intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: MẤY SUY NGHĨ VỀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:128

128
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: mấy suy nghĩ về phạm vi điều chỉnh chính sách phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: MẤY SUY NGHĨ VỀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

  1. TIỂU LUẬN: MẤY SUY NGHĨ VỀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
  2. Sau khi cân nhắc cái được và cái mất, những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức,... chúng ta đã tự nguyện và có quyết tâm rất cao bước vào sân chơi của Tổ chức Thương mại thế giới nhằm phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế nước nhà. Phát triển kinh tế trong hội nhập, cùng với các làn sóng xuất khẩu, đầu tư, tin học sẽ làm thay đổi rất nhiều các quan hệ văn hóa vốn ra đời và hỗ trợ cho một nền kinh tế chưa phát triển. Phát triển kinh tế bằng giải pháp xuất khẩu, đầu tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ làm thay đổi nhanh chóng các phong tục, tập quán, nếp sống, những chuẩn mực văn hóa của một nền kinh tế chưa tham gia hội nhập. Để văn hóa có khả năng giúp kinh tế phát triển mạnh mẽ và để khi kinh tế phát triển vượt bậc, không có những tác động quá tiêu cực đến các quan hệ văn hóa, chúng ta cần phải hoạch định một chính sách phát triển văn hóa toàn diện, đủ sức hỗ trợ cho sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế. Như chúng ta đều biết, phát triển văn hóa và phát triển kinh tế có mối liên hệ bản chất nhưng không phải là đồng nhất. Đời sống văn hóa có sự phát triển độc lập tương đối. Thay đổi kinh tế làm thay đổi văn hóa; song văn hóa cũng có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. Một nền văn hóa chưa có cơ chế phát triển những năng lực tiềm tàng của cá nhân, chưa có cơ chế hỗ trợ mạnh mẽ cho thương mại, tiềm ẩn rất nhiều thành kiến và lối sống tiểu nông... chắc chắn sẽ có ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển kinh tế thị trường. Ngược lại, nếu mộtnền văn hóa đã xác lập được những hệ chuẩn luật pháp minh bạch, có cơ chế gìn giữ nội lực, duy trì được những nguồn nhân lực, tài lực, trí lực... sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế. Do đó, phạm vi điều chỉnh trong chính sách văn hóa của chúng ta trước hết phải làm cho cả kinh tế lẫn văn hóa đều phát triển. Phát triển văn hóa không có nghĩa là thay đổi văn hóa theo kinh tế, mặc dù kinh tế là
  3. cơ sở và văn hóa là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Phát triển văn hóatrước hết có thể là duy trì những giá trị văn hóa còn nhiều sức sống nhưng lại đang có nguy cơ mất đi. Hội nhập, kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa làm thay đổi kỹ năng lao động, xóa bỏ nhiều giá trị truyền thống, làm biến dạng và biến mất nhiều tập quán văn hóa tốt đẹp vốn tạo nên thuần phong mỹ tục của một vùng dân cư. Vì thế, nếu phạm vi điều chỉnh của chính sách văn hóa nhằm duy trì những tài năng, sự thành thạo, những di sản quý hiếm, thì đó là một hình thức điều chỉnh đặc biệt của văn hóa. Hình thức này cũng tham gia trực tiếp vào sự phát triển kinh tế. Ý nghĩa thông thường của phát triển văn hóa là xóa bỏ những trở ngại trong các quá trình văn hóa. Những điều kiện kinh tế mới đòi hỏi những giá trị văn hóa cao, tạo những điều kiện vật chất và tinh thần mới cho các hoạt động văn hóa. Việc nâng cao những trình độ thấp, việc giáo dục những phương thức hoạt động văn hóa mới, tăng cường tri thức cho văn hóa làm cho cả kinh tế lẫn văn hóa đều phát triển. Đó là một trong những mục tiêu của chính sách phát triển văn hóa trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Phạm vi điều chỉnh chính sách văn hóa của chúng ta có mối liên hệ bản chất với các chính sách kinh tế, bởi, trong điều kiện kinh tế thị trường, một số sản phẩm văn hoá đã trở thành hàng hóa. Hàng hóa văn hóa có giá trị rất cao. Nó sẽ làm tăng thu nhập cho nhiều bộ phận dân cư trong xã hội. Chính sách phát triển văn hóa của chúng ta gắn liền với các mục tiêu kinh tế, đồng thời gắn liền với định hướng chính trị. Việc bồi dưỡng và phát triển các tài năng văn hóa, huy động đông đảo nhân dân tham gia các hoạt động văn hóa, gìn giữ các giá trị truyền thống, tiếp biến các giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại là chính trị của chúng ta. Vì thế, các chính sách văn hóa, khi liên hệ bản chất với các chính sách kinh tế, đồng thời còn phải thể hiện rõ mối quan hệ với đường lối chính trị. Nền văn hóa mới của chúng ta vận động trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lãnh đạo và dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính sách văn hóa của chúng ta hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính sách đó trước hết phải cổ vũ và duy trì các quan hệ văn hóa yêu lao động, yêu nước, có tinh thần quốc tế,
  4. gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của tập thế, tôn trọng lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, thấm sâu chủ nghĩa nhân văn cao quý. Các chính sách văn hóa của chúng ta cũng gắn giá trị truyền thống với giá trị hiện đại, giá trị của dân tộc với giá trị quốc tế, hướng tới việc xác lập nền văn hóa xã hội chủ nghĩa mang giá trị của con người trả lại cho con người. Chúng ta vào sân chơi chung về kinh tế và buộc phải tuân thủ những luật chơi chung. Tuy vậy, kỹ năng tiến hành các hoạt động kinh tế không tách khỏi văn hóa nói chung và văn hóa chính trị nói riêng. Người Mỹ, người Anh, người Pháp và tất cả các thành viên trong Tổ chức Thương mại thế giới hoạt động kinh tế dưới ảnh hưởng của văn hóa chính trị của họ. Chúng ta có văn hóa chính trị của chúng ta trong hoạt động kinh tế. Chính sách văn hóa cần làm sáng tỏ những giá trị nhân văn tiềm ẩn của con người Việt Nam trong giao lưu kinh tế. Chúng ta cổ vũ cho quyền bình đẳng văn hóa giữa các dân tộc, chấp nhận sự đối thoại giữa các giá trị văn hóa và chống lại mọi độc quyền văn hóa. Không có một văn hóa nào được áp đặt lên một văn hóa nào. Giống như ngôn ngữ, không có một văn hóa nào có thể được nói, trong ý nghĩa tuyệt đối của nó, là tốt hơn văn hóa khác. Sự khác biệt văn hóa chính là cội nguồn của sự phát triển văn hóa. Điểm nhấn trung tâm của chính sách phát triển văn hóa của chúng ta hiện nay làtăng trưởng nguồn lực con người, bởi con người là trung tâm của mọi quan hệ văn hóa. Vì thế, chính sách văn hóa có liên hệ bản chất với chính sách xã hội. Các chính sách văn hóa không có tính biệt lập. Chúng vừa là bộ phận của hệ chính sách, vừa nằm trong các chính sách khác, vừa có tư cách điều chỉnh các đối tượng riêng biệt. Các chính sách phát triển văn hóa của chúng ta phải huy động được mọi tầng lớp xã hội tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Phát triển văn hóa có liên quan đến phát triển nhân cách, chỉ số thông minh, tri thức, sức khoẻ, tầm vóc con người và thể dục, thể thao. Vì thế, chính sách văn hóa không thể tách rời chính sách khoa học, giáo dục, y tế. Một chính sách nâng cao trình độ dân trí là phương thức quan trọng để phát triển văn hóa. Một nền y tế mạnh có khả năng chống mọi bệnh tật dù là bệnh tật hiểm nghèo, tăng cường sức khoẻ con người chính là cơ sở quan trọng của phát triển văn hóa. Một chính sách xóa đói, giảm nghèo, quan tâm sâu sắc đến những người tàn tật gắn liền với các
  5. định hướng nhân văn cao cả trong các quan hệ văn hóa là mục tiêu của chúng ta. Phạm vi điều chỉnh của chính sách phát triển văn hóa trong việc tăng trưởng nguồn lực con người không chỉ bao gồm các mục tiêu nâng cao thể chất, bồi dưỡng năng lực tinh thần mà còn phải gắn liền với giới tính, với các tầng lớp xã hội, các khu vực dân cư, các hoạt động nghề nghiệp. Văn hóa giới, văn hóa người cao tuổi, văn hóa các bậc trung niên, nhân cách văn hóa thanh thiếu niên, văn hóa nông nghiệp, văn hóa công nghiệp, văn hóa thương nghiệp, văn hóa công sở... đều gắn với phạm vi điều chỉnh của các chính sách phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay. Các chính sách này đều hướng vào việc tăng trưởng, làm giàu đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho mọi thành viên trong xã hội; tìm kiếm, nuôi dưỡng các tài năng xuất sắc, phát triển văn hóa đỉnh cao. Để tăng trưởng nguồn lực con người, chúng ta cần phát triển khoa học. Tuy nhiên, văn hóa rộng hơn khoa học. Văn hóa gắn với lịch sử và cả tiền sử nữa. Thần thoại, anh hùng ca, những lý tưởng và mơ ước, những khát vọng và đời sống tâm linh, các tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo đều là sinh hoạt văn hóa của con người. Nhân loại bước vào thiên niên kỷ thứ ba, nhiều dân tộc văn minh vẫn còn thiết lập chế độ quân chủ lập hiến. Niềm tin tôn giáo, niềm tin về một đất nước có thiên hoàng vẫn tồn tại ở một số nơi. Vì thế, các chính sách phát triển văn hóa của chúng ta không thể không định hướng tới niềm tin, tín ngưỡng và đời sống tâm linh của con người. Các trò chơi, những biểu tượng, tập quán đạo đức và nhiều hoạt động tinh thần khác của con người phát triển song hành cùng khoa học; nhiều hoạt động văn hóa không thể giải thích cặn kẽ được bằng khoa học. Các hoạt động văn hóa của con người không chỉ gắn với xã hội mà còn gắn với tự nhiên, với sự phát triển của chính bản thân con người. Con người là một bản thể tự nhiên - xã hội. Việc phát triển chính bản thân con người, thông qua lao động, cũng gắn với điều kiện tự nhiên. Vì thế, chính sách phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay nhằm tăng trưởng nguồn lực con người phải bao gồm các hệ chính sách gắn con người với tự nhiên. Việc gắn con người với tự nhiên không chỉ là lý luận đơn thuần mà còn có tính chất thực tiễn, tính thời đại sâu sắc, khi mà hiện nay, khoa học – công nghệ – kinh tế phát triển tới mức hủy hoại môi trường sống của chúng ta. Các chính sách phát triển
  6. văn hóa quan tâm tới mối quan hệ giữa con người và hệ sinh thái không những tạo điều kiện cho sự phát triển văn hóa du lịch, mà còn đảm bảo cho sự phát triển xã hội bền vững. Sáng tạo nghệ thuật là một hoạt động văn hóa mang tính người sâu sắc. Nó không chỉ là niềm đam mê, khát vọng và sự tự nhận thức của con người, mà còn là lĩnh vực của văn hóa phản ánh, văn hóa giáo dục, tự giáo dục và giáo dục lại. Sáng tạo nghệ thuật ở nước ta hiện nay đang đặt ra rất nhiều vấn đề có liên quan đến chính sách phát triển văn hóa. Vì sao chúng ta chưa có những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao? Vì sao trong lĩnh vực biểu diễn của chúng ta còn nhiều vấn đề cần phải bàn đến như vậy? Vì sao trong lĩnh vực hội họa, điêu khắc, kiến trúc vẫn còn những luồng ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập với nhau?... Những vấn đề của thưởng thức nghệ thuật, đánh giá nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật, lưu giữ nghệ thuật,... hơn lúc nào hết, cần thiết có một hệ chính sách đủ mạnh để thúc đẩy phát triển. Đường lối phát triển nghệ thuật của Đảng ta đã từng được cụ thể hóa trong nhiều chính sách phát triển nhân tài, xã hội hóa các hoạt động nghệ thuật. Tuy nhiên, các chính sách ấy khi đi vào đời sống hình như vẫn chưa có được tác động mạnh mẽ để duy trì nghệ thuật truyền thống, phát triển mạnh mẽ nghệ thuật sân khấu, nghệ thuật điện ảnh, lôi cuốn thêm nhiều công chúng mới. Các văn nghệ sĩ đang rất chờ đợi một chính sách đột phá, nâng cao mọi mặt đời sống và nghề nghiệp của họ. Chính sách phát triển văn hóa của chúng ta cần quan tâm hơn đến tình hình thực tế của hoạt động nghệ thuật. Cần phải có một chính sách phát triển nghệ thuật toàn diện, đủ mạnh để nâng cao hơn nữa chất lượng nghệ thuật trong thời điểm đặc biệt của giao lưu văn hóa hiện nay. Đời sống của mọi hình thái xã hội đều có các thiết chế văn hóa. Các thiết chế văn hóa này vừa có lịch sử hình thành lâu đời, vừa có tính thời đại do những yêu cầu phát triển của mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi mục tiêu phát triển văn hóa đòi hỏi. Đó là các thiết chế của các quá trình xã hội hóa lao động, của sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh, tôn giáo, gia đình, nhà văn hóa, thư viện, thông tin, màn hình, nhà xuất bản... Các chính sách văn hóa của chúng ta phải tác động vào các loại hình thiết chế ấy. Tuy xuất hiện từ rất sớm, nhưng thiết chế lao động, thiết chế tín ngưỡng tôn giáo, thiết chế gia đình đóng vai trò quan trọng trong các chế độ xã hội, các phương thức sản xuất khác nhau và cả hiện nay
  7. nữa. Nếu chúng ta coi lao động là nguồn gốc của mọi giá trị, là nghĩa vụ thiêng liêng, là trách nhiệm xã hội của mỗi người thì các chính sách văn hóa phải điều chỉnh thiết chế văn hóa này sao cho nó gắn liền với mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội là mang giá trị của con người trả lại cho con người. Trong số các thiết chế văn hóa, ở thời điểm hiện nay, thiết chế gia đình có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vấn đề gia đình không chỉ liên quan tới các quan hệ lao động, kinh tế, sự hòa hợp giới tính, mà còn liên quan đến thế hệ trẻ, đến đạo đức, sự thủy chung, nhân cách và sự ổn định từ lòng sâu của xã hội, khi các rung chuyển về kinh tế diễn ra hàng ngày và mạnh mẽ. Trước đây, trong đường lối và trong các chính sách văn hóa, chúng ta đã quan tâm xây dựng các gia đình văn hóa. Các chính sách đó đã có tác dụng gìn giữ một số giá trị tốt đẹp trong gia đình. Tuy nhiên, hiện nay, làn sóng tin học diễn ra rất mạnh mẽ, làn sóng đầu tư ập tới các vùng nông thôn rộng lớn, làn sóng xuất khẩu lao động nóng lên từng ngày làm cho các quan hệ nhân tính trong gia đình lỏng lẻo dần và nguy cơ mâu thuẫn thế hệ đang gia tăng mạnh mẽ. Trước tình hình như vậy, các chính sách phát triển văn hóa khi quan tâm đến việc hoàn thiện các loại hình thiết chế văn hóa nên đặc biệt có một hệ chính sách đủ mạnh để tạo cho mối quan hệ giữa nhà - làng - nước ngày càng trở nên tốt đẹp. Cần phải nói rằng, chúng ta đã từng có đường lối và chính sách định hướng, điều chỉnh các loại hình thiết chế văn hóa đúng đắn. Tuy nhiên, trong nhiều chính sách phát triển thiết chế văn hóa, chúng ta vẫn chưa tạo được một cơ chế để vận hành thật hiệu quả chúng trong thực tế. Quan hệ văn hóa, bên cạnh tính ổn định còn có bản chất động, có sự biến đổi nhất định, do hoạt động thực tiễn đặt ra. Đó là các ứng xử thường nhật và luôn có những biến dạng. Vì thế, khi hoạch định chính sách phát triển các thiết chế văn hóa cần phải lường trước các dao động này để hình thành cơ chế hợp lý vận hành nó. Tính thiếu thực tế hầu như là cội nguồn của những chính sách tốt đẹp mà ít hiệu quả. Các chính sách phát triển văn hóa của chúng ta trong giai đoạn hiện nay phải thích ứng với những vấn đề mà đời sống đặt ra và cách giải quyết có thể được về những vấn đề ấy.
  8. Chính sách văn hóa của chúng ta gắn liền với sự phát triển Nhà nước ta. Nhà nước của chúng ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vận hành vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Không giống một số kiểu nhà nước khác hoạch định chính sách văn hóa với những chuẩn mực từ trên xuống, đối trọng với các chuẩn mực từ dưới lên của nhân dân lao động, chính sách văn hoá của Nhà nước ta luôn vì mục tiêu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của tuyệt đại đa số nhân dân. Chính sách phát triển văn hóa của chúng ta vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do hiểu lầm mục tiêu này và duy nhất hóa nó cho nên trong hoạt động thực tế, nhiều địa phương đã không chú ý đến sự phát triển đa dạng văn hóa.Nhân danh chính sách phát triển văn hóa của nhà nước, không ít cơ quan tiến hành chỉ đạo văn hóa đã chính trị hóa, đồng phục hóa, duy nhất hóa các quan hệ văn hóa nào đó. Nền văn hóa của chúng ta là một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng; chính sách văn hóa của nhà nước ta không chỉ đảm bảo cho văn hóa của các tộc người được gìn giữ bản sắc; văn hóa của các nhóm nhỏ được duy trì; các tín ngưỡng, tôn giáo được tự do mà cả liên văn hóa và quyền con người cũng tuyệt đối được tôn trọng. Mọi sự sáng tạo và hưởng thụ văn hóa đều được thừa nhận trong khuôn khổ luật pháp. Những nhận thức về sự khác biệt văn hóa được duy trì. Chúng ta đã thiết lập những cơ chế dân chủ và đang hoàn thiện thiết chế dân chủ. Dân chủ hoá đời sống văn hóa là bản chất, là mục tiêu của mọi chính sách phát triển văn hóa của chúng ta. Trong hoạt động văn hoá, Nhà nước ta chấp nhận mọi sự phản biện xã hội lành mạnh, nó không chỉ đề ra các chính sách phát triển sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, mà còn có những chính sách răn đe, phòng ngừa các phản văn hóa, phi văn hóa, vô văn hóa, văn hóa thấp... xuất hiện trong các quan hệ xã hội. Hơn bao giờ hết, ở thời điểm nhạy cảm hiện nay, có những luồng văn hóa độc hại không phù hợp với bản chất của chế độ ta, đang lợi dụng các làn sóng thông tin, tự do, nhân quyền làm phá hỏng những giá trị văn hóa tốt đẹp, những định hướng văn hóa đúng đắn của chúng ta. Để phát triển được nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để cho văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội trong thời kỳ hội nhập hiện nay, nhất thiết trong các chính sách phát triển văn hóa mới phải có hệ chính sách ngăn chặn các
  9. phản văn hóa. Nhiệt độ văn hóa trong xã hội ta hiện nay đang tăng lên từng ngày bởi các phản văn hóa. Các chính sách phát triển văn hóa của chúng ta chưa đủ mạnh để kiểm soát được các làn sóng tin học lạ lẫm; chưa củng cố được các gia đình ấm no, hòa thuận, hạnh phúc; chưa ngăn chặn được nạn trộm cắp, mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, cướp giật, tham nhũng, đề đóm, rượu chè... Trong điều kiện hiện nay, chính sách xây và chống trong phát triển văn hóa phải tạo ra mối liên hệ biện chứng. Xây để chống, chống để xây và vì chúng ta xây tích cực nên chúng ta phải chống tiêu cực mạnh. Có thể nói, phạm vi điều chỉnh của các chính sách phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay phải bao quát được các quan hệ vật chất và tinh thần của con người với tự nhiên, với xã hội, với sự phát triển của bản thân con người. Các chính sách ấy vừa phải có định hướng lâu dài, vừa phải đáp ứng được thực tiễn văn hoá nóng bỏng hiện nay; hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp; thu hút được mọi nguồn lực và chứa đựng tinh thần khoan dung sâu sắc. Bên cạnh đó, hiện nay, trong đời sống xã hội ta, còn rất nhiều quan hệ văn hóa lạc hậu. Chính sách phát triển văn hóa cần hướng vào xóa bỏ các cản trở đó trong quá trình “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”(1), phát triển nội lực của con người Việt Nam trong thế kỷ mới.r (*) GS,TS. triết học (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.106 VẤN ĐỀ XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Nguyễn Thị Nga (*) Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức xã hội mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người
  10. mới; không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới. Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố thuận về chủ thể, họ còn bị chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của cộng đồng, tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức xã hội tiến bộ, lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân và ngược lại. Bởi thế, muốn xây dựng xã hội mới, tất yếu phải xây dựng ý thức xã hội mới và việc xây dựng ý thức xã hội mới trở thành một nhiệm vụ của công cuộc xây dựng xã hội mới. Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là toàn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng xã hội mới. Trên thực tế, ý thức xã hội mới đó biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Ngoài hệ tư tưởng, nó còn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả thói quen, phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới" (1). Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định đó là định hướng có tính chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay. Cùng với định hướng cơ bản trong việc phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục khẳng định một số định lớn trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới. Vấn đề này có thể khái quát lại trên một số điều cơ bản sau:
  11. Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về bản chất, xã hội mới là xã hội dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "I - NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" (2). Đây là tư tưởng cơ bản khẳng định chủ thể tích cực cũng là đối tượng phục vụ chính của xã hội mới. Ý thức xã hội mới phản ánh lợi ích của nhân dân và chính do nhân dân xây dựng. Tinh thần này được thể hiện trong các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong các chính sách cụ thể của từng ngành, từng địa phương. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng, hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng, tuyên truyền, quảng bá, phát triển ý thức xã hội mới. Như vậy, có thể nói, sự nghiệp đổi mới không thể thành công nếu thiếu sự đóng góp của nhân dân; công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, bảo tồn giá trị truyền thống dân tộc, kế thừa những cái tốt, lọc bỏ những thói hư tật xấu, chống sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch, không thể thành công nếu thiếu sự đóng góp của nhân dân. Mặt khác, phải thấy rằng, việc xây dựng ý thức xã hội mới cũng không thể thành công nếu thiếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp cách mạng, cũng là đội tiên phong của toàn dân tộc, bởi Đảng ta là một tổ chức chính trị bao gồm những cá nhân ưu tú nhất của xã hội. Tuy nhiên, để làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải đổi mới, tự chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu mà trước hết là bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng.
  12. Thứ hai, xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh thần của xã hội. Sự phát triển xã hội không chỉ có đời sống vật chất, mà còn có đời sống tinh thần. Đó là hai mặt không thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động tương hỗ có thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau trong quá trình phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hoá luôn đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển và sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, từ trong bản chất, văn hoá đã mang tính nhân văn, chứa đựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp được cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống này được chuyển tải vào các lĩnh vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo, v.v. tạo thành môi trường văn hoá nuôi dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Trong điều kiện hiện nay, văn hoá còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường theo hướng phát triển bền vững, hạn chế bớt những mặt trái của kinh tế thị trường. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Quan điểm xây dựng và phát triển nền văn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được Đảng ta đề cập đến từ rất sớm, được phản ánh trong Đề cương văn Việt Nam (năm 1943), trong các văn kiện sau đó của Đảng. Ngay trong Đề cương văn hoá Việt Nam, Đảng ta đã xác định văn hoá là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hoá và ba mặt trận này có quan hệ biện chứng với nhau, tạo thành động lực đưa cách mạng tới thành công. Và cũng ở đây, văn hoá được xác định "gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Như vậy, văn là cốt lõi của ý thức xã hội và xây dựng nền văn mới là cốt lõi của việc xây dựng ý thức xã hội mới. Với quan niệm đó, Đảng ta đã xác định ba phương châm xây dựng văn mới là: dân tộc, khoa học và đại chúng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991), Đảng ta đã chỉ rõ, xã hội mà chúng ta xây dựng là xã hội có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mốc đánh giá sự đổi mới toàn diện trong tư duy về văn của Đảng thể hiện ở Nghị quyết Trung ương 5 khóa
  13. VIII Về xây dựng và phát triển nền văn Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong Văn kiện này, Đảng ta đã khẳng định: trong quá trình xây dựng nền văn mới, chúng ta không chỉ chú ý giữ gìn, kế thừa những giá trị và bản sắc văn dân tộc, mà còn phải chú trọng tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn của nhân loại. Thứ ba, xây dựng ý thức xã hội mới gắn với việc tăng cường học tập lý luận, tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền tảng và kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân. Bài học đầu tiên từ 5 bài học lớn mà Đảng ta đã rút ra sau 20 năm đổi mới là: "Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Đây không phải là mới, bởi tinh thần này đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra ngay từ những ngày đầu cách mạng. Năm 1939, khi đưa ra quan điểm của mình về đường lối, của Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: " Phải tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn và chính trị cho các đảng viên"(3). Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi vào giai đoạn quyết định, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Người đã khẳng định: "Học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, tổ chức - là những việc cần thiết của Đảng"(4). Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, trong Diễn văn khai mạc, một lần nữa, Người khẳng định: "Chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng"(5). Vấn đề này tiếp tục được Đảng ta khẳng định qua các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, nó được coi là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Bởi lẽ, để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh yêu cầu về năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức cách mạng, đảng viên còn phải có phẩm chất chính trị tốt, kiên định lập trường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Do vậy, xây dựng ý thức xã hội mới cần tiếp tục tăng cường hoạt động lý luận, nghiên cứu sâu rộng và có những bổ sung về lý luận để làm phong phú kho tàng tri thức của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tình hình mới. Thứ tư, xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”.
  14. Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó không hình thành một cách tự phát trong lòng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận thức, xây dựng, truyền bá thành ý thức chung của con người trong xã hội mới, thành động lực tinh thần của con người trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vì vậy, cần xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên định con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho con người những tri thức mới của thời đại, tri thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là những tri thức về khoa học và công nghệ... Đó là yêu cầu tiên quyết trong quá trình xây dựng xã hội ta hiện nay. Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát vọng cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phòng chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ Đảng viên. Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó. Về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với các biểu hiện như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của dân tộc; thiếu thống nhất với các quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói và làm không theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; không kịp thời và kiên quyết phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm sai trái...Tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ chín khoá IX, Đảng ta đã nhấn mạnh: "Thường xuyên chỉ đạo uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cá nhân, những biểu hiện cơ hội, thực dụng, bè phái, cục bộ, phê phán bác bỏ các quan điểm sai trái thù địch, chủ động đối phó với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc và nhân quyền chống phá cách mạng nước ta"(6).
  15. Không dừng ở góc độ hệ tư tưởng trong tâm lý xã hội cũng cần có những biểu hiện phải khắc phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ”(7). Hiện nay, chúng ta cần phải khắc phục những biểu hiện tâm lý vốn được coi là hậu quả của nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp - tâm lý thụ động, trông chờ, ỷ lại, xin cho, đối phó; khắc phục tâm lý của nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ lâu dài của lịch sử và hiện vẫn còn tồn tại là tâm lý lạc hậu, kinh nghiệm chủ nghĩa, tuỳ tiện, đố kỵ, coi thường pháp luật và cả những tâm lý vốn khá phổ biến ở những nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, như tâm lý trọng nam khinh nữ, tâm lý gia trưởng... Đặc biệt, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những tâm lý này còn có nhiều biểu hiện, biến tướng và gây hậu quả nặng nề, biến họ thành những kẻ cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, v.v.. Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình lâu dài, phức tạp, để có hiệu quả, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Thứ nhất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”(8). Ý thức xã hội mới luôn bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Vì vậy, xây dựng ý thức xã hội mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất của xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc trong đời sống tinh thần ở xã hội ta thời gian qua có nguyên nhân từ những yếu kém trong công tác tư tưởng, nhưng cũng có nguyên nhân từ những kết quả còn rất hạn chế trong việc xây dựng nền kinh tế mới. Bên cạnh đó, xây dựng ý thức xã hội mới cũng phụ thuộc rất nhiều vào kết quả xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, bởi giữa kinh tế, văn hoá và con người luôn có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, chi phối và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Thứ hai, không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới. Về mặt lý luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Đảng cầm
  16. quyền trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Mặt khác, chúng ta cũng cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá trị truyền thống của dân tộc. Đó không chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền thống, mà còn tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên ngoài. Quá trình này cần được nhìn nhận một cách cụ thể trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay. Lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc là những giá trị tinh thần truyền thống, song trong điều kiện hiện nay, nó cần được thể hiện ở tinh thần cần cù, sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt khó để cải tạo cuộc sống, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Tinh thần đoàn kết dân tộc phải được thể hiện thành tinh thần đồng thuận trên cơ sở giải quyết hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xoá bỏ mặc cảm về thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới. Trong công tác tư tưởng, chúng ta cần bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và tìm ra những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời giải đáp. Tăng cường vai trò của báo chí, của các phương tiện thông tin đại chúng khác trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư luận theo chiều hướng tích cực, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái, luận điệu phản động. Trong công tác giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức để việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin hiệu quả hơn. Thứ tư, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính chủ động, tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm khắc phục những tư tưởng, tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư tưởng của các thế lực phản động, kế thừa những giá trị tích cực trong truyền thống và hình thành ý thức xã hội mới. Đây là quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi tính tự giác cao. Vì vậy, thông qua chủ trương, chính sách, Đảng cần phải khắc phục những biểu hiện của khuynh
  17. hướng coi nhẹ vai trò của nhân tố tư tưởng, chính trị, đạo đức. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí, khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, nhất là những biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém... Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, cần mở rộng các hình thức dân chủ để nhân dân có thể tham gia vào quá trình xây dựng ý thức xã hội mới một cách chủ động và trực tiếp. Sự nghiệp xây dựng ý thức xã hội mới phải là quá trình tự giác, cần sự đóng góp của tất cả mọi người, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, các chủ thể lãnh đạo, quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng. (*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. [1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 17 - 18. [2] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 698. [3] Hồ Chí Minh. Sđd., t.3, tr 139. (4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.6, tr 167. (5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr 201. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín, khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.147. (7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr. 287. (8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 15. VỀ ĐỔI MỚI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
  18. Vũ Văn Viên (*) Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi công tác nghiên cứu lý luận cần phải giải quyết. Để giải đáp được các vấn đề mà thực tiễn đất nước đặt ra, chúng ta cần phải đổi mới và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu lý luận, trong đó có đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học. Quá trình đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học thời gian qua đã đem lại diện mạo mới cho sự phát triển của triết học. Triết học đã có những đóng góp nhất định trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, theo chúng tôi, một mặt, trong thời gian tới, chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới hơn nữacông tác nghiên cứu và giảng dạy triết học. Mặt khác, trong quá trình đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học, chúng ta cần chú trọng hơn đến kiến thức cơ bản. Kiến thức cơ bản là cái cốt lõi vừa làm nên nội dung, vừa thể hiện bản chất của mỗi học thuyết triết học. Nó có giá trị bền vững mà các ví dụ minh họa cụ thể không thể thay thế được. Nắm vững kiến thức cơ bản là chìa khoá để người nghiên cứu, người học tập triết học đi vào chiều sâu của học thuyết và vận dụng sáng tạo, đúng đắn, khoa học vào những công việc cụ thể mà mình quan tâm, giải quyết. 1. Sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học Mác – Lênin Trong thời gian qua, chúng ta đã có những đổi mới nhất định về công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học. Về đào tạo, chúng ta thường xuyên tổ chức giảng dạy triết học nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng cho các tầng lớp cán bộ, đảng viên các cấp, các ngành. Nhờ vậy, năng lực tư duy lý luận khoa học, trong đó có tư duy triết học được nâng cao. Điều đó đã góp phần nâng cao năng lực công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, các ngành. Hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế – xã hội ngày càng rõ. Về nghiên cứu, chúng ta đang thực hiện gắn việc nghiên cứu khoa học nói chung, nghiên cứu triết học nói riêng với các vấn đề của thực tiễn đất nước. Nhờ đó, công tác nghiên cứu triết học đã gắn bó với thực tiễn hơn. Triết học cùng với các ngành khác đã góp phần nhất định vào việc giải quyết các vấn đề do lý luận và thực tiễn đặt ra. Những thành tựu do việc đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học đem lại là không thể phủ nhận.
  19. Tuy nhiên, có thể khẳng định công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được những yêu cầu mà thực tiễn đất nước đặt ra. Vì vậy, cần phải tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học hơn nữa. Trong đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dậy triết học thời gian tới, chúng ta cần chú ý tới kiến thức cơ bản và tính toàn diện của triết học Mác – Lênin. Việt Nam là một nước chậm phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nước ta thành một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ các thời cơ mà toàn cầu hoá đem lại, chủ động khắc phục những hạn chế của nó, đặc biệt là những tác động tiêu cực trong lĩnh vực chính trị – xã hội. Từ thực tế đầy phức tạp của toàn cầu hoá, để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải có những định hướng và giải pháp đúng đắn, khoa học trong quá trình hội nhập quốc tế nói riêng, phát triển đất nước nói chung. Chỉ có xây dựng được một chiến lược phát triển đúng đắn, chúng ta mới tạo ra được những bước đi vững chắc để đẩy nhanh quá trình phát triển đất nước, tránh tụt hậu và đảm bảo theo kịp các nước tiên tiến. Triết học phải góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề nêu trên. Như đã biết, trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định giáo dục - đào tạo là quốc sách, phát triển khoa học - công nghệ là trung tâm. Như vậy, có thể nói, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng công tác giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, trong đó có nghiên cứu và giảng dạy triết học. Thực hiện chủ trương trên, trong thời gian vừa qua, chúng ta đã có những đổi mới căn bản về giáo dục, đào tạo; chẳng hạn, đã tăng mức đầu tư cho giáo dục - đào tạo, từng bước xã hội hoá, đa dạng hoá các loại hình giáo dục - đào tạo; từng bước đổi mới chương trình và phương pháp giáo dục - đào tạo,… tăng cường đầu tư cho khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với thực tiễn,… Những đổi mới trên đã góp phần nhất định vào sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ ở nước ta thời gian qua. Tuy nhiên, so với các yêu cầu của thực tiễn đất nước, thì công tác giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học vẫn còn nhiều bất cập. Cùng chung bối cảnh ấy, công
  20. tác nghiên cứu và giảng dạy triết học cũng còn nhiều hạn chế. Để giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ thực hiện được vị trí “quốc sách”, “trung tâm”, chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học nói chung, đổi mới hơn nữa công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học nói riêng. Có một lý do quan trọng nữa để tiếp tục đổi mới hơn nữa công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học, đó là vị trí đặc thù của triết học trong hệ thống khoa học. Triết học với các chức năng chủ đạo là thế giới quan, phương pháp luận, nhận thức luận, một mặt, phải tham gia tích cực vào quá trình hoạch định đường lối đổi mới, đường lối chiến lược, sách lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước, cũng như việc giải quyết các vấn đề thực tiễn đất nước trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Cùng với điều đó, triết học phải tham gia một cách tích cực hơn nữa vào sự phát triển của khoa học nước nhà. Ở khía cạnh này, triết học không chỉ và không nên chỉ dừng lại ở vấn đề bản thể luận chung (cái gì có trước, cái gì có sau), phương pháp luận chung (biện chứng hay siêu hình) mà phải cùng với các khoa học khác phát hiện, xây dựng và luận giải những vấn đề cơ bản của khoa học, công nghệ và đời sống hiện đại. Chẳng hạn, triết học cần phải quan tâm hơn nữa về các công cụ nhận thức mới. Thông thường, các công cụ này được các ngành khoa học khác phát hiện, song triết học phải góp phần làm rõ cơ sở khách quan của chúng cũng như giá trị nhận thức và thực tiễn mà chúng đem lại; chẳng hạn, những công cụ nhận thức mà lôgíc học hiện đại xây dựng cần được triết học lý giải trên bình diện thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng nhằm làm sâu sắc thêm giá trị của chúng. Đồng thời với sự tham gia này mà triết học tự làm giàu thêm hệ thống khái niệm, phạm trù của mình, cũng như của khoa học nói chung. Nói một cách khái quát, việc nghiên cứu và giảng dạy triết học phải được triển khai một cách toàn diện hơn, không chỉ giới hạn theo cách mà các giáo trình hiện nay vẫn làm. Ngoài phần chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử ra, còn cần phải có những nội dung khác. 2. Phải chú trọng đến kiến thức cơ bản trong quá trình đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học Mác- Lênin Rõ ràng, việc tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học là một nhu cầu bức xúc hiện nay. Nó phản ánh tính tất yếu khách quan trong sự phát triển khoa
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2