intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Nền kinh tế Mỹ

Chia sẻ: Nguyen Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:34

533
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nước Mỹ rất giàu khoáng sản, đất đai canh tác màu mỡ và được phú cho khí hậu ôn hoà. Nó còn có đường bờ biển trải dài cả hai bên bờ Đại Tây Dương và Thái Bình Dương cũng như trên vịnh Mêhicô. Những con sông bắt nguồn từ sâu trong lục địa và hệ thống Hồ Lớn - gồm năm hồ lớn nội địa dọc theo biên giới của Mỹ với Canada - cung cấp thêm mạng lưới giao thông đường thuỷ. Những tuyến đường thủy mở rộng này đã giúp nước Mỹ tạo ra tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm và...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Nền kinh tế Mỹ

  1. Marketing quốc tế - Nhóm 7 BÁO CÁO MARKETING QUỐC TẾ Nền kinh tế Mỹ Thực hiện nhóm 07 – D07 QT2 – HVCNBCVT Các thành viên bao gồm: Vũ Ngọc Anh Lê Thanh Hoài Nguyễn Thành Trung Nguyễn Phương Ngân Trần Thị Vân Anh Lê Đức Anh D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 1
  2. Marketing quốc tế - Nhóm 7 MỤC LỤC I: Đặc thù nền kinh tế Mĩ và những nhận định về cơ hội, thách thức đối với DN Việt Nam. ................................................................................................................................ 4 1: Những nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế Mỹ............................................. 4 1.1: Nhân tố cấu thành đầu tiên của một hệ thống kinh tế quốc gia là nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia đó. ................................................................................ 4 1.2: Nhân tố cấu thành thứ hai là lao động, yếu tố chuyển hóa các tài nguyên thiên nhiên thành hàng hoá. ...................................................................................................... 4 1.3: Quản lý khoa học. .............................................................................................. 6 2: Một nền kinh tế hỗn hợp. ...................................................................................... 7 3: Nền kinh tế thương mại điện tử. ............................................................................ 9 4: Nhận định cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam. ........................ 10 II: Phân tích tiến trình phát triển của nền kinh tế Mỹ thông qua GDP, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp. ............................................................................................................ 12 1: Cái nhìn toàn cảnh sự phát triển của kinh tế Mỹ từ năm 1947 đến 2010. ............. 12 1.1: Đánh giá chung tiến trình phát triển nền kinh tế Mỹ gần 100 năm qua. ............. 12 1.2: Phân tích tình hình nền kinh tế Mỹ qua những con số. ...................................... 14 2: Nền kinh tế Mỹ năm 2010, và những tháng đầu năm 2011. ................................. 17 3: Mỹ và những cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử. .......................................... 19 D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 2
  3. Marketing quốc tế - Nhóm 7 3.1: Suy thoái kinh tế Mỹ bắt đầu vào tháng 12/2007 và kết thúc vào tháng 6/2009, kéo dài 18 tháng. ........................................................................................................... 20 3.2: Suy thoái đầu năm 2000 .................................................................................. 21 3.3: Suy thoái cuối thập kỷ 90 ................................................................................. 21 3.4: Suy thoái đầu những năm 1980 ........................................................................ 21 3.5: Khủng hoảng dầu mỏ những năm 1973 ............................................................ 22 3.6: Suy thoái năm 1958 .......................................................................................... 23 3.7: Suy thoái năm 1953 ......................................................................................... 23 3.8: Suy thoái năm 1947 .......................................................................................... 23 3.9: Đại suy thoái năm 1930 .................................................................................... 24 III: Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào? ............................................................. 25 1: Chính phủ cố gắng điều tiết nền kinh tế, nhưng quyền lực quyết định về kinh tế là ở các doanh nghiệp, các cá nhân. ................................................................................... 25 2: Những nỗ lực của liên bang để kiểm soát độc quyền ........................................... 28 IV: Giới thiệu doanh nghiệp cụ thể hoạt động trên nền kinh tế thị trường Mỹ. ........ 29 1: JPMorgan Chase (NYSE: JPM):.......................................................................... 29 2- General Motors - Sự tồn tại, phá sản và tái cơ cấu. .............................................. 32 D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 3
