yếu dựa vào dầu lửa và các sản phẩm tự nhiên như gỗ, quặng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1966-1970 là 6,6%/năm. - Năm 1983, nền kinh tế bị khủng hoảng do khủng hoảng dầu lửa trên thế giới. Xuất khẩu giảm sút nặng nề, Chính phủ Indonesia phải đầy mạnh phát triển kinh tế ở các lĩnh vực không liên quan đến dầu mỏ, đặc biệt là ngành công nghiệp chế tạo và nông nghiệp. Năm 1985, hàng xuất khẩu phi dầu lửa chiếm 32% doanh số xuất khẩu, trong đó chỉ có 8% là sản phẩm công nghiệp chế biến. - Năm 1986, cuộc khủng hoảng lần thứ 2 nổ ra, khi giá dầu thế giới sụt giảm, làm cho thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai lại tăng. Hai cuộc khủng hoảng này đã buộc Chính phủ phải tăng tốc cải cách kinh tế. Cuộc cải cách năm 1986 là chuyển dịch từ chính sách phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu với trọng tâm là p hát triển các ngành công nghiệp cơ bản và dựa vào tài nguyên, đòi hỏi nhiều vốn sang Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 15 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á phát triển công nghiệp cần nhiều lao động hướng về xuất khẩu. Cuộc cải cách này đã được các nhà đầu tư nước ngoài hưởng ứng và nền kinh tế đã chuyển biến tích cực. - Kinh tế giai đoạn 1987-1992 đã đạt tăng trưởng 6,7%/năm. Xuất khẩu đồ dệt, đồ gỗ, giày dép và hàng điện tử tăng mạnh. Năm 1991, xuất khẩu phi dầu lửa chiếm 62% doanh số xuất khẩu, trong đó công nghiệp chế biến chiếm 32%. Tuy nhiên công nghiệp chế biến xuất khẩu của Indonesia chủ yếu dựa vào nguyên liệu, vật tư nhập khẩu, điều này làm cho nền kinh tế rất nhạy cảm và p hụ thuộc vào biến động giá cả ở thị trường quốc tế và tỉ giá hối đoái. Từ 1993, nền kinh tế có biểu hiện chựng lại, xuất khẩu giảm. Đầu tư nước ngoài giảm sút. - Để giải quyết tình thế trên năm 1994 chính phủ tuyên bố chương trình cải cách kinh tế mạnh mẽ: giảm thuế nhập khẩu, bỏ hạn chế đầu tư nước ngoài (cho phép hình thức sở hữu 100% vốn nước ngoài); cho nước ngoài đầu tư thêm 10 lĩnh vực trước kia bị cấm. Các nhà đầu tư nước ngoài đã hưởng ứng mạnh mẽ cải cách của Chính phủ: tổng vốn đầu tư nước ngoài tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng b) Hệ thống ngân hàng kinh doanh kém hiệu quả Indonesia có 228 ngân hàng thương mại, trong đó có 7 ngân hàng thương mại Nhà nước. Hiệu quả kinh doanh của 7 ngân hàng thương mại nhà nước rất thấp: tỉ suất lợi nhuận trên tài sản chỉ đạt 0,86%/năm, trong khi lãi suất bình quân tiền gửi phải trả là 17,3%/năm. Hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động kém hiệu quả và rủi ro rất cao. c) Quốc gia tiến tới bờ vực mất khả năng thanh toán Một điểm khác biệt của việc điều hình tỉ giá hối đoái của Indonesia so với Thái Lan là tỉ giá hối đoái không bị giữ cố định, mà tăng liên tục, cộng với lạm phát nội địa cao dẫn đến việc tăng giá đồng nội địa, sẽ hạn chế xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu, làm xấu đi cán cân thương mại và tài khoản vãng lai. Năm 1996, thâm hụt tài khoản vãng lai của Indonesia là 7,66 tỉ USD. Trong điều kiện cán cân tài khoản vãng lai thâm hụt thì nợ nước ngoài sẽ ngày một tăng. Năm 1996, nợ nước ngoài đã tới 115 tỉ USD, bằng 51,8% GDP, trong đó nợ ngắn hạn là 34,2 tỉ USD. Nhưng dự trữ ngoại tệ chỉ có 17,9 tỉ USD. Tức là nợ ngắn hạn đã bằng 1,9 lần dự trữ Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 16 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á ngoại tệ. Năm 1995 tỉ lệ đã là 2. Như vậy, thực tế có thể coi Indonesia đã mất khả năng thanh toán từ trước khủng hoảng. Tóm lại cuối năm 1996, ở Indonesia đã xuất hiện đầy đủ 4 yếu tố tiền đề của khủng hoảng kinh tế tài chính. 2.2.2 Diễn biến khủng hoảng tài chính ở Indonesia: Ngày 2/7/1997, Thái Lan thả nổi đồng Bath. Các công ty nước ngoài rút vốn ào ạt ra khỏi Thái Lan và việc tăng tỉ giá hối đoái mạnh làm cho hàng hóa Thái Lan xuất khẩu rẻ hơn hàng xuất khẩu tương tự của Indonesia. Trước áp lực tâm lý do khủng hoảng kinh tế ở Thái Lan đem lại và việc tiếp tục thâm hụt trầm trọng hơn cán cân tài khoản vãng lai của Indonesia, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn ra khỏi Indonesia. Điều này gây áp lực làm mất giá đồng Rupiah và Chính phủ muốn bảo vệ tỷ giá chỉ còn cách bán ngoại tệ, cuối cùng khi dự trữ ngoại tệ đã ngày một giảm sút, ngày 14/8/1997 chính phủ phải tuyên bố thả nổi đồng Rupiah. Tỉ giá hối đoái lập tức tăng lên, tỉ giá hối đoái tăng 600% trong vòng 6 tháng. Dự trữ ngoại tệ giảm. Năm 1996, thay vì cung cấp khoảng 5 tỉ USD cho thị trường tài chính ở Indonesia các nhà đầu tư lại rút đi hơn 5 tỉ USD, tạo sự thiếu hụt tương đối hơn 10 tỉ USD. Chính áp lực này đã làm tỉ giá hối đoái tăng vọt. Đây là tác động của vòng khủng hoảng số 1, khởi đầu cho khủng hoảng ở Indonesia. Việc tăng giá tỉ giá hối đoái sẽ làm người dân lo lắng bị mất tài sản nếu giữ đồng nội tệ, do đó họ sẽ đổ xô đi rút tiết kiệm ra khỏi các ngân hàng, mua ngoại tệ, vàng, mua thực phẩm, đồ dùng dự trữ. Việc mua ngoại tệ sẽ làm tỉ giá hối đoái tiếp tục tăng. Việc rút vốn ồ ạt sẽ làm các ngân hàng vốn đã yếu kém bị phá sản. Đến giữa tháng 12/1997, một nửa tài sản của hệ thống ngân hàng bị mất do người dân và doanh nghiệp rút tiền gửi. Ngày 31/12/1997 chính phủ tuyên bố sát nhập 4 ngân hàng lớn và tư nhân hóa các ngân hàng thương mại nhà nước, ngày 13/1/1998, 54 ngân hàng yếu kém được đặt dưới quyền điều khiển của Ủy ban quốc gia tái cấu trúc các ngân hàng (IBRA). Như vậy vòng khủng hoảng số 2 và số 3 đã xuất hiện. Sự phá sản của các ngân hàng, sự tăng vọt của tỉ giá hối đoái làm cho các doanh nghiệp thiếu vốn hoạt động và phải nhập vật tư với giá rất cao. Giá thành sản phẩm tăng, không tiêu thụ được doanh nghiệp sẽ phá sản. Đến giữa năm 1998, khoảng 80% doanh nghiệp ở Indonesia phải ngưng hoạt động hoặc phá sản. Tức là vòng khủng hoảng thứ 4 xuất hiện. Năm 1996 tăng Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 17 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á trưởng công nghiệp là 10,4%, năm 1997 giảm còn 5,6%, nhưng sang năm 1998 đã suy giảm -15,6%. Ngành nông nghiệp năm 1996 tăng trưởng 12,8%, năm 1997 còn 6,4% và qua 1998 suy giảm -39,7%. 2.2.3 Hậu quả của khủng hoảng: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở Indonesia đã làm tỉ lệ thất nghiệp ở đô thị tăng từ 5% năm 1997 lên 11% đầu 1998 và trong cả nước từ 5% lên 7%. Tỉ lệ nghèo đói tăng từ 11% năm 1996 lên 18-20% dân số năm 1998 bằng 40 triệu người. 2.3 Malaysia 2.3.1 Tình hình kinh tế Malaysia trước khủng hoảng a) Thành quả phát triển đáng khâm phục Malaysia giành độc lập 1957 và năm 1963 thành lập cộng hòa Liên bang. Những năm 60. Malaysia tập trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp khoáng sản, chủ yếu là thiếc, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5,5%/năm Thời kỳ thập niên 70, Malaysia đầy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu và ngành chế tạo máy móc nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 7,8%/năm Qua thập niên 80, M alaysia tập trung phát triển các ngành công nghiệp chế biến như sản xuất thép, ô tô, bán dẫn… tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 7%/năm. Qua thập niên 90, Malaysia liên tục đẩy mạnh công nghiệp điện tử và chế tạo phụ tùng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1991-1996 đạt 8,6%/năm. Năm 1996, cơ cấu kinh tế của Malaysia là: công nghiệp chiếm 48,53%, dịch vụ 38,8% và nông nghiệp 12,67%. Xuất khẩu của Malaysia năm 1996 đạt 56,9 tỉ USD, gấp hơn 10 lần năm 1976, tốc độ tăng bình quân 20%/năm. Năm 1986, Malaysia đứng hàng thứ 3 trong xuất khẩu linh kiện bán dẫn sau Mỹ và Nhật Bản và đứng thứ 2 trong xuất khẩu bảng vi mạch sau Nhật Bản. Malaysia chiếm 75% thị trường dầu cọ, 62% thị trường cao su thế giới. Malaysia cũng là 1 nước xuất khẩu ô tô. Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 18 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á b) Không có 3 trong 4 nguy cơ gây khủng hoảng: Đầu tư nước ngoài là một nhân tố rất quan trọng đối với phát triển của Malaysia. Với hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy rất phát triển, tình hình chính trị xã hội tương đối ổn định, chính sách tỉ giá hối đoái không khuyến khích nhiều đầu tư tài chính và tín dụng thương mại. Chính điều này đã làm cho kinh tế Malaysia có nền tảng vật chất tốt hơn là Thái Lan và Indonesia. Tổng đầu tư tài chính và tín dụng thương mại chỉ chiếm 36,3% tổng đầu tư nước ngoài 1991-1996. Một điều đáng lưu ý là từ 1992-1996 đầu tư tài chính thuần vào Malaysia luôn giảm. Điều này có thể lý giải bởi mức chênh lệch lãi suất ở Malaysia với lãi suất ở Mỹ không lớn, cộng với lo lắng của các nhà đầu tư về thái độ chống M ỹ gay gắt của chính phủ M alaysia nên họ có xu hướng tìm nơi đầu tư tài chính khác lời hơn và an toàn hơn, chẳng hạn sang Thái Lan. Mặt khác do tỉ giá hối đoái có xu hướng giảm -1,5%/năm nên tính hấp dẫn của tín dụng thương mại và cho vay ngắn hạn lớn hơn là chênh lệch lão suất tiền gửi. Sự thay đổi giá của các mặt hàng xuất nhập khẩu với các đối tác thương mại chủ yếu của M alaysia thì đồng Ringgit bị lên giá. Điều này có tác dụng hạn chế xuất khầu và khuyến khích nhập khẩu. Do tài khoản vãng lai của M alaysia luôn thâm hụt từ 1991-1996 nên Malaysia phải vay nước ngoài để trang trải và tăng dự trữ ngoại tệ, cuối năm 1996 đầu 1997 Malaysia không đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán. Đây là điểm khác biệt căn bản so với Thái Lan và Indonesia. Ở lĩnh vực ngân hàng tỉ lệ nợ khó đòi của cả hệ thống ngân hàng là 3,6% vào 6/1997. Như vậy chưa thấy có dấu hiệu đang tích lũy nguy cơ phá sản của các Ngân hàng và công ty tài chính. Tóm lại trước khi khủng hoảng ở Thái Lan tình hình kinh tế Malaysia chưa tích lũy các nguy cơ khủng hoảng tới mức có thẻ xảy ra khủng hoảng từ bên trong quốc gia. Các doanh nghiệp nhìn chung hoạt động hiệu quả. Các ngân hàng và công ty tài chính hoạt động vẫn hiệu quả. Nợ quốc gia chưa gây áp lực mất khả năng thanh toán. Chỉ riêng tỉ giá hối đoái gần như cố định và lại giảm liên tục 3 năm 1993- 1996 và tài khoản vãng lai thâm hụt liên tục là tạo áp lực tăng nợ nước ngoài (đầu tư ngắn hạn được khuyến khích, phải vay để trả nợ cũ, duy trì tỉ giá hối đoái thấp, và tăng dự trữ, ảnh hưởng bất lợi đến cán cân thương mại). Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 19 -
- Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 2.3.2 Diễn tiến khủng hoảng ở Malaysia Chỉ trong vòng 1 năm, từ 6/1996 đến 6/1997 dự trữ ngoại tệ của Thái Lan đã giảm hơn 7 tỉ USD do phải bán ngoại tệ để duy trì tỉ giá hối đoái và bù đắp thâm hụt thương mại mặc dù tiếp tục tăng nợ nước ngoài. Cuối cùng, ngày 2/7/1997 Thái Lan phải thả nổi đồng Bath. Lập tức đồng Bath rớt giá làn sóng rút vốn ra khỏi Thái Lan bùng nổ. Ở Indonesia chỉ trong vòng 12 ngày đầu 7/1997, Ngân hàng Nhà nước đã phải bán 700 triệu USD để kìm tỉ giá. Ngày 14/8/1997 Indonesia phải thả nổi tỉ giá Đây là 2 nước mà đồng nội tệ đã bị lên giá từ nhiều năm và nợ nước ngoài đặc biệt nợ ngắn hạn lớn tới mức mà các quốc gia đã mất khả năng thanh toán từ năm 1995. Vì vậy khi các nhà đầu tư nước ngoài sợ mất tài sản đã đầu tư, rút vốn ra khỏi quốc gia thì sẽ làm cho đồng nội tệ bị phá giá thực sự, khủng hoảng bùng nổ. Cuối năm 1996 đầu 1997, Malaysia không đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán, tỉ lệ nợ ngắn hạn so với dự trữ ngoại tệ dưới 50%. Những diễn biến trên rỏ ràng thể hiện nguy cơ mất khả năng thanh toán đang đến gần, càng thúc đầy các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn và người dân trong nước đổ xô đi mua ngoại tệ. Ngày 11/8/1997, Malaysia tuyên bố thả nổi tỉ giá, đánh dấu sự bùng nổ khủng hoảng ở M alaysia. Tỉ giá hối đoái lập tức tỉ giá hối đoái tăng 75,5% trong vòng 6 tháng. Năm 1997, các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư tài chính đã rút vốn ra khỏi Malaysia, làm cho dự trữ quốc gia giảm sút. Các nước khác ở Đông Nam Á bị khủng hoảng sẽ giảm nhu cầu nhập khẩu từ Malaysia, trong khi 50% xuất khẩu của Malaysia là vào các nước này. Kết quả là hàng loạt doanh nghiệp phá sản. Sự phá sản của các công ty sẽ làm các ngân hàng bị phá sản theo do không đòi được nợ. Như vậy, cuộc khủng hoảng đã làm phá sản hàng loạt doanh nghiệp và hơn 2/3 số ngân hàng công ty tài chính phải sáp nhập hoặc đóng cửa. Nhưng thực chất trước khủng hoảng chưa xuất hiện 3 trong 4 loại nguy cơ khủng hoàng kinh tế tài chính ở M alaysia. Do đó việc khắc phục hậu quả sẽ dễ dàng hơn là ở các nước khác như Thái Lan, Indonesia. Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9 - 20 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận "Khủng hoảng tài chính trong khu vực và tác động của nó trước Việt Nam"
26 p | 1030 | 500
-
Đề án "Đào tạo nghề với chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam hiện nay"
32 p | 1398 | 495
-
Báo cáo môn học Tài chính quốc tế: Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997
16 p | 331 | 69
-
Tiểu luận Đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam và xu hướng sau khủng hoảng
18 p | 171 | 32
-
Tiểu luận Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền tệ, Đông Nam Á - Châu Á (Thái lan)
23 p | 127 | 26
-
Tiểu luận: Tự do hóa tài khoản vốn và vai trò của IMF
20 p | 122 | 12
-
Tiểu luận: Chỉ số can thiệp và các chế độ tỷ giá hối đoái: Trường hợp của các nền kinh tế Đông Á
23 p | 122 | 12
-
Tiểu luận: Trung Quốc và Nhật Bản trong trật tự mới ở Á châu
14 p | 96 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả tại Việt Nam
94 p | 74 | 9
-
LUẬN VĂN: Giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tới việt nam
39 p | 93 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn