intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

465
lượt xem
75
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung phân tích và luận chứng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Cụ thể là: 1/ Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội; 2/ Để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ; 3/ Thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG

  1. TIỂU LUẬN: QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG
  2. Bài viết tập trung phân tích và luận chứng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Cụ thể là: 1/ Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội; 2/ Để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ; 3/ Thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; 4/ Bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội nhằm phát triển con người, phát huy nhân tố con người; 5/ Phát huy vai trò của nhà nước và đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động xã hội. Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế học, phản ánh sự gia tăng về mặt lượng của một nền kinh tế. Nó được đo bằng nhiều chỉ số khác nhau, như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay thu nhập bình quân đầu người trên năm (GNP/người/năm, GDP/người/năm). Tốc độ tăng trưởng kinh tế là mức (%) được tăng thêm của sản lượng GNP, GDP, GNP/người hay GDP/người của năm này so với năm trước hay giai đoạn này so với giai đoạn trước. Với nghĩa như vậy, tăng trưởng kinh tế là mục tiêu theo đuổi của mọi quốc gia, mọi nền kinh tế trước yêu cầu tồn tại và phát triển.
  3. Công bằng xã hội là khái niệm có nội dung phức tạp hơn so với khái niệm tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội, hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Từng thành viên trong xã hội gắn bó với cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua sự cống hiến theo khả năng trí tuệ, sức lực của mình cho sự phát triển xã hội và được xã hội bù đắp, chăm sóc trở lại một cách tương xứng, không có sự tương xứng ấy là bất công. Với cách hiểu công bằng xã hội như vậy, việc định lượng mức độ thực hiện công bằng xã hội chỉ mang tính tương đối, nó không những phản ánh trình độ phát triển về kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hóa của từng nước, mà còn thể hiện quan điểm, cách nhìn của các nhóm chủ thể. Ngày nay, trên thế giới, người ta nhìn nhận và đánh giá mức độ thực hiện công bằng xã hội trước hết qua các chỉ số thu nhập. Ngoài ra, các chỉ số thể hiện mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, như mức tối thiểu về dinh dưỡng, sức khỏe, mức sống, nhà ở và các điều kiện khác đảm bảo sự phát triển của cá nhân cũng là những yếu tố quan trọng. Gần đây, Liên hợp quốc đưa ra chỉ số phát triển con người (HDI) và được sử dụng khá phổ biến để đánh giá sự phát triển của một đất nước. Chỉ số này được tính toán theo 3 tiêu chí có tính bao quát, thể hiện được những yếu tố quan trọng nhất trong phát triển con người, đó là tuổi thọ, trí tuệ và mức sống. Những chỉ số đó cho thấy, công bằng xã hội không chỉ phản ánh các quan hệ chính trị - xã hội và mức độ nhân văn của xã hội, mà còn phần nào phản ánh cả xu hướng ổn định, bền vững của một nền kinh tế cũng như trật tự xã hội. Đây là vấn đề cần được tính đến trên con đường phát triển của các quốc gia. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những cái đích cần hướng tới của các quốc gia hiện nay. Tuy nhiên, việc nhìn nhận mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở những quốc gia khác nhau là không giống nhau; vì vậy, cách giải quyết vấn đề cũng đi theo những xu hướng khác nhau. Có quan điểm cho rằng, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quyết định sự sống còn của một đất nước; vì vậy, cần tập trung cho tăng trưởng kinh tế. Với quan niệm như vậy, nhiều quốc gia đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao, song lại phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sự phát triển của Trung Quốc trong
  4. những năm vừa qua đã đi theo mô hình này. Nhờ quyết tâm đổi mới và chính sách ưu tiên tập trung phát triển kinh tế, trong hơn hai mươi năm cải cách, mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã đạt mức tăng trưởng cao, xếp vào hàng các nước có mức tăng trưởng đứng đầu thế giới. Song, rất nhiều vấn đề vốn được coi là hậu quả xã hội do tập trung quá mức cho tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc đang được đặt ra, như ưu tiên quá mức cho tăng trưởng GDP, xem nhẹ sự phù hợp giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, phần lớn nhân dân ít được hưởng lợi từ sự tăng trưởng kinh tế; sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các nhóm xã hội, giữa các vùng, miền ngày càng tăng; môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng do tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức... Nhận định về tình hình này, ông Chi Fu lin - Chủ tịch Viện Nghiên cứu và phát triển Trung Quốc cho rằng, thách thức lớn nhất mà Trung Quốc phải đối mặt hiện nay là sự mất cân đối ngày càng tăng trong phát triển kinh tế và phát triển xã hội, là nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn và khủng hoảng xã hội đang cản trở sự phát triển của Trung Quốc(1). Hiện nay, Trung Quốc đang cố gắng đổi mới phương thức phát triển kinh tế theo chiều hướng kết hợp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Từ thực tế phát triển ở nhiều nước, chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã đưa ra lời cảnh báo về 5 kiểu tăng trưởng kinh tế cần phải tránh. Đó là: 1. Tăng trưởng không việc làm – kiểu tăng trưởng kinh tế nhưng không mở rộng những cơ hội tạo thêm việc làm, hoặc phải làm việc nhiều giờ và có thu nhập thấp. 2. Tăng trưởng không lương tâm – kiểu tăng trưởng mà thành quả của nó chủ yếu đem lại lợi ích cho người giàu, còn người nghèo được hưởng ít, thậm chí số người nghèo còn tăng thêm, khoảng cách giàu nghèo gia tăng. 3. Tăng trưởng không có tiếng nói – kiểu tăng trưởng kinh tế không kèm theo sự mở rộng nền dân chủ hay là việc tạo thêm quyền lực, chặn đứng tiếng nói khác và dập tắt những đòi hỏi được tham dự nhiều hơn về xã hội và kinh tế. 4. Tăng trưởng không gốc rễ – kiểu tăng trưởng khiến cho nền văn hóa của con người trở nên khô héo. 5. Tăng trưởng không tương lai – kiểu tăng trưởng mà thế hệ hiện nay đã phung phí những nguồn lực mà các thế hệ tương lai cần đến(2). Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng, công bằng xã hội là ước mơ của con người ở
  5. mọi thời đại; vì vậy, cần đạt tới một xã hội công bằng càng nhanh càng tốt. Do nôn nóng muốn có ngay một xã hội không còn áp bức, bất công, mọi người được sống tự do và bình đẳng, một số nước đã bất chấp quy luật phát triển kinh tế - xã hội, không căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể và nhanh chóng tiến hành công hữu hóa toàn bộ tư liệu sản xuất, thực hiện phân phối bình quân, cào bằng. Quan niệm về công bằng xã hội một cách cực đoan như vậy đã tạo thành lực cản đối với tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế của các nước theo mô hình này rơi vào khủng hoảng. Thực tế này đã buộc các nước đó phải thay đổi cách nhìn trước đây của mình về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội theo chiều hướng khác. Ở nước ta, trong những năm đổi mới, đường lối của Đảng cũng như chính sách của Nhà nước đã thể hiện quan điểm mới, sâu sắc và toàn diện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Điều này được phản ánh một cách nhất quán trong các văn kiện lớn của Đảng và trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong suốt thời kỳ đổi mới. Một số văn kiện lớn của Đảng, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VII (6-1993) về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994) về công nghiệp hóa, hiện đại hóa... khẳng định lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; động viên toàn dân cần, kiệm để xây dựng đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân; phát huy văn hóa, giáo dục; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường… Đại hội VIII của Đảng đánh dấu bước phát triển mới trong chỉ đạo về vấn đề này.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình"(3). Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII, Đảng ta nhấn mạnh rằng, phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa nông thôn với nông thôn, giữa thành thị với thành thị, giữa các tầng lớp xã hội. Đường lối đúng đắn đó tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Đại
  6. hội lần thứ IX: "… phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường"(4). Đến Đại hội lần thứ X, vấn đề trên được Đảng ta bổ sung và phát triển một bước quan trọng, cụ thể là: "Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc"(5). Tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 5 năm 2006 - 2010 là: "Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng"(6). Tựu trung lại, có thể khái quát quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề này trên một số điểm cơ bản sau: Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không phải là nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế . Tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề xã hội. Không thể có công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội mà con người ốm yếu về thể chất, trình độ dân trí thấp và một bộ phận đáng kể lực lượng lao động chưa được đào tạo, thất nghiệp, nghèo đói. Ngay cả trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội cũng luôn là một đòi hỏi khách quan, tất yếu. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, lực lượng sản xuất thấp kém, không đồng đều, cơ cấu dân số đông, việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội ở nước ta phải tính đến mục tiêu phát triển kinh tế. Để công bằng xã hội có nội
  7. dung thực chất và tạo động lực phát triển kinh tế, cần dứt khoát từ bỏ phương thức phân phối bình quân, cào bằng, bao cấp; khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước; xoá bỏ lối quản lý xin - cho... Chẳng hạn, trong chiến lược xóa đói giảm nghèo ở nước ta, một mặt, cần tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội trong các chương trình xóa đói giảm nghèo; mặt khác, cần tăng cường các hoạt động giám sát, định hướng, tổ chức giúp người dân thoát nghèo một cách vững chắc theo kiểu "dạy người dân cách tự câu lấy cá cho mình". Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ. C.Mác đã chỉ rõ, công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Điều này có nghĩa là những người khác nhau nhưng cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ như nhau. Nói cách khác, xã hội đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau. Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định dựa trên những cống hiến của họ đối với xã hội. Công bằng xã hội cần được hiểu như vậy để tránh lặp lại lối phân phối bình quân chủ nghĩa mà thực chất là cào bằng, không công bằng đã xuất hiện ở nước ta thời kỳ trước đổi mới. Cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề công bằng xã hội như vậy nhằm khuyến khích mọi người đóng góp nhiều hơn cho xã hội, tức là tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Mặt khác, những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh tế, như những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục,... cũng cần và phải tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động được hưởng lợi ích tương xứng, Nhiều người đã đóng góp sức lực, trí tuệ và hy sinh xương máu trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong khi thi hành nhiệm vụ xã hội cũng phải được xã hội bù đắp một cách thoả đáng. Giải quyết vấn đề này không chỉ dừng ở mức độ đạo lý, mà nó phải mang tính pháp lý, được xã hội thừa nhận. Ngoài ra, Đảng ta cũng chủ trương rằng, để có công bằng xã hội, cần thiết lập và bảo đảm sự công bằng trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội, như nguồn vốn, tài
  8. nguyên, thông tin, kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế cũng như các cơ hội tìm kiếm thị trường và việc làm... Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã cụ thể hóa tinh thần này trên từng lĩnh vực. Về kinh tế, Đảng ta chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu theo luật pháp, tạo cơ hội để các hộ nghèo thoát đói nghèo một cách bền vững, khắc phục tình trạng bao cấp, tư tưởng ỷ lại; tiếp tục cải cách chính sách tiền lương. Về mặt y tế, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe, xây dựng và hoàn thiện các chính sách trợ cấp, bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong khám chữa bệnh, chú trọng triển khai các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng các dịch vụ y tế ngoài công lập... Về giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng... Trên từng lĩnh vực, các địa phương phải chủ động đề ra và thực hiện những bước đi, mục tiêu và các giải pháp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng vùng, miền. Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người. Con người không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực để phát triển xã hội mới. Xây dựng xã hội mới chính là để phát triển con người toàn diện; ngược lại, trong số các nguồn lực để xây dựng xã hội mới, con người là vốn quý nhất. Trong thời đại ngày nay, muốn tăng trưởng kinh tế phải quan tâm giải quyết vấn đề công bằng xã hội, tạo điều kiện cho con người có thể phát huy mọi năng lực và hưởng thụ xứng đáng những thành quả của chính mình. Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta nhấn mạnh việc thực hiện chỉ tiêu GDP phải gắn với chỉ tiêu HDI trong suốt quá trình phát triển và trong từng chính sách xã hội. Như vậy, có thể nói, tăng cường đầu tư cho con người là cơ sở để thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội một cách có hiệu quả, thiết thực. Thứ năm, phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động xã hội
  9. là nhân tố cơ bản đảm bảo kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Công bằng xã hội là vấn đề của quan hệ lợi ích, lấy tăng trưởng kinh tế làm tiền đề, nhưng không phải là hệ quả trực tiếp của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tác động đến việc phân phối lợi ích thông qua những khâu trung gian; trong đó, trước hết phải kể đến cơ chế kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước. Thị trường chỉ góp phần thực hiện công bằng xã hội theo cách thức riêng của nó, cụ thể là bằng cách phân phối lợi nhuận theo quy luật của thị trường. Theo đó, người có đóng góp nhiều thì hưởng lợi nhiều, giỏi thắng kém thua và nhờ vậy, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm nhất quán của Đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, việc phân phối thu nhập được thực hiện không chỉ theo lao động, mà còn theo mức độ đóng góp các nguồn lực khác, như vốn, tài sản, đất đai vào tăng trưởng kinh tế, trong đó phân phối thu nhập theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu, và như thế được coi là công bằng. Tuy vậy, đối với một thị trường chưa hoàn hảo, còn có độc quyền, có cạnh tranh bất bình đẳng thì nguyên tắc phân phối của thị trường cũng chưa phải đã là công bằng. Ngoài ra, hiện nay, ở nước ta, còn nhiều đối tượng có những khiếm khuyết về sức khỏe, năng lực, trí tuệ, còn nhiều khu vực dân cư các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa kinh tế hàng hóa chưa phát triển… mà sự phân phối của thị trường không đến được. Trong điều kiện như vậy, sự điều tiết của “bàn tay hữu hình” - Nhà nước là sự can thiệp cần thiết, bảo đảm cho tất cả mọi người đều được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến của họ cho xã hội trên nhiều lĩnh vực mà thị trường không làm được. Vì vậy, tăng cường vai trò của nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là xu hướng tất yếu, là một biện pháp đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ đạo tích cực đẩy mạnh xã hội hóa trong giáo dục, y tế và các dịch vụ công cộng khác với phương châm không bao cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận. Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu tổng quát. Không nghi ngờ gì nữa, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những tiêu chí cơ bản nhất cần phải đạt tới. Thực tế cho thấy, tăng trưởng kinh tế có thể tạo cơ sở để thực hiện công bằng xã hội và ngược lại, nó cũng có thể làm cho công bằng xã
  10. hội bị vi phạm nghiêm trọng hơn, vì vậy nó cũng ảnh hưởng tới các vấn đề khác của xã hội. Cũng như vậy, việc thực hiện công bằng xã hội không chỉ thể hiện tính nhân văn của xã hội, mà còn có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Quan hệ giữa chúng không phải là đồng thuận và có tính tự phát. Hiệu quả của mối quan hệ này ở nước ta hiện nay được phát huy đến đâu - điều đó không chỉ phụ thuộc vào tính tất yếu khách quan của nền kinh tế, mà còn phụ thuộc vào quan điểm chỉ đạo của Đảng và mức độ hiện thực hóa các quan điểm đó trong thực tiễn cuộc sống.r (*) Tiến sĩ, Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. (1) Xem: Hoàng Thị Thành. Trung Quốc thực hiện kết hợp công bằng xã hội với tăng trưởng kinh tế. Tạp chí Lý luận chính trị , số 10, 2005, tr.62-66. (2) Theo: www.cpv.org.vn/diendanthaoluan, ngày 5 – 5 - 2005. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.113. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88 - 89. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.101. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Sđd., tr.178 -179. VỀ MỘT SỐ NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN KHOA HỌC TRONG “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” TRẦN NGỌC LINH (*) Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong Hệ tư tưởng Đức là hệ quả trực tiếp của chủ nghĩa duy vật lịch sử do hai ông phát hiện và xây dựng. Trong tác phẩm này, ngoài việc khẳng định vai trò quyết định của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội, chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lực
  11. lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen còn luận chứng về tính tất yếu, triệt để của cách mạng vô sản; về vai trò và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản; đồng thời, luận giải về vấn đề xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân,… Ngoài các nguyên lý cơ bản trên, Hệ tư tưởng Đức còn đề cập tới một số nguyên lý khác trong học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học, như vấn đề giải phóng con người, phát triển con người toàn diện, những đặc trưng của xã hội cộng sản chủ nghĩa… Hơn 160 năm đã trôi qua kể từ khi C.Mác và Ph.Ăngghen cùng viết Hệ tư tưởng Đức, cùng đặt những nguyên lý khởi đầu xây dựng nên nền tảng cho một học thuyết vĩ đại, ngọn đuốc soi đường, kim chỉ nam định hướng cho toàn thể nhân loại tiến tới tương lai. Hệ tư tưởng Đức ra đời nhằm mục đích chuẩn bị cơ sở lý luận, thế giới quan, phương pháp luận mới để tiếp thu một học thuyết kinh tế mới, như C.Mác đã viết về trình tự xuất bản những tác phẩm dự kiến của mình trong thời gian đó: “… điều cực kỳ quan trọng là phải đưa ra trước một tác phẩm luận chiến trước khi có sự trình bày chính diện của tôi về đề tài ấy, tác phẩm luận chiến ấy là nhằm chống lại triết học Đức và chống lại chủ nghĩa xã hội Đức đã ra đời trong thời gian đó. Điều đó là cần thiết để chuẩn bị cho công chúng tiếp cận quan điểm của tôi trong lĩnh vực chính trị kinh tế học, quan điểm ấy trực tiếp đối lập mình với khoa học Đức từng tồn tại trước đó”(1). Thế giới quan và phương pháp luận mới được trình bày trong Hệ tư tưởng Đức là quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử. Trong Hệ tư tưởng Đức, thế giới quan mới được đề xuất dưới hình thức phê phán những quan điểm triết học của phái Hêghen trẻ. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để thay đổi hiện thực đang tồn tại? Phái Hêghen trẻ phê phán bằng lời nói cái hiện tồn, tiến hành sự phê phán đó một cách gián tiếp, dưới hình thức phê phán tôn giáo. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định rằng, đó là cuộc đấu tranh không phải với bản thân hiện thực, mà chỉ là cuộc đấu tranh với những cái bóng của hiện thực. Đồng thời, hai ông cũng chứng minh rằng, chỉ phê phán không thôi thì chưa đủ, mà còn cần phải giải thích một cách đúng đắn thế giới và quan trọng hơn hết là phải làm biến đổi thế giới, cải tạo thế giới. Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển một cách đầy đủ, toàn
  12. diện luận điểm về vai trò quyết định của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội; đồng thời, chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (“quan hệ giao tiếp”), trong đó các lực lượng sản xuất quyết định loại hình quan hệ xã hội, hình thức giao tiếp. Tới một giai đoạn nhất định trong sự phát triển của chúng, các lực lượng sản xuất sẽ mâu thuẫn với quan hệ giao tiếp hiện tồn. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng xã hội để xoá bỏ quan hệ giao tiếp cũ không còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện để hình thành một quan hệ giao tiếp mới, phù hợp và thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Theo các ông, sự phát triển của xã hội loài người có nguyên nhân sâu xa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ giao tiếp, “tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp”(2). Chính do nguyên nhân này, trong toàn bộ sự phát triển lịch sử loài người đã hình thành mối liên hệ kế thừa giữa các giai đoạn kế tiếp nhau. Các cuộc cách mạng xã hội, với tính cách là biện pháp tất yếu để giải quyết mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tạo nên những bước chuyển từ một hình thái kinh tế – xã hội này sang một hình thái kinh tế – xã hội khác, cao hơn. Thực chất của quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử (chủ nghĩa duy vật lịch sử), như C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, là “… phải xuất phát từ chính ngay sự sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của sản xuất và hiểu hình thức giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy sản sinh ra – tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của nó – là cơ sở của toàn bộ lịch sử; rồi sau đó phải miêu tả hoạt động của xã hội công dân trong lĩnh vực sinh hoạt nhà nước, cũng như xuất phát từ xã hội công dân mà giải thích toàn bộ những sản phẩm lý luận khác nhau và mọi hình thái ý thức, tôn giáo, triết học, đạo đức, v.v..” và “khác với quan niệm duy tâm về lịch sử, quan niệm đó về lịch sử không đi tìm một phạm trù nào đó trong mỗi thời đại, mà nó luôn luôn đứng trên miếng đất hiện thực của lịch sử; nó không căn cứ vào tư tưởng để giải thích thực tiễn, nó giải thích sự hình thành của tư tưởng căn cứ vào thực tiễn vật chất, và do đó, nó đi tới kết luận rằng không thể đập tan được mọi hình thái và sản phẩm của ý thức bằng sự phê phán tinh thần…, mà chỉ bằng việc lật đổ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện
  13. thực đã sản sinh ra tất cả những điều nhảm nhí duy tâm đó; rằng không phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận khác”(3). Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong Hệ tư tưởng Đức chính là hệ quả trực tiếp của chủ nghĩa duy vật lịch sử do hai ông phát hiện và dầy công xây dựng. 1. Về tính tất yếu và tính triệt để của cách mạng vô sản; về vai trò và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản. Khi nói về tính tất yếu của cách mạng vô sản, trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra tác động của mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; đồng thời, cho rằng cách mạng vô sản, cũng như bất kỳ một cuộc cách mạng xã hội nào khác, là phương thức tốt nhất để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen còn nhấn mạnh: cách mạng vô sản “là tất yếu không những vì không thể lật đổ giai cấpthống trị bằng một phương thức nào khác mà còn vì chỉ có trong cách mạng giai cấp đi lật đổ giai cấp khác mới có thể quét sạch mọi sự thối nát của chế độ cũ đang bám chặt theo mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội”(4). Hơn nữa, tính tất yếu của cách mạng vô sản còn biểu hiện ở chỗ, nó luôn gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Các ông viết: “Những hình thức trước kia của những cuộc khởi nghĩa của công nhân đều gắn liền với trình độ phát triển mà lao động đã đạt được trong mỗi trường hợp và với hình thức của chế độ sở hữu do đó mà ra; còn những cuộc khởi nghĩa cộng sản chủ nghĩa dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thì đều gắn liền với nền đại công nghiệp”(5). Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, khác với tất cả các cuộc cách mạng xã hội khác đã từng xảy ra trong lịch sử loài người, cuộc cách mạng vô sản do giai cấp vô sản lãnh đạo là cuộc cách mạng triệt để nhất. Vì: Thứ nhất, trước khi cuộc cách mạng vô sản nổ ra, gắn liền với một giai đoạn trong quá trình phát triển của những lực lượng sản xuất, “trong đó xuất hiện những lực lượng sản xuất và những phương tiện giao tiếp chỉ có thể gây tác hại trong khuôn khổ những quan hệ hiện có”, đã xuất hiện giai cấp vô sản, “một giai cấp buộc phải chịu đựng tất cả gánh nặng của xã hội mà không được hưởng những phúc lợi của xã
  14. hội…, một giai cấp do đa số thành viên của xã hội hợp thành và là giai cấp sản sinh ra ý thức về tính tất yếu của một cuộc cách mạng triệt để, ý thức cộng sản chủ nghĩa”(6). Sự ra đời và phát triển của giai cấp vô sản gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp. Nói cách khác, nền đại công nghiệp này đã tạo ra giai cấp vô sản – “một giai cấp cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc,… một giai cấp thực sự đoạn tuyệt với toàn bộ thế giới cũ và đồng thời đối lập với thế giới cũ”(7). Giai cấp đó có sứ mệnh và nhiệm vụ hiện thực là cách mạng hoá những quan hệ đang tồn tại, giải phóng những cá nhân của tất cả các giai cấp khỏi những xiềng xích đã trói buộc họ. Sự mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là sứ mệnh có tính toàn thế giới; bởi vì, “… giai cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của lịch sử thế giới, cũng như chủ nghĩa cộng sản, tức là hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại được với tư cách là một tồn tại “có tính lịch sử thế giới”…”(8). Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, khác với chủ thể của các cuộc cách mạng xã hội trước – những người chưa có ý thức tự giác về cuộc cách mạng mà mình tiến hành và chỉ tiến hành cách mạng một cách tự phát,… giai cấp vô sản - chủ thể của cuộc cách mạng vô sản, do hoàn cảnh lịch sử ra đời và bản chất cách mạng của nó, hoàn toàn có thể nhận thức được tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội, và trong thực tế, cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, giai cấp vô sản có đủ điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần để tiến hành một cách triệt để cuộc cách mạng ấy. Vì thế, cuộc cách mạng vô sản mà giai cấp vô sản tiến hành là một hiện thực, một tồn tại có tính lịch sử toàn thế giới. Thứ hai, tính chất triệt để của cách mạng vô sản còn được biểu hiện ở nội dung và mục đích của cuộc cách mạng đó. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Trong hết thảy các cuộc cách mạng trước đây, tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn giữ nguyên như cũ, - và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là một sự phân phối lao động mới cho những người khác; trái lại, cách mạng cộng sản chủ nghĩa là nhằm chống lại tính chất hoạt động trước đây, nó xoá bỏ lao động và thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp…”(9). Cách mạng vô sản sẽ dẫn đến sự thiết lập chế độ cộng sản chủ nghĩa, chế độ xã hội mới này dựa trên cơ sở “lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ phổ biến” và phù
  15. hợp với trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức độ phổ biến này là “hình thức giao tiếp” cũng đã phát triển đến mức độ phổ biến. Thứ ba, chính sự biến đổi căn bản, biến đổi về chất của mối quan hệ giữa con người với lao động, với sản phẩm của lao động do cách mạng vô sản tạo nên cũng nói lên tính triệt để của cuộc cách mạng này. Trong xã hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, cùng với việc hình thành sự phân công lao động xã hội, hành động của bản thân con người, trong đó có hoạt động lao động sản xuất, cũng như kết quả của hành động ấy “trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người, và nô dịch con người”(10). Với tính cách kết quả của cuộc cách mạng vô sản, sự hình thành chủ nghĩa cộng sản đã làm đảo lộn cơ sở của mọi quan hệ sản xuất và giao tiếp trước kia, chế độ sở hữu tư nhân bị xoá bỏ, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được thiết lập. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, cùng với việc xoá bỏ sở hữu tư nhân và việc thiết lập sự điều tiết cộng sản chủ nghĩa đối với sản xuất đã khiến cho con người không còn cảm thấy xa lạ trước sản phẩm của bản thân mình, đồng thời chế ngự được sự trao đổi, sản xuất và phương thức quan hệ lẫn nhau. Thứ tư, tuy chưa được phân tích một cách đầy đủ, song những đặc trưng của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa (sự thống trị của giai cấp vô sản; xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; sự phát triển tự do, toàn diện của cá nhân, v.v.) mà C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra trong tác phẩm này cũng chứng tỏ tính triệt để của cách mạng vô sản so với tất cả các cuộc cách mạng trước đó. Đặc trưng đầu tiên của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa là sự thống trị của giai cấp vô sản. Sự thống trị của giai cấp vô sản hoàn toàn khác với sự thống trị của các giai cấp thống trị, bóc lột trước đó. Sự thống trị của các giai cấp bóc lột trong các xã hội cũ gắn chặt với chế độ sở hữu tư nhân và do đó, mặc dù có thể biểu hiện dưới những hình thức khác nhau, song về bản chất, nó là sự thống trị của giai cấp chiếm hữu tư liệu sản xuất của xã hội và tước đoạt lao động của những người không có tư liệu sản xuất. Sự thống trị dựa trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và gắn chặt với chế độ sở hữu này tạo nên sự “tha hoá” trong xã hội, làm nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt và dẫn đến sự khủng hoảng xã hội – tình trạng mà chỉ có thể được giải quyết thông qua cách mạng xã hội. Trái lại, sau khi giành được chính quyền, giai
  16. cấp vô sản sử dụng quyền thống trị của mình để “thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung”; lúc đó, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sự “tha hoá” trong xã hội cũng bị xoá bỏ. 2. Về vấn đề xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân. Khi phân tích vấn đề xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân - nhiệm vụ mà C.Mác và Ph.Ăngghen coi là một trong những mục tiêu cao nhất của cách mạng vô sản, của công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, hai ông đã đưa ra những luận điểm quan trọng có tính nguyên lý, quy luật về sở hữu tư nhân và những điều kiện cần thiết để xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trước hết, trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, sở hữu tư nhân là kết quả tất yếu của sự phát triển nền sản xuất xã hội, gắn liền với sự phân công lao động xã hội. Cùng với “sự tăng thêm năng suất, sự tăng thêm nhu cầu và nhờ sự tăng thêm dân số, cơ sở của sự tăng thêm năng suất và sự tăng thêm nhu cầu”(11) – những yếu tố cơ bản của trình độ phát triển lực lượng sản xuất – phân công lao động cũng phát triển. “Sự phân công lao động mang lại khả năng, hơn thế nữa, mang lại cái hiện thực là hoạt động tinh thần và hoạt động vật chất, hưởng thụ và lao động, sản xuất và tiêu dùng, được phân công cho những cá nhân khác nhau”(12). Theo các ông, “Sự phân công lao động ấy… đồng thời cũng bao hàm sự phân phối lao động và sản phẩm của lao động; một sự phân phối thật ra là không đồng đều cả về mặt số lượng lẫn chất lượng; vì vậy nó cũng bao hàm sở hữu”(13); do đó, sự phân công lao động và sở hữu tư nhân là những từ ngữ đồng nghĩa, những hình thức tồn tại hiện thực của sở hữu tư nhân là những quan hệ xã hội thích ứng với một giai đoạn nhất định của sản xuất(14). Dưới chủ nghĩa tư bản, sự phân công lao động và sở hữu tư nhân đã dẫn đến “sự tha hoá” cá tính chẳng những của con người mà cả của vật nữa. Đến một lúc nào đó, chúng sẽ biến thành xiềng xích trói buộc những lực lượng sản xuất hiện có. Do vậy, phải xoá bỏ sở hữu tư nhân, xoá bỏ phân công lao động thì mới xoá bỏ được nguồn gốc, nguyên nhân của mọi bất công trong xã hội, mới có thể giải phóng con người – lực lượng sản xuất quan trọng nhất của nền sản xuất xã hội. Xuất phát từ sự phân tích mối quan hệ biện chứng, khăng khít giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự hình thành và phát triển của chế độ sở hữu tư nhân, C.Mác
  17. và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ tính tất yếu của sở hữu tư nhân ở những giai đoạn phát triển công nghiệp nhất định, đồng thời nhấn mạnh rằng, “chỉ với công nghiệp lớn mới có khả năng xoá bỏ được sở hữu tư nhân”(15). Từ đó, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, điều kiện tất yếu để xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là việc chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất. Đến lượt mình, sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất lại được quy định bởi những yếu tố sau: Trước hết, đối tượng cần chiếm hữu chính là “những lực lượng sản xuất đã phát triển thành một tổng thể nhất định và chỉ tồn tại trong khuôn khổ của sự giao tiếp phổ biến”(16). Thứ hai, sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất còn được quy định bởi những cá nhân chiếm hữu. Đó chính là những người vô sản, do điều kiện phân công lao động, đã “hoàn toàn bị tước mất mọi sự tự mình hoạt động, mới có khả năng đạt tới sự tự mình hoạt động đầy đủ, không hạn chế, đó là sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất và do đó, phát triển tổng thể các năng lực”(17). Ở đây, một lần nữa, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản với tính cách người thực hiện và có đủ khả năng thực hiện việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Thứ ba, sự chiếm hữu tổng thể các lực lượng sản xuất còn được quy định bởi phương thức thực hiện sự chiếm hữu. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, đó là thực hiện chiếm hữu bằng sự liên hợp phổ biến, chứ không thể bằng việc chiếm hữu tư nhân. Đây chính là hình thức sở hữu đã đạt tới trình độ xã hội hoá cao, khác hẳn với những sự chiếm hữu trước đó. Trong sự chiếm hữu bằng sự liên hợp phổ biến, “một khối lượng lớn các công cụ sản xuất phải nhất thiết lệ thuộc vào từng cá nhân, còn sở hữu thì phải lệ thuộc vào tất cả mọi cá nhân”(18). Phải chăng, ở đây, C.Mác và Ph.Ăngghen muốn chỉ ra hai mối quan hệ của người chủ sở hữu, người chiếm hữu, đối với công cụ lao động. Mối quan hệ thứ nhất là mối quan hệ giữa quản lý và sử dụng công cụ lao động. Theo đó, một khối lớn các công cụ sản xuất phải lệ thuộc vào từng cá nhân, mà những cá nhân này, cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, đã có sự phát triển tổng thể những năng lực của bản thân, có thể sử dụng và quản lý những công cụ
  18. sản xuất trong phạm vi sở hữu. Trong mối quan hệ sử dụng và quản lý này, các công cụ sản xuất phải lệ thuộc vào từng cá nhân thì mới có thể phát huy được hiệu quả của công cụ sản xuất và cá nhân mới phát huy được hết những năng lực toàn diện của mình. Đồng thời, nếu công cụ sản xuất thuộc quyền quản lý, sử dụng của từng cá nhân thì mới phát huy được trách nhiệm của họ và bảo đảm không xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc” như trước đây. Mối quan hệ thứ hai là mối quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu công cụ sản xuất xã hội nhất thiết phải lệ thuộc vào tất cả mọi cá nhân, là của chung toàn xã hội, bảo đảm cho sự chiếm hữu tư liệu sản xuất có tính chất phổ biến, “phù hợp với những lực lượng sản xuất và với sự giao tiếp”. “Sự giao tiếp phổ biến hiện đại không thể bị lệ thuộc vào từng cá nhân bằng bất cứ cách nào, mà chỉ bằng cách lệ thuộc vào mọi cá nhân”(19), nghĩa là thuộc về toàn xã hội. Chúng ta cũng có thể nhận thấy trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra hai tiền đề thực tiễn để xoá bỏ “sự tha hoá”, xoá bỏ sở hữu tư nhân, từ đó mới có thể xây dựng được chủ nghĩa cộng sản. Tiền đề thứ nhất, như đã phân tích ở phần trên, là những người hoàn toàn không có sở hữu, những người vô sản, chiếm đại đa số trong dân cư, mâu thuẫn sâu sắc với xã hội. Tiền đề thứ hai là sự phát triển mạnh mẽ của những lực lượng sản xuất trong xã hội, mà như C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh, là tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết. Theo hai ông, nếu không có tiền đề này thì chẳng những không có tiền đề thứ nhất – sự hình thành, tồn tại và phát triển của giai cấp vô sản mà xã hội sẽ lâm vào sự nghèo nàn phổ biến, sự thiếu thốn tột độ, con người lại phải đấu tranh lẫn nhau để tranh giành những cái cần thiết, lại rơi vào sự ti tiện, tha hoá trước đây; đồng thời, không thể xác lập được sự giao tiếp phổ biến của loài người, không thể xây dựng được chủ nghĩa cộng sản. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”(20) và như đã phân tích ở trên, chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể trở thành hiện thực, sở hữu tư nhân chỉ thực sự bị xoá bỏ khi có được sự phát triển phổ biến của lực
  19. lượng sản xuất và của sự giao tiếp có tính chất thế giới. Hiện nay, toàn cầu hoá, mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế, đã trở thành một xu thế khách quan, tất yếu của thời đại. Toàn cầu hoá, xét về bản chất, là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới, hay nói như C.Mác, đó là quá trình lịch sử biến thành lịch sử thế giới, quá trình phát triển phổ biến của lực lượng sản xuất và của sự giao tiếp có tính chất thế giới. Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thế giới, bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc của lực lượng sản xuất thông qua các cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và cách mạng thông tin. Tuy nhiên, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong Hệ tư tưởng Đức, lực lượng sản xuất và các hình thức giao tiếp đã phát triển tới mức dưới sự thống trị của chế độ tư hữu, chúng trở thành lực lượng phá hoại. Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, những nghịch lý của sự phát triển đã xuất hiện ngày càng nhiều, càng sâu sắc hơn. Những mâu thuẫn vốn có của chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ ngày càng sâu sắc hơn, nghiêm trọng hơn trong thời đại toàn cầu hoá. Chúng không thể được giải quyết bằng đấu tranh kinh tế, hoặc đấu tranh xã hội nữa mà phải dùng những biện pháp đấu tranh chính trị, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt là tầng lớp tư bản tài chính, xoá bỏ tận gốc nguyên nhân tạo nên tình trạng đầy nghịch lý của toàn cầu hoá, đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong Hệ tư tưởng Đức cách đây hơn 160 năm: xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa. Lúc đó, chúng ta sẽ có một toàn cầu hoá như mong đợi, một toàn cầu hoá đi cùng với trật tự thế giới mới, công bằng, bền vững; một toàn cầu hoá biến các tiềm lực lợi ích khổng lồ cho nhân loại trở thành hiện thực. Đó chính là chủ nghĩa cộng sản hiện thực. Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen còn đề cập đến một số vấn đề khác có tính nguyên lý trong học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học, như vấn đề giải phóng con người, phát triển con người toàn diện, vấn đề những đặc trưng của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai, v.v.. Theo chúng tôi, những vấn đề đó là hệ quả tất yếu của hai vấn đề đã trình bày ở trên, mà trong phạm vi một bài viết, chúng tôi không thể bàn đến một cách đầy đủ, chi tiết được.r
  20. (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Nghiên cứu kinh điển mácxít. (1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.27. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.651. (2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.107. (3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.54. (4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.100 - 101. (5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.305. (6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.99. (7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.88. (8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.51. TRIẾT HỌC VỚI VIỆC XÁC ĐỊNH BẢN CHẤT CỦA TOÀN CẦU HÓA NGUYỄN DUY QUÝ (*) Triết học đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu không chỉ đối với việc xem xét tác động của toàn cầu hoá đến các mặt đời sống xã hội và con người hiện đại, mà còn đối với cả việc nhận thức và xác định bản chất sâu xa của nó. Từ góc độ triết học, toàn cầu hoá hiện nay được xác định như một quá trình đặc trưng cho một chất lượng mới về tồn tại không gian xã hội của xã hội hiện đại, không đơn tuyến và chứa đựng những mâu thuẫn nan giải, tồn tại cùng với những quá trình đối lập với nó và diễn ra trên nhiều cấp độ quan hệ. Để làm rõ những đặc trưng bản chất đó của toàn cầu hoá hiện nay, tác giả bài viết đã tập trung luận giải những bình diện cơ bản của quá trình toàn cầu hoá mà việc tách biệt chúng cho phép làm sáng tỏ cấu trúc và các mâu thuẫn chủ yếu của nó. Đó là toàn cầu hoá với tư cách công nghệ vĩ mô có tầm quốc tế; toàn cầu hoá quan hệ kinh tế – xã hội; toàn cầu hoá đời sống chính trị – xã hội và tinh thần; sự gia tăng bạo lực toàn cầu, tư bản ngầm xuyên quốc gia, chủ nghĩa khủng bố quốc tế, độc quyền khoa học – công nghệ, giáo dục, tư tưởng,… Để hiểu rõ tác động của toàn cầu hóa đến các mặt đời sống xã hội và con người hiện đại, chúng ta cần phải nắm bắt được bản chất sâu xa của nó, nghĩa là cần phải nhận
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0