  4. Marketing quốc tế - Nhóm 7 I: Đặc thù nền kinh tế Mĩ và những nhận định về cơ hội, thách thức đối với DN Việt Nam. 1: Những nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế Mỹ. 1.1: Nhân tố cấu thành đầu tiên của một hệ thống kinh tế quốc gia là nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia đó. Nước Mỹ rất giàu khoáng sản, đất đai canh tác màu mỡ và được phú cho khí hậu ôn hoà. Nó còn có đường bờ biển trải dài cả hai bên bờ Đại Tây Dương và Thái Bình Dương cũng như trên vịnh Mêhicô. Những con sông bắt nguồn từ sâu trong lục địa và hệ thống Hồ Lớn - gồm năm hồ lớn nội địa dọc theo biên giới của Mỹ với Canada - cung cấp thêm mạng lưới giao thông đường thuỷ. Những tuyến đường thủy mở rộng này đã giúp nước Mỹ tạo ra tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm và nối liền 50 bang riêng rẽ thành một khối kinh tế thống nhất. 1.2: Nhân tố cấu thành thứ hai là lao động, yếu tố chuyển hóa các tài nguyên thiên nhiên thành hàng hoá. -So với châu Âu, văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ có những điểm khác biệt. Mặc dù đa số người Mỹ là người Anh và người châu Âu di cư, nhưng khi sang lục địa mới, họ nuôi dưỡng trong mình chí tiến thủ mạnh mẽ, tinh thần chú trọng thực tế cộng với tinh thần trách nhiệm nghiêm túc. Tất cả những điều đó đã tạo nên một bản sắc văn hóa mới – bản sắc văn hóa Mỹ. Người Mỹ cho rằng, ai cũng có quyền lợi hưởng cuộc sống hạnh phúc tự do bằng sức lao động chính đáng của họ. Bản sắc văn hóa Mỹ làm cho người ta học được chữ tín trong khế ước và tất cả mọi người đều bình đẳng về cơ hội phát triển: ai nhanh hơn, thức thời hơn, giỏi cạnh tranh hơn thì người đó giành thắng lợi. Có thể nói, ý thức suy tôn tự do, chú trọng hiệu quả thực tế, phóng khoáng, khuyến khích phấn đấu cá nhân đã trở thành nhịp điệu chung của văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ. Đây là những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu cho các nước phát triển trong quá trình tạo dựng văn hóa doanh nghiệp nhằm phát triển đất nước. D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 4
  5. Marketing quốc tế - Nhóm 7 -Người Mỹ nói chung là những người có khả năng làm việc độc lập rất cao. Nếu được giao làm một công việc nào đó theo nhóm, họ họp nhau lại, phân công công việc cụ thể cho từng người, khi dự án hoàn thành, mỗi một cá nhân lại trở về công việc của mình, không hề phụ thuộc vào nhau. Trong quan hệ công việc giữa cấp trên và cấp dưới hình thành một ranh giới rõ ràng. Các sếp luôn được ưu ái hơn so với nhân viên dưới quyền ở nhiều điểm: chỗ để xe riêng, phòng ăn riêng, phòng họp riêng, các chế độ đãi ngộ riêng. Và đó có lẽ cũng là nét đặc trưng của xã hội Mỹ: chức vụ càng cao, anh càng khác biệt với những người cấp dưới, và lúc này người có chức vụ cao thường hạn chế đến mức tối đa các mối quan hệ tiếp xúc với người cấp dưới. Trong các công ty Mỹ cơ cấu tổ chức rất rõ ràng, mỗi nhân viên đều có một chức vụ, vị trí nhất định, và họ không được quên rằng tất cả mọi vấn đề bàn bạc phải được thống nhất với những người lãnh đạo trực tiếp trước khi được báo cáo lên cho lãnh đạo cao cấp. -Số lượng nhân công sẵn có, và điều quan trọng hơn là năng suất lao động của họ, đã góp phần quyết định tình trạng lành mạnh của nền kinh tế. Xuyên suốt lịch sử của mình, nước Mỹ đã có sự tăng trưởng liên tục về lực lượng lao động, và chính điều đó lại góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế gần như liên tục. Cho đến ngay sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hầu hết số lao động là người nhập cư từ châu Âu, con cái họ, hoặc người Mỹ gốc Phi, những người mà tổ tiên họ bị mang đến Mỹ làm nô lệ. Vào những năm đầu thế kỷ XX, có một số lượng lớn người châu Á nhập cư vào Mỹ, và rất nhiều người nhập cư Mỹ Latinh đến vào những năm sau đó. Mặc dù nước Mỹ đã trải qua một vài thời kỳ thất nghiệp cao và những thời kỳ khác thiếu cung về lao động, nhưng khi có rất nhiều việc làm thì người nhập cư lại có xu hướng đến đây. Họ thường sẵn sàng làm việc với mức lương thấp hơn đôi chút so với lương lao động có văn hoá; và họ nhìn chung đều phát đạt, kiếm được nhiều tiền hơn rất nhiều so với ở quê hương. Nước Mỹ cũng thịnh vượng làm cho nền kinh tế phát triển nhanh, đủ sức thu hút nhiều người mới đến hơn nữa. D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 5
  6. Marketing quốc tế - Nhóm 7 -Đối với sự thành công về kinh tế của một đất nước, chất lượng lao động sẵn có, mọi người sẵn sàng làm việc chăm chỉ như thế nào và tay nghề của họ ra sao - ít nhất cũng quan trọng như số lượng lao động. Trong buổi ban đầu của nước Mỹ, cuộc sống tại vùng đất hoang vu rộng lớn này đòi hỏi lao động nặng nhọc, và những gì được xem là nguyên tắc làm việc của người Tin lành đã củng cố thêm nét đặc biệt này. Sự chú trọng đặc biệt tới giáo dục, bao gồm cả đào tạo kỹ thuật và dạy nghề, cũng góp phần đưa đến thành công kinh tế cho nước Mỹ, cũng giống như ý chí sẵn sàng thử nghiệm và thay đổi. -Tính lưu động của lao động cũng quan trọng như thế đối với khả năng của nền kinh tế Mỹ để thích nghi với những điều kiện thay đổi. Khi người nhập cư tràn ngập thị trường lao động ở bờ biển phía Đông, nhiều người lao động đã di chuyển vào sâu trong nội địa, và thường là đến các vùng đất trang trại đang chờ được canh tác. Tương tự như vậy, những cơ hội về kinh tế trong các thành phố công nghiệp ở miền Bắc đã thu hút người Mỹ da đen đến từ các trang trại miền Nam vào nửa đầu thế kỷ XX. -Chất lượng của lực lượng lao động vẫn tiếp tục là một vấn đề quan trọng. Ngày nay, người Mỹ coi “vốn nhân lực” là chìa khóa dẫn đến thành công trong nhiều ngành công nghiệp công nghệ cao, hiện đại. Do đó, các nhà lãnh đạo chính phủ và các quan chức quản lý kinh doanh ngày càng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo để phát triển lực lượng lao động có đầu óc nhanh nhạy và kỹ năng thích hợp cần thiết cho các ngành công nghiệp mới như tin học và viễn thông. 1.3: Quản lý khoa học. Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động mới chỉ là một phần của hệ thống kinh tế. Các nguồn lực đó cần phải được tổ chức và quản lý để đạt được hiệu quả tối đa. Trong nền kinh tế Mỹ, các nhà quản lý, người đáp lại các tín hiệu của thị trường, đảm nhận chức năng đó. Cấu trúc quản lý truyền thống ở Mỹ dựa trên một chuỗi mệnh lệnh từ trên xuống; quyền lực bắt đầu từ ban lãnh đạo tối cao, những người bảo đảm cho hoạt động kinh doanh được thông suốt và hiệu quả, xuống tới các cấp quản lý thấp hơn khác nhau chịu trách nhiệm điều phối các bộ phận của doanh nghiệp, cho đến người quản D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 6
  7. Marketing quốc tế - Nhóm 7 đốc tại phân xưởng. Rất nhiều nhiệm vụ lại được phân công cho các bộ phận khác nhau và người lao động. Ở nước Mỹ vào đầu thế kỷ XX, tính chuyên môn hóa này, hay sự phân công lao động, được coi là phản ánh cách “quản lý khoa học” dựa trên phân tích hệ thống. Rất nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục vận hành với cấu trúc truyền thống, nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp khác đã thay đổi quan điểm quản lý. Đối mặt với tình trạng cạnh tranh gia tăng trên toàn cầu, các doanh nghiệp Mỹ đang tìm kiếm những cấu trúc tổ chức linh hoạt hơn, đặc biệt trong các ngành công nghiệp công nghệ cao đòi hỏi tuyển dụng những lao động tinh xảo và phải phát triển, cải tiến sản phẩm và thậm chí đáp ứng thị hiếu khách hàng một cách nhanh chóng. Việc phân cấp và phân công lao động quá mức ngày càng bị coi là ngăn cản sự sáng tạo. Do vậy, nhiều công ty đã “san phẳng” cấu trúc tổ chức của họ, giảm số lượng các nhà quản lý và trao quyền nhiều hơn cho các nhóm công nhân thuộc nhiều lĩnh vực. 2: Một nền kinh tế hỗn hợp. Nước Mỹ được coi là có một nền kinh tế hỗn hợp, bởi vì cả doanh nghiệp sở hữu tư nhân và chính phủ đều đóng những vai trò quan trọng. Quả thực, một số trong những cuộc tranh luận kéo dài nhất của lịch sử kinh tế Mỹ tập trung vào vai trò tương đối của các khu vực nhà nước và tư nhân. Hệ thống doanh nghiệp tự do của Mỹ nhấn mạnh đến sở hữu tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân tạo ra phần lớn hàng hóa và dịch vụ, và gần hai phần ba tổng sản lượng kinh tế của quốc gia là dành cho tiêu dùng cá nhân (một phần ba còn lại được mua bởi chính phủ và doanh nghiệp). Trên thực tế, vai trò của người tiêu dùng lớn đến mức quốc gia này thỉnh thoảng được mô tả là có một “nền kinh tế tiêu dùng”. Sự nhấn mạnh này đối với sở hữu tư nhân xuất phát một phần từ niềm tin của người Mỹ về tự do cá nhân. Ngay từ thời lập quốc, người Mỹ đã lo sợ quyền lực quá mức của chính phủ, và họ luôn tìm cách hạn chế uy quyền của chính phủ đối với cá nhân - bao D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 7
  8. Marketing quốc tế - Nhóm 7 gồm cả vai trò của chính phủ trong lĩnh vực kinh tế. Hơn nữa, người Mỹ nhìn chung đều tin rằng một nền kinh tế được đặc trưng bởi sở hữu tư nhân dường như hoạt động hiệu quả hơn so với nền kinh tế đặc trưng bởi sở hữu nhà nước. Tuy vậy, doanh nghiệp tự do cũng có những hạn chế. Người Mỹ luôn tin rằng một số dịch vụ do nhà nước đảm nhận sẽ tốt hơn các doanh nghiệp tư nhân. Chẳng hạn, Chính phủ Mỹ chịu trách nhiệm chủ yếu đối với các hoạt động về tư pháp, giáo dục (mặc dù có rất nhiều trường học và trung tâm đào tạo tư nhân), hệ thống đường giao thông, báo cáo thống kê xã hội và an ninh quốc phòng. Hơn nữa, chính phủ cũng thường được yêu cầu can thiệp vào nền kinh tế để điều chỉnh những tình huống mà ở đó hệ thống giá cả không hoạt động. Ví dụ, chính phủ điều tiết các nhà “độc quyền tự nhiên”, và sử dụng luật chống độc quyền để kiểm soát hoặc ngăn chặn các tổ hợp kinh doanh trở nên quá mạnh đến mức chúng có thể chế ngự các lực lượng thị trường. Chính phủ cũng giải quyết những vấn đề nằm ngoài phạm vi của các lực lượng thị trường. Nó cung cấp phúc lợi và trợ cấp thất nghiệp cho những người không có khả năng tự trang trải, do họ gặp rủi ro trong cuộc sống cá nhân hoặc bị mất việc làm bởi biến động kinh tế đột ngột; nó thanh toán hầu hết chi phí chăm sóc y tế cho người già và những người sống trong cảnh nghèo nàn; chính phủ điều tiết ngành công nghiệp tư nhân nhằm hạn chế sự ô nhiễm không khí và nước; nó cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp cho những người bị thiệt hại do thiên tai; và nó đóng vai trò đầu tàu trong việc khám phá vũ trụ, một ngành có chi phí quá cao đối với bất kỳ doanh nghiệp tư nhân nào. Nền kinh tế hỗn hợp này chính là sự thể hiện rõ nhất nguyên tắc cơ bản trong các hoạt động kinh tế của Mỹ: - Thứ nhất, và là điều quan trọng nhất, nước Mỹ vẫn duy trì một “nền kinh tế thị trường”. Người Mỹ tiếp tục cho rằng một nền kinh tế nhìn chung vận hành tốt nhất khi các quyết định về sản xuất cái gì và định giá hàng hóa như thế nào được hình thành thông qua hoạt động trao đổi qua lại của hàng triệu người mua và người bán độc lập, chứ không phải bởi chính phủ hay những lợi ích cá nhân có thế lực nào. Người Mỹ tin rằng trong D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 8
  9. Marketing quốc tế - Nhóm 7 một hệ thống thị trường tự do, giá cả gần như phản ánh giá trị thật sự của đồ vật, và bởi vậy nó có thể là chỉ dẫn tối ưu cho nền kinh tế nên sản xuất cái gì cần thiết nhất. - Tuy nhiên, niềm tin của người Mỹ vào “doanh nghiệp tự do” không loại bỏ vai trò quan trọng của chính phủ. Đôi khi người Mỹ vẫn trông cậy vào chính phủ để ngăn chặn hoặc điều tiết các công ty xuất hiện khuynh hướng phát triển quá nhiều quyền lực đến mức không tuân theo các lực lượng thị trường. Họ dựa vào chính phủ để giải quyết những vấn đề mà kinh tế tư nhân bỏ qua, từ giáo dục cho đến bảo vệ môi trường. Và mặc dù ủng hộ tích cực các nguyên lý thị trường, nhưng thỉnh thoảng họ vẫn sử dụng chính phủ để nuôi dưỡng các ngành công nghiệp mới, và thậm chí để bảo vệ các công ty Mỹ trong cạnh tranh. 3: Nền kinh tế thương mại điện tử. Nói đến Mỹ có lẽ không thể không nói đến thương mại điện tử. Các giao dịch thương mại trên mạng đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Đây là cơ hội nhưng cũng là thách thức cho tất cả các doanh nghiệp và các quốc gia. Ở Mỹ hiện nay có thể mua hầu hết mọi thứ trên mạng từ sách vở, DVD, quần áo, thức ăn, máy vi tính và phụ kiện, các tiện nghi trong gia đình (bàn ghế) đến vé máy bay, mua tour du lịch, đặt phòng khách sạn, thuê xe hơi, rồi đến tra bản đồ để tìm đường đi đến địa chỉ cần thiết, các thông tin về tình hình giao thông (kẹt xe) trên các xa lộ. Tất cả đều trên mạng. Thời gian đầu khách hàng đều rất ngại mua hàng trên mạng vì những lý do an toàn thông tin và cảm giác không yên tâm khi đối diện với các nhà cung cấp “ảo”. Nhưng càng sử dụng họ càng thấy hệ thống rất ổn định và đáng tin cậy. Thông thường mua hàng trên mạng giá rẻ hơn và đây là một thị trường trong suốt về giá. Nghĩa là khi mua một sản phẩm khách hàng trên mạng thường tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và nguồn nào cho giá rẻ nhất với dịch vụ tốt nhất thì mua. Trong những cái tên lớn, phải kể đến Amazon.com, không chỉ là nhà cung cấp rất nhiều chủng loại sản phẩm trên mạng, Amazon còn là một thị trường tập hợp các nhà cung cấp khác nhau, ai muốn bán sản phẩm thì đăng ký với Amazon và sẽ được đăng trên mạng này. Khi bán được sản phẩm nhà cung cấp trích phí cho Amazon. Để đảm bảo D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 9
  10. Marketing quốc tế - Nhóm 7 chất lượng cung ứng, sau khi hoàn tất một giao dịch, khách hàng được yêu cầu đánh giá chất lượng nhà cung cấp và đây là một thông số quan trọng để các khách hàng chọn nhà cung cấp. Mặt khác, với các giao dịch giá trị lớn khách hàng được khuyến cáo mua bảo hiểm để tránh rủi ro. Một cái tên lớn khác – E-bay.com lại là một thị trường bán đấu giá, bán đủ thứ trên trời dưới đất. Sản phẩm và giá cả rất đa dạng và phản ứng rất theo cung cầu của thị trường. Cần thấy rằng khi các giao dịch trên mạng phát triển thì hàng loạt các ngành dịch vụ liên đới như vận chuyển, bưu chính, tính dụng – ngân hàng, bảo hiểm cũng phát triển theo. 4: Nhận định cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam. Mỹ là một thị trường mở rộng lớn nhiều tiềm năng cho việc tiêu thụ sản phẩm với mức giá cả cao cho tất cả các doanh nghiệp muốn tham gia vào nó, đây là một cơ hội lớn, doanh nghiệp nào cũng muốn nắm bắt. Nhưng cũng chính vì vậy, đây cũng là thách thức lớn với các doanh nghiệp Việt khi hoạt động trong một thị trường tự do canh tranh đầy khốc liệt này, vốn dĩ đã có rất nhiều nhà cung cấp, đa dạng các chủng loại hàng hóa cung cấp. Vậy nên, cái khó là chúng ta lựa chọn, DN Việt sẽ bán gì và như thế nào? Việt Nam có thế mạnh về các mặt hàng truyền thống, các mặt hàng thủy hải sản tươi sống ngon, giá rẻ và thực tế khách hàng nước ngoài trong đó có Mỹ rất ưa chuộng mặt hàng mây tre đan cũng như hoa quả, thủy hải sản của ta. Đây là một hướng đi cho các doanh nghiệp trong nước. Nhưng trong tương lai, Việt Nam cần tìm hiểu nhiều hơn về thị trường Mỹ để biết được họ vẫn đang thiếu gì, và ta đang có những lợi thế tương đối gì để khai thác triệt để. Một cách thức xâm nhập thị trường Mỹ mà các DN Việt có thể ứng dụng chính là E- Marketing ( Marketing điện tử ) trong một xã hội người dân đã chấp nhận và sử dụng rộng rãi cách thức giao dịch mua hàng qua mạng. Chúng ta có thể nghĩ đến các cơ hội xâm nhập thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc tham gia là nhà cung cấp trên Amazon, hay E-bay. Đây là một con đường Marketing phù hợp đối với doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào nền kinh tế thương mại điện tử như Mỹ. Có D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 10
  11. Marketing quốc tế - Nhóm 7 nhiều vấn đề, thách thức cần giải quyết như vận chuyển quốc tế, thông quan, ngôn ngữ, độ am hiểu các thủ tục và kỹ thuật giao dịch, giá... Tất nhiên là khó nhưng đây là cơ hội, mà có lẽ sẽ là cơ hội rất quan trọng trong tương lai gần để Việt Nam có thể tiến bước vào thị trường Mỹ, để hàng Việt Nam được tiếp nhận và biết đến nhanh hơn với người dân Mỹ, ngoài con đường giao dịch thương mại truyền thống, vốn dĩ bị chính phủ Mỹ hay gây khó khăn đối với Việt Nam. Mỹ là một nền kinh tế tự do theo định nghĩa cho các doanh nghiệp nhưng thực tế là một thị trường “khó chơi” và chơi theo luật “cá lớn nuốt cá bé”. Và đầy là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam – chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ. Điển hình là vụ cá tra cá basa Việt Nam bị kiện bán phá giá. Ngày 17/6/2003 đã thông báo quyết định cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá basa . Theo đó, DOC cho rằng, DN Việt Nam đã bán phá giá sản phẩm cá tra, cá basa đông lạnh vào thị trường này. Sản phẩm trên sẽ phải chịu thuế chống bán phá giá 44,66- 63,88%. Đây là mức thuế bất hợp lý, bất bình đẳng trong xu thế giao dịch thương mại toàn cầu đang được tuân theo các chế tài của WTO. Theo thông tin thu thập được , ngày 6/8, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt NamnVASEP cho biết thêm, ngày 5/8, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã chính thức công bố khoản trợ cấp 34 triệu USD của Chính phủ Mỹ hỗ trợ cho các chủ trại cá nheo Mỹ về các thiệt hại do "thời tiết không thuận và thiên tai" trong các năm 2001-2002. Như vậy, một mặt trong đơn kiện nộp cho Bộ Thương mại Mỹ (DOC) và Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ (CFA) cố tình che giấu thực tế, đưa ra các bằng chứng giả, đổ tội cho các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá filet đông lạnh cá tra, cá basa, gây thiệt hại vật chất cho ngành nuôi cá nheo Mỹ, để các cơ quan này kết luận sai, áp thuế chống bán phá giá trừng phạt Việt Nam. Mặt khác, CFA lại chứng minh với USDA rằng thiệt hại của họ là do thiên tai để xin được hưởng tiền trợ cấp của Chính phủ Mỹ. VASEP cho rằng việc xử lý của các cơ quan chính quyền Mỹ cũng tỏ ra D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 11
  12. Marketing quốc tế - Nhóm 7 không thống nhất, thiếu phối hợp, mang nặng tính bảo hộ sản xuất trong nước, trái với tinh thần tự do thương mại và cạnh tranh bình đẳng. Nhìn rộng ra, mức thuế cao trên không chỉ đe doạ trực tiếp đến người nuôi cá tra, basa, mà các DN đang xuất mặt hàng này có nguy cơ mất thị trường Mỹ, nơi vẫn tiêu thụ gần 50% lượng cá tra, basa của Việt Nam. Việt Nam làm gì để vừa bảo vệ lợi ích của các nhà nuôi catfish Mỹ mà vẫn đưa được cá basa sang thị trường này? Và qua đây, chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam có thêm những bài học về kinh nghiệm khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Một thị trường rộng mở nhưng đầy khó khăn thách thức, không phải cứ mặt hàng xuất khẩu của ta ngon, rẻ đã là một lợi thế. Sau sự kiện này, chính phủ Việt Nam, đặc biệt các tham tá thương mại Việt Nam nên cung cấp cho các doanh nghiệp Việt nhiều thông tin hơn về thị trường quốc tế cũng như những pháp định của kinh tế nước ngoài, bên cạnh đó có những chính sách hỗ trợ bảo trợ giúp đỡ các doanh nghiệp Việt xuât khẩu, để trong những tình huống bất ngờ như vụ kiện cá basa, chúng ta có thể ứng phó kip thời. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt nói chung cần có sự kết hợp chặt chẽ với các vùng cung cấp nguyên nhiên liệu để đảm bảo quy trình quản lý tốt, đảm bảo chất lượng và bảo vệ lợi ích người nuôi trồng. II: Phân tích tiến trình phát triển của nền kinh tế Mỹ thông qua GDP, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp. 1: Cái nhìn toàn cảnh sự phát triển của kinh tế Mỹ từ năm 1947 đến 2010. 1.1: Đánh giá chung tiến trình phát triển nền kinh tế Mỹ gần 100 năm qua. Trong suốt quá trình phát triển của mình trăm năm qua , Nền kinh tế Mỹ biến đổi theo những cách thức khác nhau. Dân số và lực lượng lao động dịch chuyển mạnh từ các trang trại ra thành phố, từ các cánh đồng vào nhà máy, và trên hết là vào các ngành công nghiệp dịch vụ. Trong nền kinh tế ngày nay, số lượng các nhà cung cấp dịch vụ công cộng và cá nhân đông hơn rất nhiều so với số người sản xuất hàng hóa công nghiệp và D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 12
  13. Marketing quốc tế - Nhóm 7 nông nghiệp. Do nền kinh tế ngày càng phát triển phức tạp hơn, các số liệu thống kê cũng cho thấy một xu thế mang tính dài hạn rõ nét trong thế kỷ qua là chuyển từ tự hoạt động kinh doanh sang làm việc cho những người khác. Từ một nước nông nghiệp, nước Mỹ ngày nay được đô thị hóa hơn rất nhiều so với cách đây 100 năm, thậm chí chỉ 50 năm. Dịch vụ ngày càng trở nên quan trọng so với ngành công nghiệp truyền thống. Trong một số ngành công nghiệp, sản xuất hàng loạt đã nhường chỗ cho sản xuất theo phương thức chuyên môn hóa chú trọng đến tính đa dạng của sản phẩm và thị hiếu thay đổi của khách hàng.. Nước Mỹ bước vào thế kỷ XXI với một nền kinh tế lớn hơn bao giờ hết và cùng với nhiều số liệu đánh giá là thành công chưa từng có. Nó không những phải kinh qua hai cuộc chiến tranh thế giới và sự suy thoái toàn cầu trong nửa đầu thế kỷ XX, mà còn phải vượt qua những thách thức từ cuộc Chiến tranh Lạnh trong 40 năm với Liên Xô cho đến những đợt lạm phát sâu sắc, thất nghiệp cao, và thâm hụt ngân sách nặng nề của chính phủ trong nửa cuối thế kỷ XX. Nước Mỹ cuối cùng đã có được một giai đoạn ổn định kinh tế vào những năm 1990: giá cả ổn định, thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất trong vòng gần 30 năm qua, chính phủ công bố thặng dư ngân sách, và thị trường chứng khoán tăng vọt chưa từng thấy. Năm 1998, tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ - gồm toàn bộ sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong nước - đạt trên 8,5 nghìn tỷ USD. Mặc dù chiếm chưa đến 5% dân số thế giới, nhưng nước Mỹ lại chiếm tới hơn 25% sản lượng kinh tế toàn thế giới. Nhật Bản, nước có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, cũng chỉ tạo ra gần một nửa sản lượng trên. Trong khi nền kinh tế Nhật Bản và nhiều nền kinh tế khác vật lộn với tăng trưởng chậm và các vấn đề khác vào những năm 1990 thì nền kinh tế Mỹ lại có được thời kỳ phát triển liên tục và kéo dài nhất trong lịch sử của mình. Nhưng, Nền kinh tế này cũng phải đối mặt với những thách thức đang diễn ra liên tục trong dài hạn. Mặc dù nhiều người Mỹ có sự bảo đảm về kinh tế và một số người tích lũy được rất nhiều của cải, nhưng còn một số lượng đáng kể - đặc biệt là các bà mẹ không D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 13
  14. Marketing quốc tế - Nhóm 7 chồng cùng con cái họ - tiếp tục sống trong cảnh nghèo khó. Chênh lệch về của cải, tuy không cao như một số nước khác, nhưng cũng lớn hơn so với rất nhiều nước. Sự hội nhập kinh tế toàn cầu mang đến những bất ổn nhất định bên cạnh các lợi thế. Đặc biệt, các ngành công nghiệp chế tạo truyền thống sa sút, quốc gia bị thâm hụt thương mại lớn và dường như không thể đảo ngược được trong buôn bán với các nước khác. 1.2: Phân tích tình hình nền kinh tế Mỹ qua những con số. Những số liệu chỉ giúp đánh giá tình trạng lành mạnh của nền kinh tế, nhưng chúng không đo được hết mọi phương diện của phúc lợi quốc gia. GDP cho biết giá trị thị trường của hàng hóa và dịch vụ mà một nền kinh tế tạo ra, nhưng nó không đo được chất lượng cuộc sống của một quốc gia và một vài biến số quan trọng - ví dụ như sự bình an và hạnh phúc cá nhân, hoặc môi trường trong sạch hay sức khỏe tốt - hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của nó. Biểu đồ chỉ số dữ liệu lịch sử. Theo số liệu nhà Trắng công báo, qua biểu đồ trên, ta thấy: D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 14
