intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận giữa kì môn Kinh tế học quốc tế 2: Phân tích tác động của trợ cấp xuất khẩu nông sản Mỹ lên Mexico

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

12
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của nghiên cứu "Phân tích tác động của trợ cấp xuất khẩu nông sản Mỹ lên Mexico" này là tìm hiểu sâu hơn các tác động về trợ cấp xuất khẩu nông sản của Mỹ đến nền kinh tế Mexico đóng góp phần nào những kiến nghị về việc sử dụng có hiệu quả các biện pháp giải quyết tranh chấp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận giữa kì môn Kinh tế học quốc tế 2: Phân tích tác động của trợ cấp xuất khẩu nông sản Mỹ lên Mexico

  1. Working Paper Kinh tế học quốc tế 2 – KTE316(HK2-2324)1.1 PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA TRỢ CẤP XUẤT KHẨU NÔNG SẢN MỸ LÊN MEXICO Bùi Phương Thảo1 , Vũ Bình Dương, Bùi Công Minh, Đinh Thị Bích Ngọc, Đào Xuân Nhật Sinh viên K60 Kinh tế quốc tế - Khoa Kinh tế quốc tế Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam Chu Thị Mai Phương Giảng viên Khoa Kinh tế quốc tế Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam Tóm tắt: Nông nghiệp là một ngành chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố tự nhiên (khí hậu, môi trường,...) và yếu tố thương mại toàn cầu. Vì thế, hiện nay, khi trình độ kinh tế càng phát triển, các quốc gia chủ trương mở cửa thúc đẩy xuất nhập khẩu tăng trưởng, việc ban hành thêm các chính sách bảo hộ và trợ cấp nông nghiệp được phổ biến hơn cả. Lấy trợ cấp xuất khẩu nông sản Mỹ làm đề tài nghiên cứu, nghiên cứu này nhằm phân tích và đánh giá về tác động của trợ cấp xuất khẩu nông sản của nước Mỹ lên kim 1 Tác giả liên hệ, Email: k60.2114410172@ftu.edu.vn
  2. ngạch xuất khẩu của Mỹ sang Mexico trong giai đoạn 2012 - 2022 dựa trên lý thuyết trợ cấp xuất khẩu kết hợp với mô tả so sánh dữ liệu. Từ khoá: Trợ cấp, Xuất khẩu, Nông sản EVALUATE THE IMPACT OF US AGRICULTURAL EXPORT SUBSIDIES ON US EXPORT TURNOVER TO MEXICO Abstract: Agriculture is an industry influenced by many factors, including natural factors (climate, environment,...) and global trade factors. Therefore, currently, as the economic level becomes more developed, countries advocate openness to promote import-export growth, and the issuance of additional protection policies and agricultural subsidies is more popular. Taking US agricultural export subsidies as the research topic, this study aims to analyze and evaluate the impact of US agricultural export subsidies on US export turnover to Mexico in the period 2012 - 2022 is based on export subsidy theory combined with a comparative description of the data. Keywords: Subsidy, Export, Agricultural products 1. Đặt vấn đề Trên thực tế, các khoản trợ cấp có những mặt lợi nhất định, góp phần đa dạng hóa nền kinh tế, là tiền đề để nước xuất khẩu đưa sản phẩm của mình vào nhiều thị trường khác nhau,... Tuy nhiên, việc sử dụng trợ cấp xuất khẩu nông sản cũng dẫn đến nhiều ảnh hưởng như khuyến khích sản xuất trong nước quá mức, tác động tới giá thế giới, làm giảm tính cạnh tranh khiến thị trường nông sản thế giới bị gián đoạn, bóp méo.
  3. Mỹ là một trong các cường quốc hàng đầu thế giới về kinh tế, được xếp vào hàng các nước phát triển. Bằng việc sử dụng trợ cấp nông sản trong nước, dĩ nhiên Mỹ đã và đang làm tốt với các “nhà nông Mỹ" khi chi hàng tỷ USD cho việc sản xuất nông sản, tuy nhiên, với các nước có Mỹ là một thị trường xuất khẩu, đây lại là mối quan ngại lớn. Vào năm 2022, chính phủ Mỹ đã cấp gói trợ cấp 15,6 tỷ đô la Mỹ cho các chủ nông trại. Nguồn: Department of Agriculture, Economic Research Services Trợ cấp nông sản tại các nước phát triển vẫn là một vấn đề lớn cần giải quyết. Các nước đang phát triển chỉ trích các chính sách trợ cấp, trợ giá nông sản của các nước phát triển khiến họ không thể cạnh tranh công bằng trên thị trường thế giới. Nhiều chuyên gia kinh tế phê phán chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của các nước giàu đang cản trở các nỗ lực tự do hoá thương mại đối với mặt hàng nông sản của các nước kém phát triển hơn; cản trở công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở các nước này. Cuộc chiến thương mại gay gắt giữa Mỹ và Mexico là một trong những điển hình về tranh chấp bảo hộ mậu dịch tại nước sở tại và nước xuất khẩu. Trong suốt nhiều năm, Mỹ và Mexico luôn có những động thái “trả đũa” nhau khi Mỹ luôn ưu tiên trợ cấp xuất khẩu nông sản trong nước và đánh thuế cao với các mặt hàng xuất khẩu từ Mexico đến Mỹ. Vậy Mỹ đã sử dụng các biện pháp trợ cấp như thế nào? Và
  4. tác động của các biện pháp trợ cấp xuất khẩu nông sản của Mỹ lên Mexico là gì? Sự quan tâm này là động lực của nhóm tác giả để nghiên cứu đề tài này. Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu sâu hơn các tác động về trợ cấp xuất khẩu nông sản của Mỹ đến nền kinh tế Mexico đóng góp phần nào những kiến nghị về việc sử dụng có hiệu quả các biện pháp giải quyết tranh chấp. 2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Khái niệm về trợ cấp Theo WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc một tổ chức công (trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức sau mang lại lợi ích cho doanh nghiệp/ngành sản xuất: (i) Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ phần) hoặc hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay); (ii) Miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế, tín dụng); (iii) Mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hoá (trừ cơ sở hạ tầng chung); (iv) Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân tiến hành các hoạt động (i), (ii), (iii) nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm. Các khoản hỗ trợ này được hiểu là mang lại lợi ích cho đối tượng được hưởng hỗ trợ nếu nó được thực hiện theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân, một ngân hàng thương mại…bình thường sẽ không khi nào làm như vậy (vì đi ngược lại những tính toán thương mại thông thường). 2.1.2. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu Theo WTO, trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất khẩu, trợ cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn mức mà sản phẩm tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất khẩu, ưu đãi tín dụng xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp với đối tượng nhận trợ cấp là các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trước tiên hoặc chủ yếu là để xuất khẩu, hay nói cách khác, hàng hoá được
  5. trợ cấp phải là hàng hóa được tiêu thụ tại thị trường nước ngoài. Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. 2.1.3. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu phổ biến trong ngành nông nghiệp Dựa vào các quy định của WTO trong Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng - Agreement on Subsidies and Countervailing Measures (SCM) theo WTO (1995), trợ cấp xuất khẩu được chia thành ba loại: Trợ cấp đèn đỏ (Red-light Subsidies): Trợ cấp đèn đỏ được quy định tại Điều 3 và được xác định là việc Chính phủ trợ cấp trực tiếp cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Các biện pháp trợ cấp đèn đỏ bị cấm hoàn toàn bao gồm: (i) Cung ứng nguồn tiền liên quan đến thưởng xuất khẩu hoặc cung ứng đầu vào với nhiều điều kiện ưu đãi; (ii) Các ưu đãi liên quan đến thuế như miễn thuế trực thu, giảm thuế gián thu đối với sản phẩm xuất khẩu mà mức miễn này vượt quá cả mức thuế đánh vào các loại sản phẩm tương tự trong nước; (iii) Hoàn quá mức thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; (iv) Chương trình bảo hiểm xuất khẩu bắt buộc nhưng mức phí bảo hiểm không đủ để trang trải các chi phí dài hạn của chương trình bảo hiểm; (v) Tín dụng xuất khẩu của Chính phủ với lãi suất thấp hơn lãi suất đi vay. Tất cả các trường hợp trên đều coi như trợ cấp ở dạng đèn đỏ - trợ cấp trực tiếp và bị cấm sử dụng. Nếu chứng minh được hàng xuất khẩu đã hưởng một trong các loại trợ cấp trên, nước nhập khẩu được phép dùng các biện pháp đối kháng trừng phạt. Trợ cấp đèn vàng (Yellow-light Subsidies): Trợ cấp đèn vàng là các loại trợ cấp mang tính đặc thù, không phổ biến và thường chỉ áp dụng đối với đối tượng giới hạn như doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp, một ngành hoặc nhóm ngành, hoặc một khu vực địa lý cụ thể. Tuy nhiên, trợ cấp loại này vẫn có thể bị ảnh hưởng bởi các biện pháp đối
  6. kháng nhưng không bị cấm. Điều này khác với các biện pháp trợ cấp đèn đỏ, vốn bị cấm hoàn toàn. Để tránh các tác động bất lợi đối với các nước thành viên, trợ cấp đèn vàng chỉ được thực hiện ở mức độ không ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngành sản xuất của nước nhập khẩu hoặc làm suy yếu các ưu đãi thuế quan đã được đạt được trong đàm phán thương mại. Nếu trợ cấp đèn vàng gây ra các tác động này, nước nhập khẩu có thể dùng các biện pháp đối kháng trừng phạt. Trợ cấp đèn xanh (Green-light Subsidies): Được phép thực hiện mà không bị khiếu nại hoặc khởi kiện. Trợ cấp đèn xanh là các biện pháp trợ cấp mà doanh nghiệp được phép thực hiện, bao gồm: (i) Các biện pháp trợ cấp với mục đích hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu và phát triển mà doanh nghiệp tiến hành; (ii) Trợ cấp nhằm điều chỉnh những phương tiện sản xuất thích nghi với những đòi hỏi về môi trường, miễn là trợ cấp một lần và giới hạn ở mức 20% chi phí cho việc thích nghi đó (ví dụ nâng cấp cơ sở hạ tầng); (iii) Các biện pháp trợ cấp nhằm hỗ trợ ngành sản xuất thuộc các vùng khó khăn. Việc xác định vùng khó khăn phải căn cứ vào ranh giới rõ ràng về mặt địa lý, các đặc điểm và chỉ số kinh tế, hành chính nhất định. 2.1.4. Tác động của trợ cấp tới phúc lợi quốc gia
  7. Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp Khi thương mại tự do: P = PW QEX = QIM : Số lượng xuất nhập khẩu được thể hiện dưới dạng đoạn đường màu xanh lá cây trên biểu đồ của mỗi quốc gia (khoảng cách theo chiều ngang giữa đường cung S và đường cầu D ở mức giá PW) Khi có trợ cấp xuất khẩu (s): Tại nước xuất khẩu: PW thành PW + s Tại nước nhập khẩu: PW thành PW’ Như vậy, giá nội địa tại nước xuất khẩu tăng lên PW + s và tại nước nhập khẩu giảm xuống PW’ QEX = QIM : Số lượng xuất nhập khẩu được thể hiện dưới dạng đoạn đường màu đỏ trên biểu đồ của mỗi quốc gia Ở nước lớn, trợ cấp xuất khẩu làm giảm giá thế giới đối với hàng xuất khẩu của một nước. Ngoài tổn thất hiệu quả, còn có tổn thất về tỉ lệ thương mại (e+f+g), làm tăng chi phí trợ cấp của chính phủ. 2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Các tổ chức quốc tế như GATT và WTO đã đưa ra nhiều đề xuất liên quan đến thuế quan và các quy định thương mại. Để giảm bớt rào cản thương mại giữa các quốc gia, các cuộc đàm phán được tiến hành thông qua các cơ quan giải quyết tranh chấp ( WTO, 2010). Điều thú vị là có rất nhiều khoản trợ cấp và thuế nông nghiệp ở Mỹ và EU, cũng như tranh chấp kéo dài về trợ cấp của Airbus và Boeing (Blumenthal, 2010). Năm 2004, quyết định của Đại hội đồng WTO về việc loại bỏ trợ cấp xuất khẩu và các trợ cấp liên quan được coi là một thành tựu lớn. Mặc dù những khoản trợ cấp như vậy mang lại nhiều lợi ích cho các nước tiếp nhận nhưng chúng thường bị coi là một hình thức viện trợ không công bằng, làm bóp méo thị trường quốc tế. Một trong những tác động chính của việc sử dụng trợ cấp xuất khẩu là áp đặt gánh nặng quá mức lên các bên thứ ba, cụ thể
  8. là các nhà sản xuất trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước đang phát triển hoặc kém phát triển. Như vậy, chúng từ lâu đã là trở ngại cho sự thành công của các cuộc đàm phán thương mại WTO hiện nay. Hiệp định của WTO về trợ cấp, đối với các nước đang phát triển, việc cấm trợ cấp xuất khẩu sẽ có hiệu lực trong 8 năm kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực và bị cấm trong một khoảng thời gian nhất định. Theo Aziz Bakay (2010), trong khoảng thời gian từ năm 1996 đến năm 2005, nghiên cứu về tác động của trợ cấp nông sản xuất khẩu của Mỹ trong sáu mặt hàng nông sản đến Canada và Mexico đã chỉ ra rằng có tác động đáng kể của trợ cấp nông nghiệp đến xuất khẩu, đặc biệt tăng cường xuất khẩu sản phẩm có thể được coi là ưu tiên tài chính trong chính sách của tiểu bang. Hay trong nghiên cứu “How significant are export subsidies to agricultural trade? Trade and welfare implications of global reforms” của Aziz Elbehri và Susan (2001), việc loại bỏ trợ cấp xuất khẩu đa phương có tác động khác biệt giữa các quốc gia. Các nước xuất khẩu như Mỹ, Úc và Argentina, cả sản xuất và xuất khẩu đều mở rộng để bù đắp việc cắt giảm trợ cấp. Lan Anh Tông và các cộng sự (2019) bằng cách sử dụng mô hình trọng lực của xuất khẩu trang trại cấp tiểu bang, nghiên cứu cho thấy rằng việc giảm 1% trợ cấp trang trại sẽ làm giảm xuất khẩu trang trại của Hoa Kỳ 0,40% mỗi năm. Điều này tương đương với việc bãi bỏ hoàn toàn chương trình trợ cấp trang trại sẽ làm giảm xuất khẩu trang trại của Hoa Kỳ khoảng 15,3 tỷ USD mỗi năm. Cuối cùng, các khoản thanh toán trợ cấp chỉ ảnh hưởng đến xuất khẩu của hàng nông sản chứ không ảnh hưởng đến chăn nuôi. Ray D. Bollman, Shon M. Ferguson (2018) nghiên cứu về tác động của việc loại bỏ trợ cấp xuất khẩu đối với các nền kinh tế địa phương của Alberta, Saskatchewan và Manitoba. Có thể thấy rằng việc mất trợ cấp dẫn đến giá trị gia tăng trang trại, giá trị tài sản trang trại và việc làm phi nông nghiệp ở địa phương thấp hơn đáng kể. Kết quả cho thấy việc loại bỏ trợ cấp có tác động lan tỏa bất lợi đến nền kinh tế phi nông nghiệp địa phương và thay đổi theo không gian trên khắp vùng Prairies.
  9. 2.3. Khoảng trống nghiên cứu Đối chiếu kết quả nghiên cứu thực nghiệm trong ngoài nước cho thấy giữa các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước vẫn có những khoảng trống về mặt nội dung cũng như phương pháp nghiên cứu. Đầu tiên các công trình nghiên cứu chủ yếu tiếp cận từ phía trợ cấp để nghiên cứu tác động đến lượng hàng xuất khẩu của một nhóm các quốc gia mà chưa có nhiều nghiên cứu kết hợp nghiên cứu tác động của trợ cấp xuất khẩu của một quốc gia đối với một quốc gia khác. Ngoài ra, các nghiên cứu thiếu tính giai đoạn, khi nền kinh tế biến động liên tục, việc nghiên cứu kỹ lưỡng các giai đoạn kinh tế khác nhau cũng là yêu cầu thiết yếu để đưa ra kết luận chính xác hơn. Có thể khẳng định rằng, vấn đề tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản Mỹ sang Mexico với các yếu tố trợ cấp xuất khẩu nông sản cũng còn những vấn đề cần nghiên cứu làm rõ. Đây chính là khoảng trống trong nghiên cứu mà nhóm hướng đề tài đến để thực hiện. 3. Phương pháp nghiên cứu Nhóm nghiên cứu đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau như: tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, nghiên cứu để có những phân tích đầy đủ nhất về Tác động của trợ cấp xuất khẩu nông sản của Hoa Kỳ sang Mexico. Trong đó các phương pháp chính được sử dụng bao gồm: 3.1. Phương pháp tổng hợp, phân tích Xác định các thông tin cần sử dụng trong quá trình nghiên cứu. Tổng hợp, phân tích các tài liệu từ internet, báo chí,.. và xác định độ tin cậy của thông tin được tổng hợp. Sau đó tiến hành phân tích sâu tác động của trợ cấp xuất khẩu nông sản của Hoa Kỳ sang Mexico.
  10. 3.2. Phương pháp thống kê số liệu Nhóm sử dụng các biểu đồ, đồ thị để miêu tả, so sánh những số liệu thu thập được trên các website. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp được sử dụng ở đây là phương pháp định tính, dùng các thông tin và số liệu thu được về tổng kim ngạch, sản lượng xuất nhập khẩu nông sản từ nhiều nguồn khác nhau trong giai đoạn từ 2012-2022, tiến hành xử lý, chắt lọc thông tin để đánh giá, chỉ ra những tác động, quy mô, bản chất của đối tượng nghiên cứu theo thời gian. 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 4.1. Tác động của trợ cấp xuất khẩu đến Mỹ Hình 4.1.1 Mô hình giá nông sản nội địa Mỹ khi có trợ cấp xuất khẩu (nước lớn) Giải thích: Trong thị trường thương mại toàn cầu, Hoa Kỳ là một nước lớn với giá trị xuất khẩu và nhập khẩu thuộc top đầu thế giới, vì vậy, giá thế giới sẽ phụ thuộc vào chính sách thương mại của nước này. Khi Hoa Kỳ trợ cấp mặt hàng nông sản với số tiền s,
  11. giá thế giới sẽ giảm từ Pw xuống P*w. Trong khi đó tại thị trường nội địa Mỹ, nông dân nhận được P*w + s khi sản xuất nông sản xuất khẩu, nếu giá trong nước không tăng lên và bằng P*w + s hoặc cao hơn thì không ai muốn bán nông sản nội địa. Từ đó giá nội địa tăng lên Pd và gây những tác động sau: Đầu tiên, tác động rõ ràng nhất và là mục đích chính của trợ cấp xuất khẩu là giảm giá thành của nông sản Mỹ trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mexico nói riêng, nông sản Mỹ sẽ trở nên hấp dẫn về giá khi đặt cạnh các đối thủ cạnh tranh và làm tăng xuất khẩu. Từ đó tạo điều kiện giúp nông dân Mỹ cạnh tranh được với các nước khác, đặc biệt là các nước có giá thành sản xuất thấp hơn, tạo và duy trì nhiều việc làm trong ngành. Phần thặng dư sản xuất được biểu diễn bằng diện tích a+b+c+d trong hình dưới. Tuy nhiên, trợ cấp xuất khẩu có thể gây ra sự phụ thuộc, khi mức độ cạnh tranh trên thị trường giảm xuống, nhà sản xuất sẽ ít động lực tìm kiếm các phương pháp mới để giảm chi phí và tăng chất lượng hàng hóa. Bên cạnh đó, khi trợ cấp bị cắt giảm hoặc hạn chế có thể khiến nhà cung cấp nông sản hoặc nông dân gặp khó khăn để thích nghi. Thứ hai, người tiêu dùng nội địa Mỹ sẽ bị thiệt hại, trong hình vẽ thì phần thiệt hại được mô tả bằng diện tích a+b. Như đã giải thích, trợ cấp xuất khẩu làm cho giá nông sản nội địa tăng lên không thấp hơn mức giá xuất khẩu. Người tiêu dùng nội địa với mức giá cao hơn, cộng với gánh nặng do chi phí trợ cấp cũng như sự lựa chọn thiếu đa dạng hơn do chương trình trợ cấp thường tập trung vào một số loại sản phẩm nhất định. Dù vậy, vấn đề an ninh lương thực nội địa sẽ được đảm bảo dao trợ cấp xuất khẩu kích thích sản xuất nhiều hơn, an ninh lương thực được đảm bảo và hạn chế phụ thuộc vào hàng nhập khẩu.
