Tiểu luận:Quá trình chuyển biến tư duy của Đảng về đường lối, chính sách đối ngoại từ 1986 đến nay
lượt xem 44
download
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, cùng với đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận:Quá trình chuyển biến tư duy của Đảng về đường lối, chính sách đối ngoại từ 1986 đến nay
- BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM ------***------ BµI TËP LíN MÔN: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM II Đề tài: QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI TỪ 1986 ĐẾN NAY Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thùy Dung Lớp : H33 Hà Nội - 04/2009 -1-
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................3 I. NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG VỀ THỜI ĐẠI, XU THẾ VẬN ĐỘNG CỦA THẾ GIỚI VÀ QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA .............5 1. Khái quát về thời đại ngày nay ............................................................5 2. Những đặc điểm chính trong giai đoạn hiện nay của thời đại ..............5 3. Những mâu thuẫn trong giai đoạn hiện nay của thời đại......................6 II. QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỔI NGOẠI ............................................................9 1. Sự chuyển biến giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế ...................9 2. Sự chuyển biến từ cặp phạm trù hợp tác/đấu tranh đến cặp phạm trù đối tác/đối tượng ............................................................................... 12 3. Sự thay đổi trong tư duy tập hợp lực lượng ....................................... 13 KẾT LUẬN .............................................................................................. 16 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ 17 -2-
- LỜI NÓI ĐẦU Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, cùng với đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đế đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết phải đối mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Đây là tiền đề nhận thức của đổi mới. Hình thành nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những hoàn cảnh, điều kiện mới của tình hình trong nước và thế giới là điểm cốt lõi, căn bản nhất của lý luận đổi mới ở nước ta tư giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX cho đến nay. Thực tiễn xã hội đã khách quan hóa vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của lý luận và tư duy lý luận đối với sự phát triển của đất nước và dân tộc ta. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng, do đó là vấn đề cấp bách, bức xúc đối với sự lãnh đạo của Đảng đồng thời là vấn đề cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Nói đến đổi mới tư duy về đối ngoại, trước hết là việc đổi mới công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá những chuyển biến của tình hình thế giới và quan hệ quốc tế; thứ hai là đổi mới tư duy về các cặp quan hệ như: lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế; sự chuyển biến từ cặp phạm trù hợp tác/đấu tranh đến cặp phạm trù đối tác/đối tượng; đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng, từ đó xác định chủ trương, đường lối và chính sách đối ngoại thích hợp. Bài viết dưới đây trình bày về “Quá trình chuyển biến tư duy của Đảng về đường lối, chính sách đối ngoại từ 1986 đến nay”. Khuôn khổ bài viết tập trung trả lời hai câu hỏi: 1. Xu thế vận động của thế giới và quá trình toàn cầu hóa đã tác động như thế nào đối với sự phát triển và trưởng thành về năng lực tư duy lý luận của Đảng? -3-
- 2. Trong quá trình thay đổi tư duy dối ngoại của Đảng từ 1986 đến nay, sự chuyển biến nào là mấu chốt? Tại sao? I. NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG VỀ THỜI ĐẠI, XU THẾ VẬN ĐỘNG CỦA THẾ GIỚI VÀ QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA 1. Khái quát về thời đại ngày nay Trước những diễn biến vô cùng phức tạp của thế giới sau sự khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, vấn đề thời đại tiếp tục trở thành một trong những tiêu điểm nóng bỏng, gay gắt của cuộc đấu tranh tư tưởng – lý luận. Dựa trên quan điểm mácxít về thời đại, Đảng ta tiếp tục khẳng định, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi năm 1917 đã đánh dấu bước đột phá vĩ đại mở đầu thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai liên tiếp giành thắng lợi, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa, khai sinh một thực thể quốc tế mới, bao gồm hơn một trăm quốc gia độc lập. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội cũng được đẩy mạnh trên toàn thế giới. Trước sức tiến công của các lực lượng cách mạng này vào chủ nghĩa tư bản, sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội của thời đại ngày nay được kiểm chứng về mặt lịch sử như những bước vận động hiện thực. Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc liên tục bị tấn công từ nhiều phía, phải chịu nhiều thất bại nặng nề và đã hơn một lần lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Dù đã có những điều chỉnh mạnh mẽ không chỉ cơ cấu sản xuất, cơ chế bóc lột và công nghệ, song chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn gay gắt vốn có trong lòng nó. Bởi vậy, ngay cả khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô không còn nữa, từ trong lòng các nước tư bản, hàng loạt học giả liên tiếp đưa ra các luận cứ, sự kiện bác bỏ tính trường tồn của chủ nghĩa tư bản. Thời đại là cả một thời gian lịch sử dài hàng trăm năm. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử lâu dài, gồm nhiều thời kỳ vận động phức tạp. Văn kiện Đại hội IX của Đảng ta khẳng định: “ Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ -4-
- những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” 1. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, gắn với bối cảnh cụ thể của từng nước, nên không đồng nghĩa với sự thất bại của toàn bộ chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, vẫn còn nhiều nước XHCN khắc phục được khủng hoảng, từng bước cải cách, đổi mới và phát triển. Tóm lại, mặc dù thế giới đã trải qua những biến động rất sâu sắc sau thất bại lớn tạm thời của chủ nghĩa xã hội, nhưng tính chất và nội dung của thời đại ngày nay không hề thay đổi. Vận động trong những điều kiện lịch sử mới, với những đặc điểm mới khác về cơ bản so với trước năm 1991, thời đại chúng ta hiện vẫn hướng tới mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất – kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội. 2. Những đặc điểm chính trong giai đoạn hiện nay của thời đại Một là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đạt nhiều kỳ tích, đã và đang tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế trong thời đại ngày nay. Hai là, toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, nhưng đang bị chủ nghĩa tư bản và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối. Ba là, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra gay gắt. Bốn là, nhân loại đang đứng trước những vấn đề toàn cầu hết sức bức xúc đòi hỏi phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết, trong khi đó, vì lợi ích quốc gia, các nước chưa thật sự tích cực hợp tác với nhau. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.14. -5-
- Năm là, quan hệ giữa các nước lớn ngày càng trở thành nhân tố rất quan trọng đối với sự phát triển của tình hình thế giới. 3. Những mâu thuẫn trong giai đoạn hiện nay của thời đại a/ Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn cơ bản xuyên suốt của thời đại trong tiến trình vận động của lịch sử nhân loại, xét cả từ góc độ lý luận và góc độ thực tiễn. Chủ nghĩa xã hội dù bị đổ vỡ một bộ phận, không còn là một hệ thống, nhưng vẫn còn tồn tại các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại trong niềm tin của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Câu hỏi đặt ra: Tại sao vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn là vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh hiện nay trên thế giới? Bởi vì: Sau sự sụp đổ một mảng lớn các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu năm 1991, các chiến lược gia tư sản đang ra sức chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản là giai đoạn phát triển cao nhất, giai đoạn cuối cùng của thời đại ngày nay. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang ngày càng lớn mạnh, ngoài các nước xã hội chủ nghĩa đang có bước phát triển bền vững, có ảnh hưởng lớn trong phong trào cộng sản và công nhân, ở một số nước đã từng là xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản dần dần lấy lại được vị thế của mình. Điều quan trọng nhất là cả đảng cộng sản và quần chúng nhân dân đã dần dần nhận rõ những sai lầm cần sửa chữa, cái giá phải trả cho những ngộ nhận ở một thời điểm nào đó trong quá khứ. Phong trào xã hội chủ nghĩa là một xu thế, một lực lượng chính trong sự phát triển của xã hội loài người. Nó đã và vẫn là mối đe dọa, là đối thủ chính của chủ nghĩa đế quốc trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc sẵn sàng gác lại mâu thuẫn nội bộ để tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản, trung tâm của thời đại ngày nay. b/ Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động vẫn là mâu thuẫn cơ bản, xuyên suốt hiện nay. Mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh mới trong phương thức thống trị và trong bóc lột giá trị thặng dư, nhưng những -6-
- mâu thuẫn giữa công nhân và tư bản không giảm sút hoặc đã mất đi. Lợi dụng việc nắm giữ những tiến bộ của khoa học và công nghệ, lợi dụng toàn cầu hóa và nắm giữ nguồn tài chính khổng lồ, các nhà nước tư bản câu kết nhau thành lập những công ty xuyên quốc gia khống chế, bóc lột giai cấp công nhân tinh vi hơn, khó nhận thấy trực tiếp hơn so với trước đây. Toàn cầu hóa kinh tế càng làm cho quá trình xâm nhập tư bản vào các nước đang và chậm phát triển tăng lên. Sự chênh lệch giàu nghèo càng tăng làm cho quần chúng lao động các nước ngày càng nhận rõ mặt trái của toàn cầu hóa và kiên quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa. c/ Mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển và chậm phát triển với các nước đế quốc có nguy cơ ngày càng trở nên gay gắt. Lợi dụng những khó khăn của phong trào xã hội chủ nghĩa, Mỹ đang mưu toan sắp đặt lại trật tự thế giới với mưu đồ Mỹ làm bá chủ. Đặc biệt, sau sự kiện ngày 11-9-2001, lợi dụng vấn đề chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, một mặt đế quốc Mỹ tăng cường việc tập hợp các nước trên cơ sở hợp tác chống khủng bổ, mặt khác tiến hành điều chỉnh chiến lược, tự cho phép “đánh đòn phủ đầu” những quốc gia dân tộc nào không theo cái gậy chỉ huy của Mỹ. Quan hệ quốc tế dựa trên những nguyên tắc đã được thiết lập nhiều năm trước đây đã bị phá vỡ do hành động của chủ nghĩa đế quốc. Hòa bình, độc lập dân tộc, không can thiệp vào nội bộ vì sự phát triển của các quốc gia đã bị xâm phạm. Các nước tư bản đang hợp sức thông qua các công ty tư bản xuyên quốc gia lũng đoạn thế giới, đặt các dân tộc trước nguy cơ mất độc lập về kinh tế và do đó mất độc lập về chính trị, quân sự và văn hóa. d/ Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau trong giai đoạn hiện nay vẫn là mâu thuẫn cơ bản đang tồn tại hiện hữu. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ mưu toan làm bá chủ thế giới bất chấp luật pháp quốc tế, làm cho các nước đế quốc khác bất bình. Việc Mỹ phát động cuộc chiến chống Ápganixtan và Irắc đã đe dọa quyền lợi kinh tế, các vị trí chiến lược của các nước tư bản phát triển ở châu Âu. Mỹ đứng sau các thế lực hiếu -7-
- chiến ở Ixraen gây ra tình hình mất ổn định ở Trung Đông. Cuộc chiến trong kinh tế, thương mại giữa các trung tâm Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản thường xuyên bộc lộ những mâu thuẫn, tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Đặc biệt, chủ trương “đánh đòn phủ đầu” của Mỹ không chỉ đe dọa độc lập dân tộc của các nước đang phát triển, mà còn đe dọa chính các nước tư bản phát triển khác. Trong giai đoạn hiện nay của thời đại, song hành với những mâu thuẫn cơ bản vẫn còn nguyên, hiện đang nổi lên một mâu thuẫn hết sức gay gắt như là mâu thuẫn chủ yếu của thời đại chúng ta – đó là mâu thuẫn giữa một bên là các lực lượng đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, ổn định, phát triển bền vững với một bên là các thế lực đế quốc hiếu chiến, đứng đầu là đế quốc Mỹ, đang thực thi chính sách ngông cuồng, ngạo mạn, áp đặt, đe dọa nhân loại tiến bộ toàn thế giới. Thực tiễn sự vận động của lịch sử mười năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI vẫn chỉ rõ bốn mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay vẫn còn nguyên, cho dù đã có những thay đổi trong từng mặt đối lập cấu thành mâu thuẫn, trong hình thức biểu hiện và mức độ gay gắt của nó. Quá trình chuyển biến của xu thế vận động của thế giới và quá trình toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc và trực tiếp đến sự chuyển biến trong tư duy lý đối ngoại của Đảng. Hơn 8 thập niên đã trôi qua, mặc dù thế giới luôn vận động thăng trầm phức tạp, song lý tưởng và con đường Cách mạng Tháng Mười vẫn ngời sáng, định hướng cuộc đấu tranh của phong trào cộng sản quốc tế, của các dân tộc vì những mục tiêu cao cả mang tính thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng ta luôn kiên trì quan diểm mácxít về thời đại, nhận ra rằng quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử lâu dài, gồm nhiều thời kỳ vận động phức tạp. Vì thế, không được ảo tưởng giản đơn, nóng vội, chủ quan, đồng thời cũng không được hoài nghi, dao động, bi quan trước những biến động xấu, đổ vỡ và bước thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội hiện nay. -8-
- II. QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI 1. Sự chuyển biến giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế Trước năm 1986, với tư duy mang nặng tính ý thức hệ, nước ta đã xem trọng vấn đề nghĩa vụ quốc tế hơn lợi ích dân tộc, xem vấn đề này là ưu tiên hàng đầu trong chính sách của đất nước. Trong khi đó, tình hình thực tế là đất nước ta vừa thoát khỏi chiến tranh, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, yêu cầu về phát triển thực sự cấp thiết. Vấn đề an ninh được đặt lên hàng đầu so với vấn đề phát triển và ảnh hưởng, mặc dù xu hướng thế giới sau chiến tranh đã chuyển dần sang vừa hợp tác vừa đấu tranh. Những sai lầm trong tư duy này đã dẫn đến hậu quả không nhỏ: sa lầy trong chiến tranh Campuchia, bị bao vây cô lập, bị đồng minh cũ Trung Quốc gây chiến tranh biên giới và luôn đe dọa “dạy bài học” lần 2, tình hình trong nước vô cùng phức tạp. Những hậu quả này buộc chúng ta phải xem xét, hoạch định lại chính sách để phù hợp hơn. Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước đột phá trong tư duy đối ngoại. Trong bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa đều nhận thấy phải cải tổ, cải cách, mở cửa để đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã nhận rõ phải mở cửa và hội nhập với thế giới trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trở lại với quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về thêm bạn bớt thù, Đảng ta khẳng định phải quan hệ rộng rãi với các nước, không phân biệt chính kiến chính trị, lý tưởng, thậm chí với cả các nước trước đây có lúc là kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta. Để hội nhập với thế giới, Đảng ta nhận rõ, trước hết phải phá thế bao vây, cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và làm cho thế giới hiểu rõ thiện chí, trách nhiệm của nhân dân ta trong việc giúp giải phóng nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng của Pôn Pốt. Việc rút toàn bộ quân đội khỏi Campuchia năm 1989 đã loại bỏ một rào cản lớn mà các nước đế quốc lợi dụng để bao vây, cấm vận Việt Nam. Có thể thấy rõ sự thay đổi trong tư duy về lợi ích quốc gia sau năm 1986 trước hết ở Nghị quyết 13 BCT/5 – 1988: “Lợi ích -9-
- cao nhất của Đảng và nhân dân ta sau khi giải phóng miền Nam, cả nước thống nhất, đi lên Chủ nghĩa xã hội là phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế”. Từ đó, Đảng chủ trương: mở rộng cửa quan hệ với tất cả các nước để hội nhập quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh, với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”, NQ13BCT/5-1988. Như vậy, Đảng đã khẳng định: sức mạnh kinh tế, lực lượng quân sự và quan hệ đối ngoại là ba nhân tố liên quan đến độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, đem đến lợi ích quốc gia. Bên cạnh đó, Đảng cũng nhận thức được rằng: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, phát triển nhanh về kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh…cũng là một cách để Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế, là đóng góp quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và phát triển. Đổi mới tư duy về lợi ích quốc gia từ năm 1996 cho đến nay, chính sách đối ngoại chủ yếu của ta trong thời gian này là “Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, giờ đây chúng ta đã sẵn sàng là bạn với tất cả các nước bên ngoài cho dù họ có muốn hay không. Sự hình thành ngày càng rõ nét hơn về hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Đại hội Đảng lần thứ VIII “quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội” hòa nhập nền kinh tế của chúng ta vào nền kinh tế thế giới, mở cửa thị trường và nhằm nâng cao đời sống cộng đồng. Ta cũng thấy bắt đầu xuất hiện các vấn đề toàn cầu như ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh… những vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích từng quốc gia. Do đó, đòi hỏi các quốc gia phải có sự hợp tác để cùng nhau ngăn chặn và bảo vệ. - 10 -
- Đại hội Đảng lần thứ IX cho ta thấy sự thay đổi rất rõ trong tư duy về việc phân biệt đối tác và đối tượng, có rất nhiều nước sẵn sàng là bạn với chúng ta nhưng chỉ một số nước mới có thể trở thành đối tác, đây là tiêu chí hàng đầu để phát triển kinh tế. Còn trong đại hội X chính sách đối ngoại Việt Nam có nhiều đổi mới, đặt mục tiêu ảnh hưởng bằng mục tiêu phát triển để đảm bảo an ninh. Năm 2007 có thể được gọi là năm ngoại giao về kinh tế vì liều lượng kinh tế trong hoạt động ngoại giao ngày càng tăng lên rất nhiều. Qua đó cho ta thấy chính sách đối ngoại Việt Nam ngày càng hoàn thiện cả lý thuyết và thực tiễn, che chắn được nhiều khuyết điểm của chúng ta. Lợi ích quốc gia dân tộc ở đây là lợi ích tối thượng và được thể hiện qua ba mục tiêu chính đó là an ninh, ảnh hưởng và phát triển và các mục tiêu này được thực hiện thông qua ba công cụ chính đó là kinh tế, quân sự và ngoại giao. Ba mục tiêu và ba công cụ này luôn hỗ trợ và bổ xung cho nhau phục vụ trong suốt quá trình hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước ta, nhưng cũng có lúc ta chú trọng mục tiêu hay công cụ này hơn các mục tiêu và công cụ còn lại hay lấy mục tiêu, công cụ này phục vụ cho các mục tiêu, công cụ còn lại để bảo vệ lợi ích quốc gia. Do đó, mà buộc các nhà làm hoạch định chính sách phải linh hoạt và nhạy bén tùy từng thời điểm và hoàn cảnh khác nhau mà ta sử dụng thích hợp mục tiêu và công cụ nào cao hơn. Sự thay đổi tư duy về lợi ích quốc gia đóng vai trò quan trọng trong đối nội cũng như đối ngoại. Chúng ta phải có sự thay đổi tư duy thích hợp với hoàn cảnh, tình hình trong nước và thế giới theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” và theo từng thời điểm khác nhau nhằm phục vụ tối đa lợi ích dân tộc. Có thể thấy, một nguyên tắc nhất quán là Đảng luôn lấy lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc làm yếu tố hàng đầu trong việc hoạch định chính sách đối ngoại, lợi ích quốc gia là tối thượng và phải được đặt lên trên hết tất cả các nhóm lợi ích riêng biệt, bên cạnh đó kết hợp hài ḥa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế, với lợi ích chính đáng của các đối tác, từ đó t́m mẫu số chung để hợp tác tốt nhất. Đó chính là điểm mấu chốt trong quá tŕnh đổi mới tư duy đối ngoại từ 1986 đến nay. Đưa đến lợi ích quốc gia của chúng ta hiện nay là xây dựng dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội. - 11 -
- 2. Sự chuyển biến từ cặp phạm trù hợp tác/đấu tranh đến cặp phạm trù đối tác/đối tượng Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước những thách thức và thời cơ mới. Công cuộc đổi mới và phát triển đất nước đã bước sang một giai đoạn mới sau khi đã khắc phục được đình đốn sản xuất và thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Từ chỗ tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển (Đại Hội VII 1992)” đến Đại Hội IX (1998) thì tuyên bố đó đã được đẩy lên tầm cao mới khi ta khẳng định “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”2. Phát triển thêm một bước trong việc mở rộng quan hệ, tranh thủ thêm bạn bè, Hội nghị Trung ương VIII (8/2003) nêu ra nhận thức mới về đối tượng và đối tác. Trên thực tế, cụm từ “đối tượng” đã xuất hiện trong các văn kiện Đảng từ năm 1992, và thuật ngữ “đối tác” cũng đã được đưa vào các văn kiện quốc tế của Việt Nam song chủ yếu trong các văn bản kinh tế từ năm 1996. Ở đây, trong văn kiện Đảng, “đối tác” nhấn mạnh công cụ kinh tế và mục tiêu phát triển. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, có điểm mới so với hai kỳ Đại hội trước đó là đã không còn tồn tại danh sách thứ tự ưu tiên đối với từng đối tượng hay nhóm đối tượng cụ thể nữa. Đây là kết quả của việc đổi mới tư duy về đối tượng và đối tác. Cũng từ Đại hội X, trong quan hệ quốc tế, chúng ta không phân định “thù và bạn” một cách đơn giản, mà nhận định một cách biện chứng và linh hoạt hơn; những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam, thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của Việt Nam. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hoạt động chống phá sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đều là đối tượng đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ hợp tác, trong một số đối tác vẫn có mặt khác biệt mâu thuẫn với lợi ích cần phải đấu tranh. Tuỳ từng đối tượng, từng đối tác và tuỳ hoàn cảnh cụ thể, thời điểm cụ thể mà hợp tác hay đấu tranh, và không thể hợp tác hay đấu tranh một chiều với một đối tác hay đối tượng. 2 Vũ Dương Huân, Về vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1(68), tháng 3-2007, tr.9-19. - 12 -
- Có thể thấy rằng cặp phạm trù đối tác - đối tượng là một dạng biến đổi từ cặp phạm trù hợp tác - đấu tranh, ở mức độ cao hơn và khi nói đối tác - đối tượng, ta thấy rõ phương châm ứng phó với mọi tình huống chính trị và mọi chủ thể tham gia vào quan hệ quốc tế. Từ đó đi đến hội nhập đầy đủ hơn, toàn diện hơn với thế giới, khẳng định hơn nữa vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. 3. Sự thay đổi trong tư duy tập hợp lực lượng Tư duy đối ngoại của Đảng ta được hình thành rõ hơn, được thể hiện hoàn chỉnh hơn tại Đại hội VII của Đảng. Đến Đại hội VII, vấn đề hội nhập được Đảng cụ thể hóa bằng chủ trương “đa dạng hóa, đa phương hóa” quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tế của Việt Nam là với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị, trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Quan hệ với các nước bao gồm nhiều hình thức: quan hệ đối ngoại về đảng, quan hệ ngoại giao nhà nước, quan hệ giữa các tổ chức, các đoàn thể chính trị, các hội…, cả song phương và đa phương. Đặc biệt, tại Đại hội VII, Đảng khẳng định trở lại tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”3, coi đó là tư tưởng chỉ đạo đối ngoại Việt Nam. Đại hội chỉ rõ: Việt Nam là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển. Đường lối đối ngoại của Đảng ta trong quan hệ với các nước được khẳng định rõ là: “Giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”.4 Với chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa trong mở cửa, Việt Nam đã hội nhập đầy đủ hơn, toàn diện hơn với thế giới. Nhân dân yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ hiểu rõ hơn đất nước, con người và những đóng góp của Việt Nam cho tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. 3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr220. 4 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.88. - 13 -
- Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã bổ sung và phát triển chiến lược đối ngoại mới. Tư duy chính trị của Đảng thể hiện rõ nét nhất ở chỗ Đảng thấy rõ vị trí của công tác đối ngoại trong tổng thể chiến lược phát triển đất nước. Đường lối đối ngoại phải góp phần giải quyết 3 vấn đề lớn: một là, củng cố, giữ vững môi trường hòa bình; hai là, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần trực tiếp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; và ba là, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ. Trong bối cảnh trật tự thế giới đã có sự thay đổi căn bản trong tương quan lực lượng, Mỹ đang nổi lên như một siêu cường duy nhất đang thực thi một chính sách hiếu chiến, ngạo mạn, áp đặt đồi với các quan hệ quốc tế, vấn đề giữ vững môi trường hòa bình để phát triển là một quyết sách đúng đắn. Không có hòa bình, không có ổn định thì không thể khắc phục những nguy cơ mà chúng ta phải đương đầu. Tư duy đối ngoại của Đảng được phát triển và hoàn thiện hơn ở Đại hội IX. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế sau sự kiện 11-9, trước việc chính quyền Mỹ công bố chiến lược “đánh đòn phủ đầu” đối với các nước mà Mỹ cho rằng đe dọa đến an ninh của nước Mỹ, Đảng ta đã đề ra những chủ trương mới trong quan hệ với các nước. Trên cơ sở kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng đã chỉ rõ hướng ưu tiên trong quan hệ với các nước theo trật tự: coi trọng quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng; tiếp tục mở rộng hợp tác với các bạn bè truyền thống, các nước đang phát triển trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập các tổ chức khu vực ASEAN, APEC, WTO... trên quan điểm bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Giữ vững độc lập tự chủ là vấn đề có tính nguyên tắc. Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế hiện đại cần phải chủ động hội nhập, đi tắt đón đầu để phát triển. Tư duy về chủ động hội nhập được Đảng nêu cụ thể: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng - 14 -
- hợp để phát triển đất nước”. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đổi mới là hai nét mới thể hiện sự phát triển trong tư duy đối ngoại của Đảng trong những năm qua. - 15 -
- KẾT LUẬN Quá trình chuyển biến của xu thế vận động của thế giới và quá trình toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc và trực tiếp đến sự đổi mới trong tư duy lý luận của Đảng, đặc biệt là trên lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Đảng luôn lấy lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc làm yếu tố hàng đầu trong việc hoạch định chính sách đối ngoại, lợi ích quốc gia là tối thượng và phải được đặt lên trên hết tất cả các nhóm lợi ích riêng biệt, bên cạnh đó kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế, với lợi ích chính đáng của các đối tác, từ đó tìm mẫu số chung để hợp tác tốt nhất. Đó chính là điểm mấu chốt trong quá trình đổi mới tư duy đối ngoại từ 1986 đến nay. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay đã trải qua hơn 20 năm. Thành tựu trong giai đoạn đổi mới là vô cùng to lớn và có ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Thực tiễn phát triển đất nước và những bài học kinh nghiệm tổng kết cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng ta, trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo, chứng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng ta là phù hợp với hoàn cảnh thực tế Việt Nam. Nhận thấy, vấn đề và nội dung đề tài đưa ra là phức tạp và rộng lớn, thời gian chuẩn bị không dài, trình độ của bản thân lại có hạn. Bởi vậy, dù em đã hết sức cố gắng song bài viết chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em mong thầy góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em cảm ơn thầy ạ! - 16 -
- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS. Vũ Dương Huân, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975 – 2002), Học viện quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2002. 2. Ths. Vũ Đoàn Kết, Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II (1975-2006), Học viện quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2007. 3. Quá trình đổi mới tư duy ly luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 4. http://www.cpv.org.vn 5. http://vi.wikipedia.org - 17 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam”
18 p | 3957 | 914
-
TIỂU LUẬN - CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ TỔ TRƯỞNG CHUYÊN MÔN CỦA HIỆU TRƯỞNG TRONG CÁC TRƯỜNG THPT TỈNH QUẢNG TRỊ
54 p | 726 | 277
-
Tiểu luận chủ nghĩa khoa học xã hội - Sứ mệnh giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay
20 p | 932 | 224
-
Tiểu luận: Chiến lược chuỗi cung ứng toàn cầu của Dell
33 p | 837 | 121
-
Tiểu luận Triết học: Triết học Mác – Lênin
17 p | 1317 | 119
-
Tiểu luận công nghệ lọc dầu " tìm hiểu công nghệ izome hóa "
16 p | 314 | 109
-
Tiểu luận: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân nghèo ở ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam.
19 p | 143 | 41
-
Tiểu luận: Sự chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang Chủ nghĩa Cộng sản trong nhận thức tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
20 p | 294 | 32
-
TIỂU LUẬN: Những đúc kết và thu hoạch về nhận thức lý luận thực tiễn công tác thông tin tư liệu tại trung tâm thông tin thương mại
31 p | 122 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang từ năm 1986 đến năm 2010
242 p | 112 | 19
-
Luận án tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu nâng cao chất lượng điều khiển phản hồi đầu ra cho quá trình đa biến buồng sấy giấy
152 p | 40 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế, xã hội phường Cam Giá thành phố Thái Nguyên (1986 - 2016)
97 p | 33 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế địa phương – nghiên cứu trường hợp tỉnh Bình Dương
88 p | 34 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật vật liệu: Nghiên cứu ứng dụng chuyển biến mactenxit trong hệ hợp kim đồng nhôm
131 p | 41 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Sử học: Chuyển biến kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Nông từ năm 2004 đến năm 2015
205 p | 24 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam: Quá trình chuyển biến kinh tế – xã hội thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước từ năm 1999 đến năm 2018
127 p | 10 | 6
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu chuyển hóa sinh khối của Việt Nam thành dầu sinh học bằng quá trình nhiệt phân nhanh và Hydrodeoxy hóa (HDO) trên cơ sở xúc tác Molybden
28 p | 69 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn