TIỂU LUẬN: MẤY VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI X CỦA ĐẢNG
lượt xem 21
download
Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: mấy vấn đề đạo đức người cán bộ, đảng viên trong văn kiện đại hội x của đảng', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TIỂU LUẬN: MẤY VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI X CỦA ĐẢNG
- TIỂU LUẬN: MẤY VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI X CỦA ĐẢNG
- Trong cấu trúc nhân cách nói chung, nhân cách người cán bộ, đảng viên nói riêng, đạo đức luôn giữ vị trí nền tảng. Không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Chính vì vậy, Đảng ta rất quan tâm đến việc giáo dục lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình. Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay – như Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ - “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng” thì vấn đề giáo dục đạo đức càng trở nên cần thiết. Chủ đề Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”(1). Chủ đề này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng và vai trò lãnh đạo không thể thay thế của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, "nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước... Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với việc giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xoá đói giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công tác
- xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực"(2). Bên cạnh những thành tựu to lớn trên đây, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, yếu kém cần khắc phục không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, trong cơ chế, chính sách về văn hoá - xã hội, trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh cũng như trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, mà cả trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là sự yếu kém về phẩm chất, năng lực và tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đánh giá thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên trong thời gian qua, Đại hội X khẳng định: "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”(3). Đứng trước thực trạng đó, việc khắc phục sự suy thoái, xuống cấp về mặt đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên nói riêng, trong một bộ phận dân cư nói chung càng trở nên cấp bách. Tính cấp bách đó xuất phát từ vị trí, vai trò của người cán bộ, đảng viên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Thực tiễn chứng tỏ rằng, mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời kỳ cách mạng luôn cần có đội ngũ cán bộ thích ứng, đủ khả năng đảm đương những nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Đó là đòi hỏi, là yêu cầu khách quan của cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta"(4). Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, coi cán bộ là "cái gốc" của mọi công việc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII "Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" đã khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng"(5). Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của V.I.Lênin cho rằng, "trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh
- tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào"(6). Để hoàn thành vai trò “nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”, Đảng ta luôn chú trọng việc giáo dục lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. V.I.Lênin từng căn dặn chúng ta rằng, cần phải “nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”(7). Trong cấu trúc nhân cách nói chung, nhân cách người cán bộ, đảng viên nói riêng, đạo đức luôn đóng vai trò nền tảng. Tài năng chỉ thực sự phát huy tác dụng khi nó được hình thành và phát triển trên một nền tảng đạo đức vững chắc, hướng thiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, đối với người cách mạng, cần phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Trung thành với những chỉ dẫn đó của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra một hệ tiêu chuẩn của người cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân; có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao v.v.. Đảng còn chỉ rõ mối "quan hệ mật thiết" giữa các tiêu chuẩn đó và khẳng định phải luôn "coi trọng cả đức và tài, đức là gốc"(chúng tôi nhấn mạnh – T.S.P.)(8). Quan niệm "đức là gốc", một lần nữa, đã được Đảng ta khẳng định trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội X: "Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng... Chú trọng trẻ hoá và nâng cao trình độ của đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được giao" (chúng tôi nhấn
- mạnh – T.S.P.)(9). Để góp phần nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự trong sạch, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, trong thời gian tới, chúng ta phải thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản mà Đại hội X đã đề ra: Thứ nhất, "tạo chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hoá, đạo đức và lối sống"(10). Có thể nói, đây là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, một trận địa vô cùng gay go, phức tạp mà chúng ta đang phải tiến hành. Nhiều năm qua, chúng ta đã có những cố gắng rất lớn trong lĩnh vực này, cả về chủ trương lẫn biện pháp thực hiện. Tuy nhiên, hiệu suất và hiệu quả đạt được chưa tương xứng với sự mong mỏi của Đảng và nhân dân. Trong khi nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước(năm 2001 đạt 6,9%, năm 2002 đạt 7,08%, năm 2003 đạt 7,34%, năm 2004 đạt 7,8%, năm 2005 đạt 8,43%, năm 2006 đạt 8,2% và năm 2007 đạt 8,5%), đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện một cách đáng kể… thì mặt đạo đức lại có biểu hiện xuống cấp. Mặt trái của kinh tế thị trường bộc lộ ngày càng mạnh mẽ và trở nên trầm trọng, nhất là chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức có xu hướng gia tăng. Nguy hại hơn là những tệ nạn này diễn ra một cách khá phổ biến ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương. Từ Đề án 112 (Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005 - PMU 112) đến vụ việc ở Bộ Giao thông vận tải (PMU 18); từ việc chuyển nhượng, mua bán quota hàng dệt may ở Bộ Thương mại cho đến những sai phạm trong công tác đấu thầu một số dự án ở Tổng Công ty dầu khí Việt Nam. Từ những tiêu cực đất đai ở Đồ Sơn (Hải Phòng) đến vụ hàng trăm tỷ đồng của nhà nước rơi vào túi tư nhân qua việc “biếu không” 700 ha đất công trồng cao su cho tư nhân ở Bình Dương…. Trong khi đó, hàng năm, tổng các khoản đóng góp của người dân thông qua các loại phí chiếm khoảng 10% thu nhập bình quân của các hộ nghèo và khoảng 5% thu nhập của toàn thể các hộ dân trong cả nước(11). Thứ hai, phải "tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn với công tác tổ chức - cán bộ và phát triển kinh tế; chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống"; đồng thời, "tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống,
- nâng cao tính tiên phong gương mẫu, phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên"(12). Đây là một trong những nhiệm vụ nặng nề và cấp bách hiện nay của Đảng ta. Khi mà "tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên… là nghiêm trọng" đang trở thành tấm gương phản diện, cản trở công cuộc đổi mới đất nước, làm cho niềm tin vào chủ nghĩa xã hội bị thách thức, thì công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Theo đánh giá của Đại hội X, công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống của chúng ta hiện vẫn còn chung chung, kém hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, Đảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chính vì vậy, Đảng ta coi nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Thứ ba, "tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí"(13) với một quyết tâm chính trị cao. Dưới góc độ đạo đức, "tham nhũng, lãng phí" là mặt trái, đối lập với những giá trị đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư - những giá trị đạo đức mới được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta hết sức coi trọng. Những số liệu gần đây cho thấy, tham nhũng - một “quốc nạn” của chúng ta - vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Theo báo "Lao động" (ngày 13-10-2006), riêng tiền biếu của 663 đơn vị đã lên đến 4.000 tỷ đồng. Thử hỏi, ở nước ta có mấy nghìn đơn vị và số tiền gây lãng phí này sẽ là bao nhiêu? Theo kết luận của Uỷ ban tư pháp của Quốc hội giám sát về công tác phòng, chống tham nhũng tại phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 18 –10 - 2007, “tình hình tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng, phức tạp, xẩy ra ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương, nhưng số vụ việc được phát hiện và xử lý chưa tương xứng với đánh giá về tình trạng này…”(14). Để khắc phục tình trạng trên, chúng ta phải khẩn trương và nghiêm chỉnh thực hiệnLuật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đồng thời, bổ sung, hoàn thiện Luật khiếu nại và tố cáo như Đại hội X của Đảng đã đề ra.
- Thứ tư, đẩy mạnh phong trào "học tập, quán triệt, làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh..."(15). Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức vô cùng trong sáng để chúng ta học tập, noi theo. Những tư tưởng đạo đức của Người mãi mãi là hành trang, là "cẩm nang thần kỳ" để mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta mang theo trong quá trình hoạt động thực tiễn. Sống, làm việc và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mãi mãi là khẩu hiệu hành động của chúng ta. Có như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên mới thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng, xứng đáng là “công bộc của nhân dân”. Hồ Chí Minh thường căn dặn, nhắc nhở chúng ta rằng, “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(16). Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên học tập, rèn luyện, chăm lo tu dưỡng đạo đức cách mạng như việc rửa mặt hàng ngày. Thứ năm, cần "xử lý hài hoà các lợi ích, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết… Không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác"(17). Các nhà duy vật Pháp quan niệm rằng, nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó, cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người. Điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa chính trị - thực tiễn vô cùng to lớn. Trong 5 bài học được Đảng ta rút ra từ thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước, bài học thứ 3 là đổi mới phảivì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân… Để giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích này, đòi hỏi chủ thể đạo đức (trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng) phải kiên quyết khắc phục chủ nghĩa cá nhân, phát huy tinh thần tập thể, coi chủ nghĩa tập thể là một trong những nguyên tắc đạo đức cơ bản của con người mới xã hội chủ nghĩa. Thứ sáu, tổ chức Đảng phải tăng cường chủ động giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên; sớm phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm và thiếu sót khi mới manh nha. Sự kiểm tra và giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên là
- trách nhiệm không chỉ của các tổ chức đảng, mà cả của quần chúng nhân dân. Thực tế cho thấy, chúng ta phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn. Trong số các vụ việc tiêu cực vừa qua, rất nhiều trường hợp được phát hiện do quần chúng nhân dân chứ không phải do tổ chức cơ sở đảng. Điều này cho thấy, việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với công tác xây dựng Đảng là hết sức cần thiết. Có thể nói, đạo đức là một trong những bộ phận quan trọng nhất hợp thành nhân cách của một con người. Đối với người cán bộ, đảng viên, đạo đức cách mạng luôn là cái "gốc" giúp họ hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình; do đó, việc đấu tranh “chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống” và “xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng”(18) đã và đang là vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay./. (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. ([i]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 12. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.14. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.65. (4) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 273. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Trung ương ba khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia 1997, Hà Nội, tr. 66. (6) V.I.Lênin, Toàn tập, t.4. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 473. (7) V.I.Lênin. Sđd., t. 44, tr. 449. (8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị Trung ương ba khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 80. (9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.133. (10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.187.
- (11) Xem: Báo Nông thôn ngày nay, số ra ngày 26-10-2007. (12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.131 – 132, 280. (13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.128. (14) Báo Lao động, ngày 19-10-2007, tr.1. (15) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ.X Sđd., tr.286. (16) Hồ Chí Minh. Toàn tập. Sđd., t.12, tr .557. (17) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr. 300 –301. (18) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.132. CÁC MÁC VĨ ĐẠI VẪN SỐNG VỚI NHÂN LOẠI Ở THẾ KỶ XXI NGUYỄN TRỌNG CHUẨN (*) Cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, lịch sử nhân loại đã diễn ra với nhiều biến cố bất ngờ, từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đến sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nhân đó, đã có nhiều công trình, bài viết tuyên bố về cái chết của triết học Mác, chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của Mác. Song, thực tiễn lịch sử đã cho thấy, với bản chất cách mạng và khoa học, triết học Mác, chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của C.Mác không những không chết, mà còn trường tồn với nhân loại ở thế kỷ XXI. Rằng, những di sản lý luận của C.Mác đã trở thành tài sản chung của cả nhân loại và sẽ mãi mãi là như vậy. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã từng là đề tài của những cuốn sách,
- bài báo mà trong đó, các tác giả của chúng đều có một cái đích chung là “chứng minh” về cái chết của chủ nghĩa Mác, về cái chết của chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của C.Mác. Nổi bật trong số các cuốn sách loại đó phải nói đến cuốn Sự cáo chung của lịch sử và Con người cuối cùng của Francis Fukuyama (Phranxi Phucuyama) xuất bản tại Niu Oóc năm 1992(1). Theo sự so sánh của Giăccơ Đêrriđa (Jacques Derrida) - nhà triết học người Pháp, một trong những nhà triết học phương Tây nổi tiếng thế giới ở thế kỷ XX, trong cuốn Những bóng ma của Mác (Spectres de Marx), thì lúc đó, ở phương Tây, “người ta mua cuốn sách này như một bà nội trợ xô vào mua đường và dầu, khi có những tin đồn đầu tiên về chiến tranh”(2). Bên cạnh nhiều đánh giá khác của Giăccơ Đêrriđa về cuốn sách trên của Francis Fukuyama, thì những đánh giá sau đây của ông quả thật rất đáng lưu ý: “Nếu một luận thuyết kiểu như luận thuyết của Fukuyama đóng một cách có hiệu quả vai trò gây mơ hồ và vai trò phủ nhận sầu thảm gấp đôi mà người ta chờ đợi ở nó, thì nó đã làm một trò lừa gạt một cách khôn khéo đối với một số người này và thô bạo đối với một số người khác”(3). Hoặc: “Phải thừa nhận là quyển sách này mang sắc thái tinh vi hơn, đôi khi để lửng, thậm chí đến mức mập mờ...”(4). Nói cách khác, người ta không thể không nghi ngờ về tính khách quan và tính khoa học của cuốn sách trên của Fukuyama. Không ai có thể phủ nhận một sự thật là Liên Xô và khối Đông Âu xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, chủ nghĩa xã hội đã bị một tổn thất hết sức nặng nề. Nhưng từ sự sụp đổ đó mà rút ra kết luận rằng, học thuyết của C.Mác đã chết, triết học Mác đã chết, chủ nghĩa cộng sản đã chết thì thật là một sự vui mừng quá sớm, là một sai lầm, nếu không muốn nói là do những động cơ không trong sáng, hay nặng hơn, là do sự thù ghét cay độc đối với C.Mác và các học thuyết của ông. Hãy khoan nói đến ở đây những nguyên nhân gây ra sự sụp đổ đó của Liên Xô và các nước Đông Âu với tính cách một mô hình, một kiểu chủ nghĩa xã hội đã được người đời sau thiết kế theo sự hiểu biết, sự giả định, một sự mong muốn chủ quan của mình nhưng lại mệnh danh, hoặc tưởng rằng, đã làm theo đúng chỉ dẫn của C.Mác, là xuất phát từ C.Mác, là trung thành tuyệt đối với C.Mác, bởi những nguyên
- nhân gây nên sự sụp đổ ấy thì có rất nhiều và cần phải được mổ xẻ trong một dịp khác. Trong dịp Kỷ niệm 190 năm Ngày sinh C.Mác (05/05/1818 – 05/05/2008), chúng ta hãy chỉ đề cập một cách hết sức vắn tắt đến các học thuyết cơ bản của C.Mác, chẳng hạn như quan niệm duy vật về lịch sử hay học thuyết về giá trị thặng dư, chứ chưa nói đến rất nhiều những tư tưởng vượt thời đại khác của ông đã hợp thành chủ nghĩa mang tên ông, để có một cái nhìn thật sự khách quan, thật sự khoa học, thật sự tôn trọng C.Mác. Trước hết, chúng ta hãy nhớ lại một luận điểm nổi tiếng mà người tiền bối vĩ đại của C.Mác đã đưa ra trong lĩnh vực triết học, người đã được C.Mác cải tạo theo lối duy vật, đã kế thừa và vượt qua. Đó chính là luận điểm được Hêghen trình bày trong Những bài giảng về lịch sử triết học của ông. Hêghen viết: “Triết học hiện đại là kết quả của tất cả những nguyên lý có từ trước đó; như vậy, không có một hệ thống nào bị lật đổ, không phải nguyên lý của triết học đó bị lật đổ mà chỉ có sự giả định rằng, nguyên lý đó là định nghĩa tuyệt đối cuối cùng bị lật đổ mà thôi”(5). Câu nói đó của Hêghen hoàn toàn có thể vận dụng vào trường hợp của C.Mác. Điều đó có nghĩa là, một học thuyết, một hệ thống triết học hay một học thuyết xã hội nào đó, nếu là kết quả của sự tổng kết khoa học về lịch sử, là sự đúc rút từ các nguyên lý khoa học có từ trước đó mà không bị tuyệt đối hoá đến mức giáo điều, không bị làm cho khô cứng đi thì không bao giờ nó mất hết các giá trị, không bao giờ bị sụp đổ hoàn toàn. Điều đó cũng rất dễ hiểu. Không có một lý thuyết nào là tuyệt đối đúng cho mọi thời đại, trong mọi điều kiện lịch sử, bởi chân lý là một quá trình, chân lý nằm trong quá trình và việc đạt đến chân lý cũng là một quá trình. Các tư tưởng, các học thuyết của C.Mác về triết học, về xã hội, về kinh tế, về con người, về khoa học và kỹ thuật, v.v. vốn là kết quả của một sự nghiên cứu, phê phán, tiếp thu, vượt bỏ những thiên tài trước ông, tính từ thời Cổ đại cho đến tận L.Phoiơbắc; của sự khái quát lý luận và tổng kết thực tiễn cực kỳ sôi động thế giới lúc bấy giờ, và trên hết là sự sáng tạo tuyệt vời của một bộ óc thiên tài, của một trong những vĩ nhân vĩ đại nhất, có ảnh hưởng to lớn nhất trong mọi thời đại của nhân loại, như một cuộc thăm dò dư luận phương Tây cuối thế kỷ XX đã cho thấy. Những tiền
- đề xuất phát để C.Mác rút ra các kết luận lý luận “không phải là những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi... Những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần tuý”(6). Do vậy, những tư tưởng và những học thuyết của C.Mác hoàn toàn và tuyệt nhiên không phải là những “ảo tưởng chủ quan”, không phải là “duy ý chí” như những người phê phán C.Mác đã cố tình gán ghép. Chúng ta đều biết rằng, do không thỏa mãn với các cách giải thích khác nhau của những người đi trước mình về lịch sử xã hội loài người, nên C.Mác đã kiên trì đi tìm và đã tìm ra “những điều bí ẩn của lịch sử”, “chủ thể của lịch sử” và “chìa khóa của lịch sử đích thực”. Với C.Mác, cái thúc đẩy sự vận động của lịch sử không phải là sức mạnh siêu tự nhiên, cũng không phải là những tư tưởng hay ý chí của con người, của các vĩ nhân, mà chính là sản xuất vật chất, là những lợi ích vật chất, còn chính quần chúng nhân dân mới là những người sáng tạo chân chính ra lịch sử của mình. Quan điểm mang tính chất nền tảng đó có quan hệ chặt chẽ với quan niệm về sự phát triển của lực lượng sản xuất và vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của mọi hình thái xã hội từ trước cho đến nay. Với C.Mác, không những các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau là một quá trình lịch sử - tự nhiên, mà sự thay thế các hình thái đó cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Điều đó có nghĩa rằng, khi đã là một quá trình lịch sử - tự nhiên thì con người hoàn toàn có thể khám phá được, có thể nhận thức được, có thể nắm được và vận dụng được các quy luật vận động của nó. Và, C.Mác đã chứng minh điều đó một cách tài tình, vừa khoa học, vừa hết sức thuyết phục trong nhiều công trình, đặc biệt là trong bộ Tư bản - một công trình của suốt cả cuộc đời C.Mác, rằng hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, sớm hay muộn, tất yếu sẽ bị thay thế bằng một phương thức sản xuất tiên tiến hơn, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội sẽ đến một lúc không còn có thể chứa đựng trong các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nữa. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử. Tuy nhiên, khi khẳng định như vậy, C.Mác không hề xác định thời điểm cụ thể về sự thay thế đó hay về thời điểm diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Đáng tiếc là những người lãnh đạo và các nhà lý luận đi sau C.Mác, do quá say sưa với thắng lợi và sự
- lớn mạnh một thời của chủ nghĩa xã hội trên quy mô thế giới, dường như muốn thúc đẩy nhanh “cái chết” đó của chủ nghĩa tư bản nên đã không đủ tỉnh táo để thấy rằng chính C.Mác, ngay trong Lời tựa viết cho lần xuất bản đầu tiên tập I bộ Tư bản, đã nhận ra rằng, xã hội tư bản “hoàn toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là một cơ thể có khả năng biến đổi và luôn luôn ở trong quá trình biến đổi”(7). Rõ ràng, một xã hội, cũng như một cơ thể sống, khi còn có khả năng biến đổi và đang trong quá trình biến đổi thì có nghĩa là cơ thể đó còn có khả năng thích nghi, nó chưa thể chết ngay. Về điều này, C.Mác cũng đã từng nói rằng, “không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành”(8). Lịch sử nhân loại thế kỷ XX và hiện nay đã hoàn toàn xác nhận những chỉ dẫn hết sức tinh tường đó của CMác. Hệ thống tư bản chủ nghĩa hiện đại vẫn đang còn sức sống, đang thể hiện sức mạnh thực sự của nó ở những mặt nhất định và đang chi phối khá mạnh nền chính trị và kinh tế thế giới, chứ chưa phải đã đến lúc lịch sử của nó kết thúc. Hệ thống đó vẫn đang có khả năng thích nghi, tự điều chỉnh và tiếp tục phát triển. Không thể không thấy điều đó. Vậy, liệu có thể từ đó mà rút ra kết luận rằng, chủ nghĩa tư bản là vĩnh hằng, là bất tử, là tương lai duy nhất của nhân loại hay không? Không. Hoàn toàn không thể! Mọi sự biện hộ theo kiểu đó đều không có cơ sở. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá hiện nay mà C.Mác đã từng dự báo về sự ra đời của nó, với sức mạnh của nó và với cả những mâu thuẫn nội tại mà tự thân nó không thể nào giải quyết được, là bước chuẩn bị cho sự thay thế nó trong tương lai, tức là các điều kiện chuẩn bị cho sự thay thế đó đang trong quá trình hình thành ở ngay trong chính bản thân nó. Lịch sử không bao giờ ngừng lại, không bao giờ ngưng đọng. Biện chứng của lịch sử
- chính là như vậy và sẽ mãi mãi là như vậy. Những bí mật làm giàu của các nhà tư bản và sự bần cùng của người lao động cũng đã từng là một bí mật của lịch sử đã được chính C.Mác khám phá ra nhờhọc thuyết về giá trị thặng dư. Việc phát hiện ra học thuyết này là “công lao lịch sử vĩ đại nhất lao động của Mác. Nó chiếu sáng rực rỡ lên những lĩnh vực kinh tế mà trước kia những nhà xã hội chủ nghĩa cũng mò mẫm trong bóng tối không kém gì những nhà kinh tế học tư sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ ngày có giải đáp đó, và nó là điểm trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học”(9). Ngày nay, nhân loại đang từng bước tiến vào kinh tế tri thức; tri thức đang chuyển hoá “thành lực lượng sản xuất trực tiếp”(10) như C.Mác đã từng tiên đoán. Sự kiện nhân loại bước vào kinh tế tri thức này lại cũng là lý do để cho một số người, cả ở nước ta lẫn nước ngoài, ngộ nhận rằng, kinh tế tư bản và các nhà tư bản đã thay đổi về bản chất, không còn bóc lột người lao động, không tìm kiếm giá trị thặng dư như khi C.Mác viết bộ Tư bản nữa. Theo họ, sức lao động của con người ngày nay chủ yếu đã được chuyển sang cho các máy móc cực kỳ tinh vi với hiệu suất rất cao. Tỷ lệ giá trị của lao động sống không thể so với giá trị do máy móc làm ra, do đó, theo họ, máy móc hiện đại mới là cái sản xuất ra giá trị thặng dư, nghĩa là nhà tư bản bây giờ chỉ còn bóc lột máy móc chứ không phải bóc lột công nhân! Thật ra, như C.Mác đã từng nói: “... Những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới, từ xưa tới nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ”(11). Nhận xét đó của C.Mác vẫn rất đúng trong điều kiện hiện nay. Máy móc, dù có hiện đại đến đâu chăng nữa, cũng vẫn không thể thiếu được sức lao động của con người. Hơn thế nữa, máy móc càng hiện đại, càng tạo ra nhiều sản phẩm hơn, các sản phẩm càng có hàm lượng tri thức nhiều hơn thì lại càng đòi hỏi chất lượng lao động cao hơn, tri thức nhiều hơn, do đó, càng không thể thiếu được công nhân tri thức. Nghĩa là, sản xuất, dù hiện đại đến đâu, cũng không thể thiếu được sức lao động của con người, của người công nhân, của kỹ sư, của nhà khoa học, tức là không thể thiếu được lao động sống. Vậy, nhà tư
- bản lấy lợi nhuận ở đâu, có chiếm đoạt giá trị thặng dư ở đây không? Chắc chắn không khó để trả lời. Chính C.Mác đã chỉ rõ rằng, sự sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của sản xuất tư bản chủ nghĩa; không có lợi nhuận thì không một nhà tư bản nào chịu bỏ vốn để sản xuất, kinh doanh, mà “lợi nhuận chỉ là hình thái thứ sinh, phái sinh và được biến đổi của giá trị thặng dư, là hình thái tư sản trong đó đã xoá hết những nguồn gốc của nó”(12). Dường như có người đã không biết, hoặc đã cố tình quên đi sự luận chứng rất quan trọng và khoa học này của C.Mác về mối quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Rõ ràng là, trong thời đại hiện nay, hình thức bóc lột có thay đổi, đã trở nên khó nhận biết hơn, tinh vi hơn và khác hơn so với thời của C.Mác, nhưng bản chất bóc lột của tư bản thì không khác. Đó chính là nguồn gốc, là nguyên nhân dẫn đến hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, giữa những nước giàu và những nước nghèo hiện nay trên thế giới, kể cả ở các nước tư bản phát triển nhất, đang ngày một doãng ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn. Từ hai vấn đề quan trọng trên, có thể nói rằng, những học thuyết quan trọng của C.Mác không hề lỗi thời, nếu chúng không bị tuyệt đối hoá, nếu như nghiên cứu và vận dụng chúng theo tinh thần biện chứng chứ không phải một cách giáo điều, xơ cứng. Điều này không chỉ chúng ta nói và tin, mà ngay cả nhiều nhà triết học phương Tây nổi tiếng cũng tin như vậy. Và, chắc lòng tin đó của họ không thể coi là xuất phát từ hệ tư tưởng, mà chính là từ những sự trải nghiệm, sự phân tích thực tiễn và sự tổng kết lý luận của chính họ. Giăccơ Đêrriđa, trong Những bóng ma của Mác đã dẫn ra ở trên, khi thừa nhận rằng, “tất cả mọi người trên toàn trái đất này, dù họ muốn, họ biết hay là không, đều là những người kế thừa của Mác và chủ nghĩa Mác với một mức độ nhất định”, đã khẳng định: “Luôn luôn sẽ là một sai lầm, nếu không đọc đi đọc lại và tranh luận những tác phẩm của Mác... Đó sẽ càng ngày càng là một sai lầm, một sự thiếu trách nhiệm về mặt lý luận, triết học và chính trị... Sẽ không có tương lai khi không có trách nhiệm đó. Không có nếu không có Mác; không có tương lai mà lại không có
- Mác. Nếu không có ký ức về Mác và không có di sản của Mác”(13). Chủ nghĩa Mác không chết, chủ nghĩa cộng sản được xây dựng dựa trên các họcthuyết chân chính của C.Mác không chết như một số người từng tuyên bố. C.Mác vẫn sống với nhân loại không chỉ ở thế kỷ XXI, bởi những di sản của C.Mác đã trở thành tài sản chung của cả nhân loại và sẽ mãi mãi là như vậy; bởi như Michel Vadée - nhà triết học, thành viên của Trung tâm nghiên cứu và tư liệu về Hêghen và Mác thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, đã nhận định rằng, “tư tưởng của Mác đã “được biết đến nhiều”: nó đã cắm sâu vào thế giới”(14).r (*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Fukuyama Francis. The End of History and the Last Man. New York: Free Press 1992. (2) Giăccơ Đêrriđa. Những bóng ma của Mác. Nxb Chính trị Quốc gia và Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994, tr.149. (3) Giăccơ Đêrriđa. Sđd., tr.151. (4) Giăccơ Đêrriđa. Sđd., tr.126. (5) Гегел. Сочинение, т. IХ. Москва, 1932, с. 40 (Hêghen. Tác phẩm, t.IX. Mátxcơva, 1932, tr. 40). (6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.28-29. (7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.22. (8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr.15-16. (9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.286. (10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.46, phần II, tr.372. (11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.12, tr.10. (12) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.46, phần II, tr.160. (13) Giăccơ Đêrriđa. Những bóng ma của Mác. Sđd., tr.190 - 191, 42. (14) Michel Vadée. Marx nhà tư tưởng của cái có thể, t.I. Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr.1.
- TRIẾT HỌC MÁC TRONG NHỮNG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI LƯƠNG ĐÌNH HẢI (*) Vấn đề số phận của chủ nghĩa Mác trong bối cảnh đã xuất hiện các xu hướng phát triển mới của nền văn minh thế giới ở những năm đầu thế kỷ XXI đang trở thành một vấn đề phức tạp và là chủ đề của nhiều hội thảo khoa học quốc tế, khu vực và quốc gia. Nhu cầu tổng hợp lý luận toàn bộ tiến trình phát triển của khoa học, công nghệ, thực tiễn lịch sử trong cả thế kỷ XX – thập niên đầu thế kỷ XXI và những đòi hỏi về nguyên tắc, về định hướng mới cho hoạt động của cả cộng đồng nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hoá sẽ không thể giải quyết được một cách trọn vẹn, đầy đủ, chính xác nếu không dựa vào triết học Mác với tư cách lý luận, quan điểm thế giới quan luôn có sự tác động qua lại với các học thuyết và lý luận xã hội khác trong nền văn hoá thế giới đang phát triển. Thế kỷ XX mà chúng ta vừa trải qua là thế kỷ đánh dấu nhiều sự kiện quan trọng trên quy mô toàn cầu, gây ảnh hưởng lớn đến tiến trình phát triển của nhân loại. Đó là Chiến tranh thế giới thứ II, là sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa cả kiểu cũ lẫn kiểu mới, là sự xuất hiện của Liên hợp quốc, là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự hình thành những nền tảng công nghệ đầu tiên của thời kỳ phát triển hậu công nghiệp, là kỷ nguyên chinh phục vũ trụ, là việc xây dựng hệ thống viễn thông toàn cầu, v.v. và v.v.. Có thể kể ra khá nhiều những sự kiện lớn kiểu như vậy. Tuy nhiên, không thể phủ nhận được một thực tế lịch sử là thế kỷ XX đã đi vào lịch sử nhân loại với tư cách thế kỷ của Cách mạng Tháng Mười Nga - cuộc cách mạng xứng đáng nhất với tính từ vĩ đại trong lịch sử loài người. Nhiều học giả đã nhận định, Cách mạng Tháng Mười Nga là sản phẩm thực tiễn của chủ nghĩa Mác. Không những thế, có thể nói, toàn bộ những thành tựu lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội hiện thực, của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và nói chung, những thành tựu trong sự phát triển của nhân loại ở thế kỷ XX, đều trực tiếp hoặc gián tiếp gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện thực, với chủ
- nghĩa Mác. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên, nhiều học giả ở các nước phương Tây đã đánh giá rằng, trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là ở thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác là học thuyết, là lý luận có ảnh hưởng lớn nhất đến đời sống xã hội nhân loại. Trước những năm 90 của thế kỷ XX không mấy ai phản bác điều này và cũng không mấy ai có đủ luận chứng và luận giải để bác bỏ. Tuy nhiên, sau khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hiện thực sụp đổ, nhiều người lại hoài nghi về điều này. Trên các diễn đàn lý luận, trong nhiều công trình đã công bố, người ta nói nhiều không chỉ đến số phận của chủ nghĩa xã hội, mà cả số phận của chủ nghĩa Mác. Khi bàn về diện mạo triết học thế giới thế kỷ XXI, người ta cũng khẳng định sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác. Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Nhưng, tình hình chung trên diễn đàn lý luận thế giới, đặc biệt là ở châu Âu, là sau một quãng thời gian không dài, khoảng xấp xỉ một thập kỷ, sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ, nhiều người không sáng suốt, đánh mất thái độ khách quan, khoa học, đã phủ nhận chủ nghĩa xã hội hiện thực với những thành tựu của nó và từ đó, phủ nhận toàn bộ chủ nghĩa Mác. Một bộ phận khác có thái độ hoài nghi, không thấy được những nội dung lý luận, khoa học sâu sắc trong chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng và do vậy, đã đồng nhất chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa xã hội hiện thực của hệ thống xã hội chủ nghĩa để từ đó, đi đến phủ nhận toàn bộ chủ nghĩa Mác(1). Sang những năm đầu thế kỷ XXI, ở các nước phương Tây, tình hình đã có những thay đổi rõ nét. Thái độ bình tĩnh, khách quan, lý tính, khoa học và công minh đã dần nổi trội hơn trước đó. Đã xuất hiện hàng loạt các công trình, báo cáo khoa học, bài báo phân tích với thái độ khách quan hơn, toàn diện hơn và khoa học hơn, đánh giá đúng đắn hơn về chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng. Điều này đặc biệt thể hiện rõ trên diễn đàn lý luận của các nước mà trước đây, thuộc khối xã hội chủ nghĩa châu Âu. Người ta đã thoát ra khỏi sai lầm lớn trước đây khi quy không chỉ tất cả những gì xấu xa trong chủ nghĩa xã hội, mà cả nguyên nhân sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực cho chủ nghĩa Mác. Quan điểm đó xuất phát từ cách nghĩ giáo điều rằng, mọi vấn đề của xã hội hiện đại đều có trong triết học Mác và trong chủ nghĩa Mác, do đó mọi khuyết tật của hiện thực là xuất phát từ những sai lầm nhất định trong lý luận.
- Một học giả mácxít nổi tiếng người Nga - V.X.Stepin đã nói: Lịch sử luôn phát triển, truyền bá và vận dụng học thuyết Mác là đa dạng và nhiều vẻ; nó như một cái cây có nhiều cành mà mỗi cành là một trào lưu, một phương diện, một kiểu nhận thức, một cách giải thích riêng các tư tưởng và nguyên lý của chủ nghĩa Mác. Thực tế là, có chủ nghĩa Mác kinh điển, thể hiện trong các tác phẩm do C.Mác và Ph.Ăngghen viết. Cũng có một thực tế khác, đó là V.I.Lênin đã giải thích và hoàn thiện chủ nghĩa Mác, vận dụng nó vào điều kiện và hiện thực nước Nga. Cũng lại có một thực tế nữa là, phương án lý luận mà I.V.Xtalin đưa ra là phương án dựa trên thực tiễn quyền uy. Hiện cũng lại đang có sự kiến giải chủ nghĩa Mác theo kiểu dân chủ - xã hội, dựa trên kinh nghiệm châu Âu về nền quản lý dân chủ – xã hội (Thuỵ Điển, Phần Lan...). Gần gũi với cái đó nhưng cũng đồng thời với nó và cũng là phương án đặc thù của khuynh hướng dân chủ – xã hội là chủ nghĩa Mensêvích Nga (Plêkhanốp, Martốp, Acxelrốd…). Có sự vận dụng chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc, ở Việt Nam,… Và đương nhiên, hiện đang tồn tại chủ nghĩa Mác mới, hiện đại. Trường phái Frankfuork cũng đã xuất phát từ chủ nghĩa Mác. Nhiều đại biểu của trường phái này đã nhấn mạnh đến mối liên hệ với các tư tưởng của C.Mác. Như vậy, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, chủ nghĩa Mác được nhiều trào lưu khác nhau diễn giải, nhận thức, vận dụng một cách khác nhau. Trào lưu nào cũng nhận mình là mácxít. Mỗi trào lưu một vẻ. Vì thế, theo nhiều học giả, khi nói kinh nghiệm và những bài học lịch sử đang chứng tỏ tính chất vô căn cứ của học thuyết ấy thì điều quan trọng là phải hiểu rằng, đó là cái nào trong số này. Nếu như đó là hệ thống các tư tưởng đã giáo điều hoá và thần thánh hoá, làm cơ sở tư tưởng hệ cho chủ nghĩa Xtalin và chủ nghĩa quyền uy thì rõ ràng là cần phải phê phán. Càng phê phán triệt để bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Thực tế cho thấy, đã và đang có một vết mòn, một thói quen trong suy nghĩ, tư duy của nhiều người là dường như, mọi điều tệ hại trong xã hội hôm nay đều có nguyên nhân từ lý luận hoặc từ việc thực hiện trên thực tiễn lý luận ấy. Vì vậy, điều quan trọng là phải phân tích một cách thực sự khoa học thực chất của lý luận và với mỗi lý luận, cần phải làm rõ cái gì còn giá trị đối với thời đại và cái gì đã bị thời đại vượt qua. Với chủ nghĩa Mác cũng có tình hình tương tự. Đã như một thói quen, trong cả