  12. Hình 4.1.2 Mô hình trợ cấp xuất khẩu Mỹ (nước lớn) Cuối cùng, về phía chính phủ sẽ phải chịu một khoản tiền trợ cấp bằng với diện tích b+d+f+g+h. Đây là khoản mà chính phủ phải trả cho nhà sản xuất xuất khẩu nông sản. Trợ cấp xuất khẩu nông sản là một gánh nặng tài chính cho chính phủ Mỹ, và số tiền này có thể được sử dụng cho các mục đích khác như giáo dục, y tế hoặc cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, chương trình trợ cấp xuất khẩu nông sản của Mỹ sẽ bị các nước khác chỉ trích vì gây bất lợi cho nông dân ở các nước đó. Nhìn chung, chi phí của việc trợ cấp xuất khẩu cao hơn lợi ích mà nó đem lại và làm giảm phúc lợi của toàn Hoa Kỳ nói chung. Dù nó có tác dụng trong việc phân phối lại thu nhập, chính phủ cũng cần cân nhắc giữa lợi ích và thiệt hại mà người sản xuất và người tiêu dùng nhận được. 4.2. Tác động của trợ cấp xuất khẩu đến Mexico Trong giai đoạn từ 2018 - 2022, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Mỹ sang Mexico đều có sự tăng trưởng đều qua các năm. Tuy năm 2020 chứng kiến sự trầm xuống của nền
  13. kinh tế, kim ngạch xuất khẩu cũng có sự giảm nhẹ tuy nhiên được khôi phục và có xu hướng tăng mạnh hơn trong năm 2021 và 2022. Hình 4.2.1 Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản Mỹ - Mexico giai đoạn 2018 - 2020 Hoa Kỳ chiếm 69.1% lượng thực phẩm mà Mexico nhập khẩu, nhiều hơn tất cả các quốc gia khác trên thế giới. Điều này cho thấy các chính sách trợ cấp hay nông nghiệp của Hoa Kỳ đều sẽ có sự tác động đến Mexico trên nhiều phương diện Hình 4.2.2 Mô hình xuất nhập khẩu Mỹ - Mexico có trợ cấp xuất khẩu
  14. Về tác động đến người sản xuất, giá nông sản nhập khẩu giảm sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến nhà sản xuất nội địa Mexico (diện tích E+F). Cung nông sản của Mexico sẽ buộc phải bán giá thấp hơn trước đây để cạnh tranh với nông sản đến từ Mỹ. Với mức giá được trợ cấp, nông sản của Mỹ trở nên hấp dẫn hơn trong mắt người tiêu dùng Mexico, gây nên sự chuyển dịch xu hướng mua sắm và hình thành thói quen tiêu dùng thương hiệu Mỹ. Dù vậy, đây cũng là động lực thúc đẩy các nhà sản xuất Mexico tìm ra các phương thức cạnh tranh mới bên cạnh giá cả, tìm kiếm giải pháp tối ưu chi phí, nâng cao công nghệ, năng suất để giữ vững thị phần trong nước. Tương tự như những phát hiện của Wise (2010), trợ cấp nông nghiệp Hoa Kỳ tiếp tục gây áp lực giảm giá đối với các mặt hàng nông sản trên toàn cầu. Xu hướng này ảnh hưởng trực tiếp đến người nông dân Mexico, cản trở khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường quốc tế. Theo Ngân hàng Thế giới (2024), mức giảm giá trung bình cho các sản phẩm nông nghiệp ở Mexico từ năm 2012 đến năm 2023 dao động từ 5% đối với lúa mì đến 18% đối với đậu. Chênh lệch giá này, cùng với lượng xuất khẩu nông sản lớn của Hoa Kỳ, tạo ra sân chơi không cân bằng cho người sản xuất Mexico. Các loại cây lương thực chính cho thấy dấu hiệu của việc bị phụ thuộc vào nhập khẩu. Bằng chứng là sản lượng các loại cây như lúa mì (-7%), đậu (-12%) và gạo (-8%) vẫn trì trệ hoặc giảm, tổng xuất khẩu của Mỹ sang Mexico của các loại cây này cũng chiếm đến 35-80% tiêu dùng nội địa Mexico Chỉ số 2021 2022 2023 (ước tính) Tổng sản lượng địa phương 26.762 26.500 27.400 Tổng tiêu dùng trong nước 44.000 44.000 45.700 Tổng xuất khẩu của Mỹ sang Mexico 16.840 15.435 - Ngô Tổng nhập khẩu của Mỹ từ Mexico 23 26 -
  15. Tổng sản lượng địa phương 3,281 3,572 3.300 Tổng tiêu dùng trong nước 7.425 7.900 7.900 Lúa mì Tổng xuất khẩu của Mỹ sang Mexico 4.152 3.933 - Tổng nhập khẩu của Mỹ từ Mexico 37 37 - Tổng sản lượng địa phương 288 175 235 Tổng tiêu dùng trong nước 6,402 6,552 6,555 Đậu nành Tổng xuất khẩu của Mỹ sang Mexico 3.742 5.200 - Tổng nhập khẩu của Mỹ từ Mexico 0 0 - Bảng 4.2.1 Tổng quan về thị trường ngô, lúa mì và đậu nành Mexico (Đơn vị: nghìn tấn) Nguồn: Foreign Agricultural Service: PSD, GATS
  16. Hình 4.2.3.a,b,c Sản lượng và Diện tích canh tác Ngô, Lúa Mì, Đậu nành Mexico giai đoạn 2012 - 2022 Nguồn: FAOSTAT ,2024 Bên cạnh đó chỉ số phụ thuộc vào thương mại thực phẩm với 4 loại cây trồng chính từ 2019 - 2022 của Mexico đối với Mỹ cũng giao động từ 0.8836 - 0.9507, rất với mức cao nhất là 1.0 (FSP, 2024). Trong năm 2021, Hoa Kỳ cũng chiếm 69,1% số thực phẩm nhập khẩu vào Mexico
  17. Hình 4.2.4 Biểu đồ chỉ số phụ thuộc vào thương mại thực phẩm với 4 loại cây trồng chính từ 2019 - 2022 của Mexico đối với Mỹ Nguồn: FSP, 2024 Hình 4.2.5 Biểu đồ thể hiện tỷ trọng các quốc gia xuất khẩu thực phẩm sang Mexico Nguồn: WITS, 2024 Ngoài ra còn một số hậu quả xã hội khác như việc thu nhập giảm do giá bán thấp khiến người nông dân khó trang trải chi phí sản xuất và tạo ra thu nhập bền vững, người nông dân phải vay mượn, đe dọa đến sinh kế của họ và đẩy họ vào cảnh nghèo khó hơn, gây bất bình đẳng xã hội giữa dân cư nông thôn và thành thị. Người tiêu dùng Mexico là đối tượng được hưởng lợi ích từ việc trợ cấp xuất khẩu của Mỹ (diện tích E+F+G), giá nông sản thấp hơn đồng nghĩa với việc người Mexico phải chi trả ít tiền hơn trong việc mua sắm lương thực, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và các loại nông sản khác. Điều này đồng thời cũng giảm áp lực tài chính với người dân và ngân sách quốc gia, chi phí nông sản giảm cũng giúp các mặt khác của cuộc sống có cơ hội được cải thiện như giáo dục, y tế,...
  18. Tóm lại, dù gây ra hiệu ứng tiêu cực về phía nhà sản xuất Mexico, việc Mexico nhập khẩu nông sản được trợ cấp từ Mỹ vẫn có tổng phúc lợi dương xét về mặt kinh tế, tuy nhiên lại gây ra nhiều hậu quả phi kinh tế và khó đo lường hơn như vấn đề an ninh lương thực, nền nông nghiệp đất nước,.... 4.3. Những tranh cãi xoay quanh trợ cấp nông sản Mỹ - Mexico Những người ủng hộ trợ cấp xuất khẩu nông sản Hoa Kỳ cho rằng đây là yếu tố thiết yếu cho sự thành công của ngành nông nghiệp nước này. Được thành lập vào thập niên 1930 để ổn định thị trường trong nước trong thời kỳ Đại Khủng Hoảng (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, 2023), các chương trình này đã phát triển thành một hệ thống toàn diện bao gồm cho vay, bảo hiểm và thanh toán trực tiếp. Những người ủng hộ nhấn mạnh những lợi ích không thể phủ nhận mà các khoản trợ cấp này mang lại cho ngành nông nghiệp Hoa Kỳ (McInnis, 2020). Họ chỉ ra các số liệu thống kê như 136,7 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu nông sản của Hoa Kỳ vào năm 2022 (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, 2023), cho rằng trợ cấp tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, mang lại lợi ích cho nông dân và người tiêu dùng Hoa Kỳ thông qua giá thực phẩm thấp hơn. Những người chỉ trích trợ cấp xuất khẩu nông sản Hoa Kỳ, đặc biệt là những người đại diện cho nông dân Mexico, lập luận rằng các chương trình này tạo ra lợi thế không công bằng cho nhà sản xuất Hoa Kỳ. Dữ liệu từ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho thấy một sự chênh lệch rõ rệt: vào năm 2019, Hoa Kỳ đã hỗ trợ 68 tỷ USD cho lĩnh vực nông nghiệp của mình, trong khi Mexico chỉ hỗ trợ 16 tỷ USD (OECD, 2020). Lợi thế chi phí đáng kể này cho phép nông dân Hoa Kỳ bán sản phẩm với giá thấp hơn so với nhà sản xuất Mexico, như một nghiên cứu năm 2018 của Trung tâm Nghiên cứu Nông thôn Mexico (CECCAM) đã chỉ ra rằng giá ngô nhập khẩu từ Hoa Kỳ, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi trợ cấp, thấp hơn giá của nhà sản xuất Mexico trung bình 15-20% (CECCAM, 2018). Những người chỉ trích cho rằng điều này không chỉ làm suy yếu sinh kế của nông dân Mexico mà còn làm nản lòng đầu tư vào các phương thức canh tác bền vững và hiệu quả ở Mexico.
  19. Hậu quả của trợ cấp xuất khẩu nông sản Hoa Kỳ không chỉ giới hạn ở tác động kinh tế đối với nông dân Mexico. Việc ồ ạt nhập khẩu sản phẩm giá rẻ từ Hoa Kỳ có thể làm trầm trọng thêm bất bình đẳng xã hội ở Mexico, dẫn đến nguy cơ đóng cửa trang trại, mất việc làm ở nông thôn và gia tăng nghèo đói ở cộng đồng nông nghiệp (Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, 2018). Ngoài ra, những lo ngại về tác động môi trường của phương thức sản xuất thâm canh, dựa trên trợ cấp ở Hoa Kỳ đặt ra câu hỏi về tính bền vững lâu dài cho cả hai quốc gia (Clapp, 2012). Vấn đề phức tạp về trợ cấp xuất khẩu nông sản Hoa Kỳ và nông dân Mexico đòi hỏi một cách tiếp cận hợp tác. Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), được đàm phán lại vào năm 2018 dưới dạng Hiệp định Hoa Kỳ-Mexico-Canada (USMCA), bao gồm các điều khoản nhằm giảm thiểu sự biến dạng do trợ cấp gây ra. Tuy nhiên, hiệu quả của các điều khoản này vẫn còn phải chờ xem (Bown, 2018). 4.4. Thảo luận kết quả Phân tích của nhóm khẳng định trợ cấp nông nghiệp Hoa Kỳ có tác động tiêu cực đến người sản xuất nông nghiệp Mexico. Bằng chứng thể hiện qua việc giá sản phẩm nông nghiệp giảm, sản xuất nông nghiệp trì trệ và Mexico ngày càng phụ thuộc vào nhập khẩu. Những phát hiện này củng cố các giả thuyết nghiên cứu ban đầu: trợ cấp của Hoa Kỳ làm giảm giá nông nghiệp toàn cầu, cản trở khả năng cạnh tranh của người sản xuất Mexico và khiến Mexico phụ thuộc nhiều hơn vào nhập khẩu nông sản. Điều này làm nổi bật nhu cầu cải cách chính sách trợ cấp nông nghiệp để tạo ra một môi trường thương mại toàn cầu công bằng và bền vững hơn. Ngoài ra, nghiên cứu có thể góp phần cung cấp thông tin nhằm đề xuất chính sách hỗ trợ người sản xuất Mexico thích ứng với môi trường thương mại quốc tế cạnh tranh và thúc đẩy các cuộc đàm phán quốc tế về cải cách trợ cấp nông nghiệp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2