intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận:Một vài nét về quan hệ Việt Nam- TRung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI (từ 2001 đến nay)

Chia sẻ: Bcjxc Gdfgf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

148
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau gần 30 năm cải cách, mở cửa và phát triển kinh tế, Trung Quốc hiện đang là một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và cao nhất thế giới, trở thành đối thủ cạnh tranh đáng gờm của các trung tâm kinh tế thế giới. Sự phát triển kinh tế – xã hội và yêu cầu đạt được các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc đặt ra cho Trung Quốc những nhu cầu rất cao về nguyên liệu,

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận:Một vài nét về quan hệ Việt Nam- TRung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI (từ 2001 đến nay)

  1. BÀI TẬP LỚN MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI II Đề tài: MỘT VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (TỪ 2001 ĐẾN NAY) Sinh viên: Nguyễn Thị Quỳnh Anh Lớp A33
  2. 1 MỘT VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (TỪ 2001 ĐẾN NAY) MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2 I. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT – TRUNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI ................................................ 3 1. Môi trường khu vực và quốc tế ......................................................... 3 2. Nhu cầu thúc đẩy hợp tác để phát triển đất nước ............................... 3 3. Sự gần gũi về địa lý và nhân tố lịch sử truyền thống ......................... 5 4. Hai nước có nhiều điểm tương đồng ................................................. 6 II. THÀNH TỰU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI ................................ 6 1. Thành tựu quan hệ Việt – Trung ....................................................... 6 2. Một số tồn tại .................................................................................... 9 III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ......................................................................... 9 KẾT LUẬN .................................................................................................. 11 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 12
  3. 2 MỞ ĐẦU Sau gần 30 năm cải cách, mở cửa và phát triển kinh tế, Trung Quốc hiện đang là một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và cao nhất thế giới, trở thành đối thủ cạnh tranh đáng gờm của các trung tâm kinh tế thế giới. Sự phát triển kinh tế – xã hội và yêu cầu đạt được các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc đặt ra cho Trung Quốc những nhu cầu rất cao về nguyên liệu, nhiên liệu, về thị trường xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư, về môi trường hòa bình ổn định trong khu vực và thế giới. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, bên cạnh việc mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác trên thế giới, Trung Quốc đã đặc biệt ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng theo phương châm “thân thiện với láng giềng” và “đẩy mạnh quan hệ kinh tế - thương mại”. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”, hai dân tộc Việt – Hoa có mối quan hệ truyền thống láng giềng trải qua mấy nghìn năm lịch sử đầy thăng trầm. Chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam và chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc có thể thay đổi qua mỗi thời kỳ, song nó không thể thay đổi được thực tế về “quan hệ láng giềng” giữa hai nước. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc được củng cố và phát triển theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” mà đã được lãnh đạo hai nước đề ra và nhiều lần khẳng định. Bài tiểu luận sẽ tập trung đánh giá mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI, từ đó đưa ra một số kiến nghị đối với Việt Nam nhằm tận dụng những cơ hội và hạn chế những tác động tiêu cực trong quan hệ với Trung Quốc trong giai đoạn tới. Trong phạm vi bài viết, những phân tích dưới đây sẽ không tránh khỏi sơ sài và thiếu sót. Kính mong thầy, cô giáo và các bạn góp ý, chỉ bảo.
  4. 3 I. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT – TRUNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI 1. Môi trường khu vực và quốc tế Bước vào thế kỷ 21, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trong quan hệ quốc tế, các nước lớn tiếp tục duy trì quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh. Sau sự kiện 11/9/2001, quan hệ giữa các nước, đặc biệt là quan hệ giữa các nước lớn có xu hướng đi vào hòa dịu hơn và nhấn mạnh đến lợi ích chung là chống khủng bố đã tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan lôi cuốn các quốc gia tham gia vào quá trình này, tạo ra những cơ hội phát triển nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức lớn cho các nước. Cùng với toàn cầu hóa kinh tế, xu thế liên kết, hợp tác kinh tế song phương và khu vực cũng ngày càng tăng, tạo nên diện mạo mới cho nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó Việt Nam và Trung Quốc đều tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ sự phát triển của nền kinh tế đất nước - một trong những yếu tố quan trọng của nền an ninh quốc gia trong thời kỳ mới. Cả Việt Nam và Trung Quốc cần thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác giao lưu kinh tế với các quốc gia láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó có quan hệ song phương giữa hai nước. Ngoài ra, sự phát triển của quan hệ Việt – Trung trong những năm đầu thế kỷ XXI được đặt ra trong bối cảnh Việt Nam và Trung Quốc cùng thực hiện chính sách đối ngoại mở cửa, đa dạng hóa và đa phương hoá. 2. Nhu cầu thúc đẩy hợp tác để phát triển đất nước Do yêu cầu của công cuộc Đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” như đã đề ra, Việt Nam rất coi trọng việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại “hai bên cùng có lợi” với các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Trung Quốc, nước láng giềng lớn ở phía Bắc Việt Nam, một nước đã thu được những thành tựu quan trọng và những kinh nghiệm quý báu trong cải cách kinh tế mở cửa đối ngoại.
  5. 4 Trung Quốc là một trong những thị trường rộng lớn và tiềm năng nhất trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, đối với Việt Nam, Trung Quốc còn là một thị trường tương đối dễ thâm nhập. Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, thì rõ ràng không thể không coi trọng thị trường Trung Quốc. Với Trung Quốc, Việt Nam là nước láng giềng chung đường biên giới trên bộ lẫn trên biển và nằm trên Bán đảo Đông Dương nối các nước Đông Nam Á hải đảo với phần lục địa. Việt Nam được coi là tấm bình phong bảo đảm an ninh phía Nam của Trung Quốc và là cửa ngõ trong chiến lược đi xuống phía Nam từ đó vươn ra châu Ấ – Thái Bình Dương và thế giới của Trung Quốc. - Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là một trong những nước ngày càng có uy tín và đóng vai trò quan trọng trong ASEAN mà Trung Quốc có thể tranh thủ quan hệ để tác động tới các tổ chức và diễn đàn theo hướng có lợi cho mình. - Trong quan hệ với các nước lớn, Việt Nam chiếm vị trí quan trọng trong chính sách đối với khu vực của Mỹ, Nhật Bản, Nga... Những nước lớn này đang tìm cách lôi kéo và tăng cường quan hệ với Việt Nam không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả chính trị và an ninh. Do vậy, Trung Quốc có lợi ích trong phát triển quan hệ với Việt Nam, không để Việt Nam chịu ảnh hưởng chi phối của một nước lớn khác. - Việt Nam tiếp giáp với các tỉnh kém phát triển phía Tây Nam của Trung Quốc nên hợp tác phát triển kinh tế với Việt Nam, đặc biệt là với các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam giáp với Trung Quốc sẽ rất hiệu quả cho kế hoạch phát triển miền Tây của Trung Quốc. Việt Nam là một thị trường đông với hơn 80 triệu dân, giao thông đi lại rất thuận tiện cả về đường bộ lẫn đường biển và có cơ cấu kinh tế mang tính bổ sung cao cho nền kinh tế Trung Quốc nhờ giàu các loại tài nguyên thiên nhiên và nông sản như gạo, mủ cao su, rau quả, quặng bô-xít, kim loại màu, than... nên việc khai thác thị trường
  6. 5 này sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao cho Trung Quốc trong quá trình đẩy mạnh chiến lược đi ra ngoài. 3. Sự gần gũi về địa lý và nhân tố lịch sử truyền thống - Việt Nam và Trung Quốc có đường biên giới trên bộ dài khoảng 1400 km, chạy qua bảy tỉnh của Việt Nam (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên) và hai tỉnh Vân Nam và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. - Trên Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc có chung nhau vịnh Bắc Bộ, một trong những vịnh lớn ở Đông Nam Á và thế giới, có diện tích khoảng 126.250 km2. Đó là vịnh nửa kín do bờ biển của hai nước Việt Nam và Trung Quốc bao bọc. Vịnh có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc cả về kinh tế và an ninh quốc phòng. Vịnh là nơi chứa đựng nhiều tài nguyên thiên nhiên quan trọng: nhiều dự báo cho thấy đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của Vịnh có trữ lượng đáng kể về dầu mỏ và khí đốt; đây là nơi cung cấp nguồn thủy hải sản quan trọng, là vùng đánh cá truyền thống của hai nước Việt – Trung; Vịnh còn là cửa ngõ giao lưu lâu đời của Việt Nam ra thế giới, với nhiều tiềm năng to lớn về phát triển các tuyến vận tải biển của cả hai nước Việt Nam – Trung Quốc. - Người Việt Nam có câu: “bán anh em xa, mua láng giềng gần” nên hết sức coi trọng quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là Trung Quốc – nước láng giềng lớn bên cạnh Việt Nam. Trải qua quá trình lịch sử hàng ngàn năm, nhân dân hai nước đã thiết lập được mối quan hệ hữu nghị gắn bó với nhau. - Dù quan hệ Việt – Trung đã trải qua nhiều bước thăng trầm, đã từng có lúc là đồng minh và có lúc là kẻ thù của nhau trong những giai đoạn lịch sử nhất định, song nhìn một cách tổng thể, hai nước đã thực sự thiết lập được mối quan hệ hữu nghị truyền thống. Có thể nói, truyền thống quan hệ giữa hai nước cùng với sự gắn bó về lịch sử - địa lý luôn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy quan hệ hai nước sau khi bình thường hoá.
  7. 6 4. Hai nước có nhiều điểm tương đồng - Việt Nam và Trung Quốc là hai nước “đồng văn” vì có chung một nền văn hoá Đông Á, là “đồng chí” vì cùng có Đảng Cộng sản lãnh đạo, cùng chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. - Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về tình hình và hoàn cảnh đất nước, về đường lối phát triển, về thời cơ và thách thức... Từ đó, hai nước càng có điều kiện trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong việc phát triển kinh tế, xử lý các vấn đề chính trị - xã hội nội bộ hoặc chia sẻ các mối quan tâm lo ngại chung. Đó là thuận lợi cơ bản thúc đẩy quan hệ Việt – Trung ngày càng phát triển theo chiều sâu và toàn diện. II. THÀNH TỰU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI 1. Thành tựu quan hệ Việt – Trung a) Về quan hệ chính trị Hàng năm, các nhà lãnh đạo cao cấp nhất (Thủ tướng, Chủ tịch nước, Tổng Bí thư...) đều tiến hành các chuyến thăm lẫn nhau. Việc trao đổi đoàn và đối thoại chính trị cấp cao đã trở thành việc làm thường xuyên giữa hai nước. Bên cạnh việc trao đổi các đoàn cấp cao, còn có sự trao đổi, viếng thăm, kết nghĩa với nhau của nhiều đoàn đại biểu các ngành, các đoàn thể, các địa phương hai nước. Hai bên xây dựng khuôn khổ quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác lâu dài. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tháng 2/1999, lãnh đạo cấp cao hai nước xác định phương châm 16 chữ thúc đẩy quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Dịp Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm Trung Quốc tháng 12/2000, hai bên ký Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới, cụ thể hoá phương châm 16 chữ đó thành những biện pháp cụ thể phát triển quan hệ hai nước trên tất cả các lĩnh vực. Năm 2005, hai bên thoả thuận đưa quan hệ hai nước trở thành “láng giềng tốt, bạn bè tốt,
  8. 7 đồng chí tốt, đối tác tốt”. Đặc biệt, trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 5/2008, hai bên nhất trí phát triển “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, đồng thời nhất trí thiết lập đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước tạo cơ sở cho quan hệ hai nước phát triển ổn định, lâu dài trong thời gian tới. b) Về thương mại - Giai đoạn 2001-2008 là giai đoạn quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. Trong 5 năm (2001-2006), kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước đã tăng hơn 3,4 lần, từ 3.047 triệu USD vào năm 2001 lên 10.421 triệu USD vào năm 2006. - Từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản và Mỹ trở thành đối tác thương mại số 1 của Việt Nam và là thị trường trọng điểm hàng đầu của Việt Nam. Trung Quốc đã cung cấp một cách có hiệu quả những mặt hàng nhiên liệu, nguyên liệu có tính chiến lược đối với nền kinh tế Việt Nam. - Năm 2007, kim ngạch mậu dịch hai nước đạt gần 16 tỷ USD, hoàn thành trước 3 năm mục tiêu nâng kim ngạch thương mại hai nước đạt 15 tỷ USD vào năm 2010. Năm 2008, kim ngạch mậu dịch song phương đạt 20,1 tỷ USD, tăng 40% so với năm 2007. c) Về hợp tác đầu tư và du lịch - Tính đến hết tháng 12/2008, Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam 628 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 2,197 tỷ USD, đứng thứ 16/84 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. - Trong những năm qua, Trung Quốc không ngừng tăng qui mô tín dụng ưu đãi dành cho Việt Nam. Hiện hai bên đang triển khai một số dự án hợp tác kinh tế lớn. Hai bên cũng nhất trí tăng cường thúc đẩy các doanh nghiệp của hai nước hợp tác trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác, tăng cường hợp tác các dự án trong khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai kinh tế" và các dự án lớn khác.
  9. 8 - Ngoài tín dụng ưu đãi, Chính phủ Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hoàn lại dùng vào việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc; trao đổi thanh thiếu niên; đầu tư trang thiết bị cho một số bệnh viện tại Việt Nam. - Trung Quốc là thị trường nguồn du lịch lớn nhất của Việt Nam. Năm 2008 có hơn 650 ngàn lượt khách Trung Quốc đi du lịch Việt Nam. d) Về biên giới lãnh thổ - Về biên giới trên đất liền: ngày 31/12/2008 tại Hà Nội, Việt Nam và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung về việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong quan hệ Việt – Trung: lần đầu tiên Việt Nam và Trung Quốc có một đường biên giới trên đất liền hoàn chỉnh (dài khoảng 1.400 km từ Tây sang Đông), được thể hiện rõ ràng trong các văn bản pháp lý được hai bên thống nhất và trên thực địa, tạo điều kiện tăng cường giao lưu hữu nghị và phát triển hợp tác kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học kỹ thuật... giữa hai nước. - Về Vịnh Bắc Bộ: hai Hiệp định về Vịnh Bắc Bộ (Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ) được triển khai tương đối thuận lợi, công tác quản lý đánh bắt và bảo vệ nguồn lợi dần đi vào nề nếp. Hai bên thỏa thuận tiếp tục thực hiện tốt hai Hiệp định này, thực hiện tốt công tác điều tra liên hợp nguồn thủy sản trong Vùng đánh chung và tuần tra chung giữa hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ, đẩy nhanh việc thực hiện "Thỏa thuận khung về hợp tác dầu khí trong vùng thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ", thúc đẩy đàm phán về phân định khu vực ngoài cửa Vịnh (đã tiến hành 5 vòng đàm phán). - Về vấn đề biển Đông: hai bên nhất trí kiên trì thông qua đàm phán hoà bình để giải quyết các tranh chấp nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được, trên cơ sở Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử ở biển Đông (DOC) ký giữa Trung Quốc và ASEAN. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong
  10. 9 các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, môi trường biển, tìm kiếm cứu nạn, khí tượng thủy văn... 2. Một số tồn tại - Thứ nhất, sự khác biệt về lợi ích và chiến lược giữa nước lớn và nước nhỏ khi Trung Quốc là một cường quốc khu vực và thế giới. - Thứ hai, trong quan hệ chính trị vẫn còn một số khác biệt trong nhận thức và quan điểm của lãnh đạo cấp cao hai nước, ví dụ như sự khác nhau trong nhận thức về con đường phát triển, về quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ khác, về lập trường của hai bên trong việc giải quyết các vấn đề còn tồn tại. - Thứ ba, hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Đặc biệt đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam vẫn rất hạn chế, số lượng chưa nhiều, quy mô chưa lớn và hiệu quả chưa cao, tính đến hết năm 2008 Trung Quốc mới chỉ đứng thứ 16/84 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. - Thứ tư, mặc dù quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng phát triển song vẫn còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm giải quyết như cơ cấu mặt hàng trao đổi giữa hai nước bất đối xứng và Việt Nam nhập siêu tương đối lớn từ phía Trung Quốc. - Thứ năm, trong số các vấn đề do lịch sử để lại trong quan hệ hai nước, vấn đề Biển Đông vẫn chưa được giải quyết, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Việt Nam là một nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” với Trung Quốc, là “cửa ngõ” và là “cầu nối” quan trọng để Trung Quốc tiến vào Đông Nam á. Việt Nam cần phải thấy rằng việc mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc qua Việt Nam vào Đông Nam Á là một tất yếu khách quan của một nền kinh tế lớn, một thị trường lớn đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Điều quan trọng không phải là tìm ra đối sách để ngăn chặn sự mở rộng ảnh hưởng
  11. 10 đó mà là cần phải xây dựng những chính sách và giải pháp thích hợp để tận dụng tối đa những cơ hội và hạn chế đến mức tối thiểu những ảnh hưởng tiêu cực nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển, chủ động trong hợp tác kinh tế với Trung Quốc và chủ động trong hội nhập khu vực và quốc tế. a) Nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế với Trung Quốc Việt Nam có rất nhiều điều kiện thuận lợi hơn so với các nước ASEAN khác trong hợp tác kinh tế với Trung Quốc. Việt Nam cần phải đẩy mạnh hơn nữa liên kết kinh tế, thương mại với Trung Quốc vì quan hệ kinh tế là cơ sở và là điều kiện đảm bảo cho quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai nước. Cả Việt Nam và Trung Quốc cần sớm triển khai cụ thể những kế hoạch hợp tác thương mại và đầu tư trong chương trình “hai hành lang, một vành đai” mà Thủ tướng hai nước đã đề ra. Việt nam cần phải nghiên cứu đối tác Trung Quốc để xác định chính sách đúng trong quan hệ giao lưu, hợp tác và cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc, khai thác tiềm năng bổ sung cho nhau, hạn chế mặt tiêu cực khi cạnh tranh với nhau. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường thực lực của mình bằng cách duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, chủ động và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, thương mại với Trung Quốc. Xây dựng chính sách và kế hoạch với tầm nhìn chiến lược và tổng thể có tính đến quan hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc như một đối tác lớn và đầu tầu kinh tế khu vực và thế giới. b) Thông qua liên kết khu vực và quốc tế tạo thế cân bằng trong quan hệ với Trung Quốc - Phấn đấu cùng ASEAN tăng cường mậu dịch nội khối trước khi thực hiện hoàn toàn ACFTA Việt Nam là thành viên của ASEAN do đó không thể tách rời việc hội nhập kinh tế của Việt Nam với việc hội nhập kinh tế quốc tế của cả khối. Tăng cường năng lực cạnh tranh của khối cũng là tiền đề cho sự lớn mạnh của ASEAN và các nước thành viên. Việc quá phụ thuộc vào mậu dịch ngoại khối
  12. 11 là một nhân tố làm cho sự liên kết kinh tế trong ASEAN rất lỏng lẻo và nền kinh tế khu vực dễ bị bất ổn bởi những biến động bên ngoài. - Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước lớn khác và các trung tâm kinh tế thế giới như Mỹ, Nhật Bản, EU, Nga... c) Tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế - Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - Tăng cường các biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) KẾT LUẬN Hai thiên niên kỷ trước đây, Napoleon Bonapart đã từng gọi Trung Quốc là “người khổng lồ đang ngủ say” và cho rằng Trung Quốc khi tỉnh dậy sẽ làm “chấn động cả thế giới”. Gần ba mươi năm cải cách mở cửa và phát triển kinh tế, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn. Ngày nay, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc kinh tế, một cường quốc chính trị, quân sự có vai trò ngày càng to lớn trong khu vực và trên thế giới, đó là một xu thế không thể đảo ngược. Hiện nay, vì lợi ích phát triển đất nước, đặc biệt là phát triển kinh tế, cho nên mục tiêu của Trung Quốc là tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định và tăng cường kinh tế đối ngoại để đảm bảo và thúc đẩy cải cách mở cửa và sự nghiệp hiện đại hóa. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã, đang và sẽ theo đuổi những mục tiêu tương xứng với tầm cỡ của mình. Với sức mạnh về chính trị, an ninh, quân sự, văn hoá nhưng quan trọng nhất vẫn là những thành tựu trong phát triển kinh tế, thương mại đã tạo điều kiện cho Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ra khu vực và toàn cầu. Có những con đường khác nhau để Trung Quốc có thể tiến vào khu vực Đông Nam Á, nhưng có thể thấy, với vị trí địa-chính trị và địa-kinh tế của mình, Việt Nam là “cửa ngõ” là “cây cầu” quan trọng để Trung Quốc có thể
  13. 12 tiến vào Đông Nam Á. Chính vì vậy, sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO, Trung Quốc đã đẩy mạnh liên kết kinh tế – thương mại với Việt Nam cả trong khuôn khổ đa phương và song phương. Việt Nam có một vị trí quan trọng trong chiến lược Đông Nam Á của Trung Quốc, là nước láng giềng có những điểm tương đồng lớn về văn hoá, ý thức hệ và là cửa ngõ quan trọng để Trung Quốc tiến vào Đông Nam Á. Việt Nam cần phải duy trì quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng có lợi với Trung Quốc, chủ động khai thác tối đa lợi ích trong hợp tác kinh tế - thương mại với Trung Quốc để đưa đất nước phát triển. Nhưng đồng thời phải kiên quyết đấu tranh trong các vấn đề đe doạ lợi ích quốc gia. Liên kết chặt chẽ hơn với các nước ASEAN, mở rộng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế khác của thế giới./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và X. 2. Nguyễn Huy Quý (2002), “Quan hệ hữu nghị Việt – Trung hướng tới thế kỷ mới”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (5), tr.42-47. 3. Đỗ Tiến Sâm (2003), Chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 4. Bộ Ngoại giao (2004), Cải cách mở cửa Trung Quốc: những vấn đề cơ bản, Hà Nội. 5. Bộ Ngoại giao (2005), Đề cương chi tiết: Đánh giá chiến lược đối nội, đối ngoại của Trung Quốc, Hà Nội. 6. Lê Văn Mỹ (2005), “Bước đầu tìm hiểu về “ngoại giao láng giềng” của Trung Quốc từ sau Chiến tranh lạnh”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (3), tr.41-50. 7. Trang web: www.cpv.org.vn 8. Trang web: www.mofa.gov.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1