  15. Marketing quốc tế - Nhóm 7 -Tốc độ tăng trưởng Hoa Kỳ GDP: Các Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở Hoa Kỳ mở rộng 3,2 phần trăm trong quý IV năm 2010 so với quý trước đó. Từ năm 1947 đến năm 2010 trung bình của Hoa Kỳ tăng trưởng GDP hàng quý đã được 3,30 phần trăm đạt mức cao lịch sử 17,20 phần trăm trong tháng ba năm 1950 và kỷ lục ở mức thấp -10,40 phần trăm trong tháng ba năm 1958. Nền kinh tế của Hoa Kỳ là lớn nhất trên thế giới. Hoa Kỳ là một nền kinh tế thị trường theo định hướng mà các cá nhân và công ty kinh doanh làm cho hầu hết các quyết định của chính phủ liên bang và tiểu bang cần thiết mua hàng hoá và dịch vụ chủ yếu trong thị trường tư nhân. -Tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ. Tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ theo báo cáo trong tháng Giêng năm 2011 đạt 9 %. Từ năm 1948 đến năm 2010 Tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ trung bình là 5,70 % đạt mức cao lịch sử 10,80 % trong tháng mười năm 1982 và ghi lại mức thấp 2,50 % trong tháng Năm của năm 1953. Các lực lượng lao động được định nghĩa là số lượng người làm việc cộng với việc số người thất nghiệp nhưng đang tìm kiếm. Các lực lượng không thuộc lực lượng lao động bao gồm những người không tìm kiếm việc làm, những người được thể chế hoá và những người phục vụ trong quân đội. Biểu đồ tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 15
  16. Marketing quốc tế - Nhóm 7 -Ngoài tỷ lệ thất nghiệp, ta đề cập thêm Tỷ lệ người sống dưới mức nghèo để hiểu thêm về chất lượng cuộc sống của người dân Mỹ. Tỷ lệ này giảm từ 22,4% năm 1959 xuống còn 11,4% năm 1978. Từ đó đến nay nó dao động trong phạm vi tương đối hẹp. Năm 1998, nó ở mức 12,7%. Nhưng thực tế các số liệu tổng quan còn che giấu tình trạng nghèo đói nghiêm trọng hơn rất nhiều. Năm 1998, hơn một phần tư số người Mỹ gốc Phi (26,1%) sống trong nghèo đói; mặc dù cao một cách đáng lo ngại, nhưng số liệu này đã cho thấy một bước cải thiện từ năm 1979, khi có tới 31% người da đen chính thức được coi là nghèo, và đây là tỷ lệ nghèo đói thấp nhất của nhóm người này kể từ năm 1959. Các gia đình do các bà mẹ độc thân làm chủ hộ đặc biệt dễ lâm vào cảnh nghèo túng. Một phần do hiện tượng này mà năm 1997, gần một phần năm trẻ em (18,9%) thuộc diện nghèo. Tỷ lệ nghèo của trẻ em Mỹ gốc Phi là 36,7%, của trẻ em gốc Tây Ban Nha là 34,4%. D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 16
  17. Marketing quốc tế - Nhóm 7 -Dù trong trường hợp nào, một điều rất rõ rang ta nhận ra là thực tế hệ thống kinh tế của Mỹ không phân phối công bằng của cải làm ra. Theo Viện chính sách kinh tế, một tổ chức nghiên cứu có trụ sở tại Washington, năm 1997, một phần năm số gia đình Mỹ giàu nhất chiếm tới 47,2% thu nhập quốc dân. Ngược lại, một phần năm số gia đình nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập quốc dân, và 40% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 14% thu nhập quốc dân. -Mặc dù nền kinh tế Mỹ nhìn chung là thịnh vượng, nhưng những lo lắng về tình trạng bất bình đẳng vẫn tiếp tục kéo dài. Cạnh tranh toàn cầu tăng lên đe dọa các công nhân trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp truyền thống, và đồng lương của họ bị o ép. Cùng lúc đó, chính phủ liên bang lại nới lỏng các chính sách thuế, những chính sách tìm cách hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp bằng chi phí của các gia đình giàu, và nó cũng cắt giảm chi tiêu cho nhiều chương trình xã hội trong nước trợ giúp người có hoàn cảnh khó khăn. 2: Nền kinh tế Mỹ năm 2010, và những tháng đầu năm 2011. -Theo NBER - Cục Nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ (NBER), một tổ chức phi lợi luận của các nhà kinh tế hàng đầu đến từ các hãng nghiên cứu, trường đại học và một số cơ quan khác. Cơ quan này luôn chịu trách nhiệm tính ngày bắt đầu và kết thúc của mỗi cuộc suy thoái kinh tế, chính thức công bố kinh tế Mỹ bước vào suy thoái kể từ tháng 12/2007 đến tháng 6/2009 đã chấm dứt. Theo một số ý kiến kết luận rằng từ đó đến nay mọi chuyện đã cải thiện và rằng nền kinh tế đã tăng trưởng lại ở tốc độ bình thường, nếu kinh tế Mỹ trong tương lai có đi xuống sẽ là một đợt suy thoái mới chứ không phải tiếp diễn suy thoái đã bắt đầu vào tháng 12/2007. -Nhưng có một số ý kiến khác, như Ông Robert Hall, giáo sư kinh tế đại học Stnadford kiêm chuyên gia cao cấp tại NBER, cho rằng: “Kinh tế Mỹ vẫn đang tăng trưởng, nhưng ở tốc độ thấp đáng thất vọng. Hiện còn quá sớm để tính toán toàn bộ thiệt hại liên quan đến thời kỳ kinh tế đi xuống vừa qua bởi chúng ta chưa thoát ra khỏi những D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 17
  18. Marketing quốc tế - Nhóm 7 ảnh hưởng xấu. Rõ ràng, kinh tế trong khoảng thời gian trên đi xuống chưa từng có tính từ Đại Khủng hoảng 1930.” Ông Bruce Kasman, chuyên gia kinh tế trưởng tại JP Morgan Chase, nhận xét: “Kinh tế Mỹ vẫn phục hồi mong manh và rủi ro đối với kinh tế toàn cầu không nhỏ. Chúng ta thấy kinh tế vẫn đang tăng trưởng nhưng rất yếu. Sau 1 năm nữa, tỷ lệ thất nghiệp vẫn sẽ không mấy thay đổi so với hiện nay.” Ông Kasman dự báo khả năng kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái lần 2 là khoảng 25%. -Nói chung, nền kinh tế Mỹ sau suy thoái kinh tế bắt đầu từ năm 2007 đã bước đầu ổn định, dù tốc độ hồi phục chậm. Tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ trong quý thứ 4 năm 2010, theo Cục Phân tích kinh tế: tổng sản phẩm quốc nội thức tế tăng ở mức hàng năm là 3,2% trong quý 4 năm 2010, (có nghĩa là, từ quý III đến quý IV), theo "trước" dự toán phát hành của Cục phân tích kinh tế. Trong quý 3, GDP thực tăng 2,6%. Việc tăng GDP thực tế trong quý 4 chủ yếu phản ánh đóng góp tích cực từ các khoản chi tiêu dùng cá nhân (PCE), xuất khẩu; phản ánh sự suy giảm mạnh nhập khẩu, tăng tốc trong PCE, và xu hướng tăng một trong các khoản đầu tư cố định ở phần được bù đắp bởi suy giảm trong đầu tư tư nhân và chi tiêu chính phủ liên bang và giảm tốc độ một trong các đầu tư cố định nơi ít dân cư sinh sống. Trước đó, Theo Bộ Thương mại Mỹ, tăng trưởng kinh tế Mỹ quý 2/2010 chỉ còn 1,6% từ mức 3,7% của quý 1/2010 và 5% trong quý 4/2009. Kinh tế Mỹ đã hồi phục được 70% so với mức trước khủng hoảng. Lakshman Achuthan, giám đốc điều hành tại Viện nghiên cứu chu kỳ kinh tế (ECRI) và là chuyên gia về suy thoái kinh tế, nhận xét kinh tế Mỹ hiện đã hồi phục được 70% so với trước khủng hoảng. D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 18
  19. Marketing quốc tế - Nhóm 7 Tuy nhiên ông cũng thừa nhận đà phục hồi lần này không giống những lần phục hồi trước đây. Hiện kinh tế Mỹ mới chỉ lấy lại được 9% số lượng việc làm đã mất trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Khả năng kinh tế rơi vào suy thoái lần 2 khá hiếm. Lần gần nhất kinh tế Mỹ suy thoái lần 2 là vào năm 1981 – 1982 sau khi kinh tế suy thoái vào năm 1980. Chỉ số giá cho việc mua bán chung trong nước tăng 2,1% trong quý thứ tư, so với mức tăng từ 0,7% trong quý ba. Chi tiêu dùng cá nhân tăng 4,4% trong quý thứ tư, so với mức tăng 2,4 % trong quý ba. Dù Lạm phát Mỹ tăng 1,5% trong tháng mười hai, năm 2010, nhưng Tỷ lệ thất nghiệp vẫn đã giảm 0,4 % trong tháng mười hai, và việc làm phi nông nghiệp tăng lương 103.000 (Cục Thống kê Lao động Mỹ báo cáo). Việc làm tăng trong giải trí và khách sạn và trong chăm sóc sức khỏe, nhưng rất ít thay đổi trong ngành công nghiệp lớn khác. Cũng tình trạng tương tự cuối năm 2010, Theo tính toán của Cục thống kê Lao động của Mỹ, Lạm phát Mỹ tăng 1,6% trong tháng Giêng, năm 2011, nhưng Tỷ lệ thất nghiệp Mỹ giảm đến 9% trong tháng Giêng 2011. 3: Mỹ và những cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử. Dù là cường quốc kinh tế số một hiện nay trên thế giới, nhưng nền kinh tế Mỹ cũng đã phải trải qua những cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ. Cường quốc kinh tế số một thế giới không lạ lẫm với cụm từ suy thoái vì từ sau thế chiến thứ nhất tới nay, đã 8 lần người dân nước này sống trong tình cảnh này. So sánh những lần kinh tế Mỹ suy thoái tính từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 19
  20. Marketing quốc tế - Nhóm 7 3.1: Suy thoái kinh tế Mỹ bắt đầu vào tháng 12/2007 và kết thúc vào tháng 6/2009, kéo dài 18 tháng. Suy thoái kinh tế Mỹ tồi tệ nhất trong 70 năm, bắt đầu từ tháng 12/2007 đã kết thúc vào tháng 6/2009. Từ quý 4/2007 cho đến quý 2/2009, kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 4,1%, mức đi xuống tồi tệ nhất tính từ thập niên 1930. Chi tiêu của các hộ gia đình trong năm 2009 giảm 1,2% và như vậy có mức giảm sâu nhất tính từ năm 1942. Năm 2007, đánh dấu bởi sự sụp đổ của hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn trên thị trường nhà đất, sự đi xuống của thị trường tài chính, suy thoái kinh tế Mỹ lần vừa qua kéo dài 18 tháng, dài hơn thời kỳ kinh tế Mỹ đi xuống sau thời kỳ Đại Khủng hoảng 1929 – 1933. Hơn 8 triệu người Mỹ đã mất việc trong thời gian 18 tháng kinh tế Mỹ suy thoái vừa qua, hậu quả sẽ mất nhiều năm mới có thể khắc phục được. Nước Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới vì vậy sự suy sụp của nó dẫn đến sự suy thoái nền kinh tế cả thế giới. Và đến nay thế giới vẫn đang gồng mình để tìm lại những con số tăng trưởng GDP cao như trước đây và hơn thế. Nền kinh tế suy thoái, chi tiêu người dân thắt chặt, họ thực dụng hơn trong mua hàng – chính là bất lợi lớn đối với tất cả các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2