- thời gian dài, người ta cho rằng, mọi cái trong xã hội đều đã được ghi sẵn trong lý luận của Mác; rằng hoạt động của đảng và nhà nước dựa trên cơ sở học thuyết Mác nên luôn có căn cứ khoa học và đúng đắn. Hơn nữa, loại tư duy, thói quen ấy còn cho rằng, lý luận xã hội được tiếp nhận trong ý thức quần chúng cũng tương tự như các lý luận khoa học tự nhiên chặt chẽ, nó cho phép chúng ta tính toán, nghĩ đến và nhìn thấy trước mọi thứ. Thứ tư duy, thói quen ấy có xuất phát điểm là cái có thể tạm gọi là tư duy kỹ nghệ hay tư duy kỹ trị. Tư duy này đi liền với lối giảng dạy và tuyên truyền quái đản về tính khoa học trong chính sách của đảng và nhà nước đã tạo ra sự ngộ nhận quái dị nói trên. Trong khi đó thì lý luận xã hội nói chung, học thuyết Mác nói riêng lại bao hàm trong nó nhiều mức độ và phương diện khác nhau. Không thể áp đặt một cách máy móc cho các lý luận xã hội này những tiêu chuẩn về tính khoa học lấy từ lĩnh vực khoa học tự nhiên. Triết học không thể xây dựng theo sơ đồ lôgíc toán, mặc dù không loại trừ việc sử dụng các thủ thuật lập luận có trong lôgíc học. Triết học không chỉ dựa trên các thành tựu khoa học, mặc dù nó bao hàm việc khái quát các thành tựu khoa học như là một trong những phương diện quan trọng. Nếu như triết học được tạo ra như là khoa học theo kiểu phương pháp khoa học tự nhiên thì có lẽ, nó đã không còn là triết học nữa. Điều này thể hiện đặc biệt rõ khi nói về các dự báo dài hạn có liên quan đến những xu thế chung của tiến bộ xã hội. Những dự báo như vậy không thể là những tiên đoán mang tính quyết định, mà mang tính xác suất. Sẽ là sai lầm nghiêm trọng, nếu xem chúng như những kết quả tính toán chính xác. Cách nhìn quái dị nói trên vẫn thường được không ít người dùng để áp dụng cho các tiên đoán của C.Mác và khi không tìm ra được minh chứng thực tế thì đi đến kết luận rằng, những tiên đoán ấy là không tưởng. Mặc dù mọi dự báo về tương lai dài hạn đều bao chứa tính chất không tưởng, song điều tai hại không phải là ở đó, mà là ở chỗ, những dự báo ấy được người ta xem như những nét vẽ cụ thể, chính xác về xã hội tương lai, được hiểu giống như một dự án kỹ thuật về một cỗ máy cụ thể, cần phải được thực hiện. Không một học thuyết nào trong lịch sử lại có thể đúng ở tất cả các bộ phận của nó và không bị bác bỏ, dù chỉ là một nguyên lý hay tiên đoán. Điều quan trọng là chỉ ra được một cách cụ thể cái gì
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Công tác cải cách thủ tục hành chính ở tỉnh Nghệ An
31 p | 2453 | 570
-
Tiểu luận: “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Xuất nhập khẩu dệt may sang thị trường Mỹ ”
85 p | 882 | 372
-
Tiểu Luận: Quản lý nhân sự cho công ty máy tính
14 p | 604 | 213
-
Tiểu luận: “Một số biện pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty May Chiến Thắng”
85 p | 327 | 128
-
Tiểu luận triết học - ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC CƠ QUAN TRONG BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
11 p | 457 | 122
-
Tiểu luận: “Những thời cơ và thách thức khi xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU của ngành dệt may Việt Nam”
40 p | 297 | 90
-
Tiểu luận Phân tích hợp tác thương mại Việt Nam- Liên minh Châu Âu trong lĩnh vực dệt may
20 p | 247 | 76
-
Tiểu luận "Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch vụ bảo hành tới quyết định mua xe máy của sinh viên đại học Kinh tế quốc dân"
32 p | 269 | 74
-
Tiểu luận Khả năng xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ
28 p | 249 | 70
-
Tiểu luận triết học - Máy móc đại Công nghiệp, vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam
13 p | 276 | 66
-
TIỂU LUẬN: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM ÁO PHÔNG TẠI TỔNG CÔNG TY MAY VIỆT NAM
37 p | 172 | 41
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng sản xuất và tiêu thụ mây tre đan tại xã Thượng Hiền, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
78 p | 189 | 27
-
TIỂU LUẬN: MẤY SUY NGHĨ VỀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
128 p | 127 | 16
-
Tiểu luận: Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông
11 p | 133 | 9
-
Tiểu luận - Máy móc đại Công nghiệp, vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam
15 p | 144 | 8
-
Tiểu luận: Máy móc đại công nghiệp và vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam
14 p | 141 | 8
-
Tiểu luận triết: Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn Rạng Đông
12 p | 116 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn