Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
lượt xem 15
download
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế nêu lý luận về lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế, mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế, lạm phát ở Việt Nam và khả năng áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu tại Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH ---------------------------------- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài 9: TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ LỚP KI001 – VB2K15 NHÓM 10 TP. HCM, tháng 10-2012
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH ---------------------------------- BÀI TIỂU LUẬN Đề tài 9: TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GVHD: Thầy TRƯƠNG MINH TUẤN Danh sách nhóm 10 STT TÊN THÀNH VIÊN CHỮ KÝ Nguyễn Thị Thanh Nga 50 Trương Ái Ngân 79 Trương Thùy Trinh Đoàn Thị Minh 76 Trâm 68 Nguyễn Hoài Thu
- MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU.................................................................. 1 1. Lạm phát mục tiêu là gì..............................................................................................1 2. Đặc tính chung của cơ chế lạm phát mục tiêu ..............................................................5 3. Các ưu điểm và hạn chế của cơ chế Lạm phát mục tiêu ................................................7 3.1. Các ưu điểm ....................................................................................................7 3.2. Những hạn chế .................................................................................................8 II. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ................................................................................................................ 9 CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC NGOÀI ...............................................................................................................11 II. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM .............................................................................................................16 CHƯƠNG III: LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ LẠM PHÁT MỤC TIÊU TẠI VIỆT NAM I. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM..........................................................................................................19 II. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG Ở VIỆT NAM ................20 III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ LẠM PHÁT MỤC TIÊU Ỡ VIỆT NAM .................................23 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ 1. Biểu đồ : Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) cuối kỳ giai đoạn 2001 – 2011 .......................................19 2. Bảng : Lạm phát CPI và tốc độ tăng GDP ở Việt Nam từ 1987 đến 2010 ........................................21
- LỜI NÓI ĐẦU Trước những năm 90 trên thế giới, hầu hết các nước đều chọn khối lượng tiền (M2, M3…) hoặc tỉ giá làm mục tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) quốc gia. Tuy nhiên, vào đầu những năm 90, một số nước phát triển đã có sự thay đổi trong việc lựa chọn các mục tiêu trung gian tương tự, mà tập trung vào chỉ số lạm phát. Cách tiếp cận mới này tập trung vào nhiệm vụ kiểm soát lạm phát và được gọi là lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting). Chính sách lạm phát mục tiêu là chính sách mà ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ đưa ra mục tiêu lạm phát trong một thời gian khá dài (thường là 5 năm) và được quyền chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ bản, tỷ giá .v.v để đạt mục tiêu đó. Một chính sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu rong quá trình thực hiện lạm phát sẽ vận động xoay quanh mức mục tiêu đã đề ra. Chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và các nước mới nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác ổn định giá là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ. Tùy từng thời kỳ, mức lạm phát mục tiêu có thể có những điều chỉnh theo năm, tuy nhiên mức điều chỉnh không quá lớn so với định hướng dài hạn đã xác định từ thời gian trước. Từ đầu những năm 90 thế kỷ 20, một số quốc gia đã tiên phong áp dụng nó là NHTW New Zealand (1990); NHTW Canada (1991); Vuong quốc Anh (1992); Phần Lan, Thụy Ðiển, Úc (1993)… Ngày nay, có khoảng 30 quốc gia đang áp dụng phương pháp tiếp cận mới này và gần một nửa trong số đó là các quốc gia thuộc nhóm thị truờng mới nổi hoặc quốc gia có thu nhập thấp. Ngoài ra, một số NHTW của các nền kinh tế phát triển hơn - bao gồm ECB, FED, Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) và Ngân hàng Quốc gia Thụy Sỹ - đã vận dụng nhiều nội dung trong chính sách mục tiêu lạm phát, và một số khác thì đang trong quá trình chuyển đổi sang chính sách mục tiêu lạm phát. Việt Nam cũng đang bắt đầu nghiên cứu và định hướng chuyển đổi sang chính sách tiền tệ này để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. Vậy việc theo đuổi một chính sách mục tiêu lạm phát trong trung và dài hạn hạn cùng với việc sử dụng những công cụ chính sách tiền tệ tác đông vào nền kinh tế để kiềm chế lạm phát theo mục tiêu đã đặt ra trước này có ảnh hưởng thế nào đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia và cụ thể trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta? Bài tiểu luận của Nhóm 10 sẽ tìm hiểu về mối quan hệ của giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế, đồng thời đánh giá khả năng áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.
- Đề tài 9 Nhóm 10 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. NHỮNG CƠ SỞ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU 1. Lạm phát mục tiêu là gì? Lạm phát mục tiêu (inflation targeting) là một cơ chế chính sách tiền tệ (CSTT) được áp dụng từ cuối những năm 1980 và đã tỏ ra khá thành công, kể cả những quốc gia thị trường mới nổi như Chilê. Tại các quốc gia đang phát triển và tăng trưởng kinh tế nhanh yêu cầu ổn định giá cả trong nền kinh tế là một điều cấp thết bởi hiệu ứng tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế - sự méo mó của giá cả, phân bố không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm và mất công bằng xã hội. Tác động tiêu cực của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, chẳng hạn, Barro (1995); Bruno và Easterly (1995); Ghosh và Phillips (1998)… Các nghiên cứu chỉ ra hậu quả của lạm phát là làm méo mó sự phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế, làm tổn thương các thành viên nghèo nhất trong xã hội, gây bất ổn và tái phân phối thu nhập và tài sản một cách tùy tiện. Lạm phát hủy hoại sự ổn định kinh tế và gây thất bại trong phát triển bền vững. Sự lựa chọn cơ chế lạm phát mục tiêu như một công cụ quản lí kinh tế vĩ mô ngày càng chứng tỏ sức sống của mình kể từ khi New Zealand, Canada thực hiện thành công vào đầu những năm 90. Đến nay đã có gần 30 quốc gia và tới đây còn nhiều quốc gia khác áp dụng cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu và đã thu được những kết quả đáng kể. Theo Loayza và Soto (2002), ngoại trừ hai trường hợp đã tham gia Liên minh Tiền tệ châu Âu (Phần Lan và Tây Ban Nha), không có quốc gia nào từ bỏ cơ chế này, xu hướng các quốc gia nghiêng sử dụng công cụ chính sách này đề điều tiết nền kinh tế ngày càng nhiều nhưng có thể nói rằng cơ chế này hiện vẫn còn hết sức mới mẻ và nhiều bàn cãi xung quanh. Vậy lạm phát mục tiêu (LPMT) chính xác là gì? Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng: ”Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu là một bản thông báo ra công chúng về chỉ tiêu trung hạn của lạm phát cũng như uy tín của cơ quan thẩm quyền về tiền tệ để đạt mục tiêu này. Các yếu tố khác bao gồm phổ biến thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của nhà hoạch định chính sách tiền tệ tới công chúng và thị trường, cũng như trách nhiệm giải trình của Ngân hàng Trung ương (NHTW) để đạt được các chỉ tiêu lạm phát của mình. Các quyết định 1
- Đề tài 9 Nhóm 10 về chính sách tiền tệ sẽ dựa trên độ lệch dự báo lạm phát (một cách hoàn toàn hay rõ ràng) đóng vai trò là chỉ tiêu trung gian của chính sách tiền tệ”. Theo các nhà kinh tế học Thomas Laubach, Rick Mickin và Adam Poxen định nghĩa về LPMT như sau “LPMT là nền tảng cơ sở cho CSTT, được đặc trưng bởi việc NHTW công bố với công chúng một mục tiêu định lượng chính thức (thường là một khung phạm vi hơn là một giá trị cụ thể) cho tỷ lệ lạm phát trong một hoặc vài thời kỳ, dựa trên quan điểm ổn định giá cả là mục tiêu duy nhất của CSTT trong dài hạn. Một trong những đặc trưng về quan điểm có tác động mạnh là công khai với công chúng về những kế hoạch và mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách và trong nhiều truờng hợp, là cả về cơ chế truyền dẫn, trong đó nhấn mạnh đến trách nhiệm của NHTW trong việc theo đuổi mục tiêu” Việc công bố các mục tiêu lạm phát là một nhiệm vụ bắt buộc. Tùy thuộc vào NHTW mà mục tiêu này có thể là một con số hoặc là một khoảng. Ở các nền kinh tế phát triển, mục tiêu này khoảng 2%, trong khi ở các nền kinh tế đang phát triển, con số này lớn hơn khoảng vài phần trăm. Chẳng hạn, ở các nền kinh tế phát triển, mục tiêu lạm phát mà NHTW New Zealand theo đuổi là từ 1% đến 3%, của NHTW Thụy Điển và Canada là 2% với 1% biên độ dao động được cho phép về hai phía, của NHTW Nauy là 2.5%, của Anh là 2%; ở Đông Nam Á, mục tiêu lạm phát cho năm 2010 của Thái Lan là 0.5% đến 3%, Philippines là 4.5% với biên độ dao động ±1%, và Indonesia là 5% với biên độ dao động ±1%. Tuy nhiên, sự khác biệt này không làm thay đổi cách các NHTW tiếp cận với mục tiêu lạm phát của mình. Nếu các NHTW chọn mục tiêu lạm phát là một khoảng, thường họ sẽ nhắm vào điểm giữa của khoảng; trong khi, nếu chọn mục tiêu lạm phát là một điểm, họ sẽ nhắm vào chính điểm mục tiêu lạm phát đó.Ðiểm quan trọng ở đây là cơ chế LPMT không chỉ giới hạn ở việc công bố mục tiêu lạm phát bằng một con số cụ thể. Vấn đề này có ý nghĩa quyết định đặc biệt đối với các các nước đang phát triển, bởi vì các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia này đôi khi cũng báo cáo các mục tiêu lạm phát, nhưng không có nghĩa các nước này thực hiện cơ chế LPMT. Cơ chế LPMT cũng đòi hỏi các đặc điểm nêu trên, phải đặt nặng vai trò khả năng dự báo lạm phát và tối thiểu phải dựa trên ba điểm chính. i) Một mục tiêu lạm phát rõ ràng mà NHTW theo đuổi trong một khoảng thời gian nhất định. ii) Một chiến lược thực hiện mục tiêu lạm phát dựa trên các dự báo sao cho lạm phát nằm trong mục 2
- Đề tài 9 Nhóm 10 tiêu đã định hướng. iii) Một mức độ minh bạch (transparency) và trách nhiệm giải trình (accountability) cao. Chiến lược thực hiện mục tiêu lạm phát dựa trên các dự báo (inflation- forecast targeting) là một qui trình khá phức tạp. Tuy nhiên, về mặt cơ bản, qui trình này gồm một số bước như sau. Mỗi NHTW đầu tiên sẽ xây dựng cho riêng mình một dự báo về lạm phát dựa trên các thông tin đạt được, gọi là mức-dự-báo-lạm- phát-có-điều-kiện, và dùng nó như một biến tham khảo trung gian. Một công cụ chính sách sau đó sẽ được chọn để tác động vào mức dự-báo-lạm-phát-có-điều-kiện này sao cho mức dự báo lạm phát sau khi bị tác động theo dự đoán sẽ rơi vào các mục tiêu lạm phát đã đề ra trước đó. Chính sách tiền tệ sau đó sẽ được thực thi dựa vào công cụ chính sách được chọn này và với sự tham khảo các thông tin khác có được trên thị trường. Khi thị trường xuất hiện các cơn sốc kinh tế, cách hữu hiệu mà các NHTW xử lý là xem xét lại ảnh hưởng của các cơn sốc đó đến mức dự-báo- lạm-phát-có-điều-kiện đã được đưa ra trước đây như thế nào và từ đó có những thay đổi thích hợp về công cụ chính sách (nếu cần thiết) nhằm tác động để đưa mức dự- báo-lạm-phát-có-điều-kiện hướng về lại các mục tiêu lạm phát đã đề ra. Khi mà sự thành công của chính sách tiền tệ được đánh giá dựa vào những kết quả cuối cùng và tồn tại một khoảng thời gian từ lúc một chính sách được thực hiện đến khi chính sách có tác động, sự thành công của chính sách tiền tệ, do đó, còn tùy thuộc vào những biến chuyển xảy ra trong những khoảng thời gian này. Những biến chuyển mới phát sinh có thể bị cộng hưởng dưới tác động của các tác nhân trong nền kinh tế làm cho hiện trạng nền kinh tế trở nên bi đát hơn khi chính sách tiền tệ chưa kịp có hiệu lực. Mức lãi suất trong ngắn hạn có tác động rất ít đến hành động của các chủ thể kinh tế. Cái mà ảnh hưởng hơn nhiều đó là các dự đoán và mong đợi của các chủ thể trong nền kinh tế đối với các chính sách thiết lập lãi suất của ngân hàng trung ương. Các chủ thể kinh tế đưa ra các quyết định và hoạt động kinh tế dựa trên các dự đoán và mong đợi này. Do đó, khả năng của các ngân hàng trung ương trong việc định hướng dư luận trở thành một nhiệm vụ cực kì quan trọng. “Neo giữ” được niềm tin và mong đợi của các tác nhân trong nền kinh tế, ngân hàng trung ương xem như đã thiết lập được các điều kiện ban đầu nhằm bình ổn lạm phát. Và ở đây, uy tín của ngân hàng trung ương phát huy tác dụng. Một uy tín tốt là một tài sản lớn đối với bất kì một ngân hàng trung ương nào. Và khi mà 3
- Đề tài 9 Nhóm 10 xây dựng được một uy tín như vậy, ngân hàng trung ương đã thành công môt phần trong nhiệm vụ của mình. Để xây dựng và duy trì một mức độ khả tín cao, ngân hàng trung ương cần một sự minh bạch cao. Các NHTW thường xuyên cung cấp các báo cáo chính sách tiền tệ, giải thích ý nghĩa của chúng cũng như động lực phía sau các chính sách đó. Trong nhiều trường hợp, họ cũng sẽ khuyến cáo các chính sách có thể được thực hiện trong tương lai tới các chủ thể trong nền kinh tế. Ngược lại, một mức độ tin cậy cao còn cho phép các NHTW uyển chuyển hơn trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của mình. Về lâu về dài, thay vì chỉ tập trung duy nhất vào việc bình ổn lạm phát, chính sách tiền tệ còn phải hướng đến các mục tiêu khác như bình ổn nền kinh tế thực, hiệu quả trong sử dụng tài nguyên, v.v. Ở đây, NHTW cũng phải rõ ràng khi cho các tác nhân kinh tế biết cách tiếp cận của mình. Và sau cùng, ngân hàng trung ương là cá thể chịu trách nhiệm cuối cùng về các chính sách đề ra. Một mức giải trình (accountability) cao là điều cần thiết nhằm giúp NHTW có thêm động lực thực hiện những mục tiêu của mình. Khi mà các mục tiêu được đưa ra công khai và minh bạch, hoạt động của các NHTW chịu sự giám sát chặt chẽ của công chúng. Trong nhiều trường hợp, các NHTW còn chịu sự giám sát và trách nhiệm giải trình với các tổ chức, cơ quan khác nhau, thường là quốc hội hoặc một cơ quan chỉ định bởi chính phủ, với trách nhiệm giải trình khi lạm phát ra khỏi mục tiêu đã đề ra. Trong thực tiễn, không có 2 quốc gia nào có cơ chế LPMT y hệt nhau, mà có sự kết hợp giữa các thành tố của cơ chế LPMT trong hầu hết các quốc gia. Một số NHTW như Ngân hàng Dự trữ Úc có chỉ thị kép, bao gồm ổn định giá cả và việc làm đầy đủ. Bên cạnh đó, một số NHTW thiết lập mục tiêu là điểm lạm phát (một chỉ số lạm phát cụ thể), một số khác là một khung chỉ số lạm phát, một số khác lại xác định khung thời gian để đạt mục tiêu lạm phát, trong khi số khác thì không… (Truman, 2003). Mục đích chính của LPMT là duy trì và kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Ðiều này tạo nền tảng ổn định kinh tế, đẩy lùi sự không chắc chắn và thúc đẩy các hợp đồng dài hạn. Tuy nhiên đạt được một chỉ số lạm phát trong kế hoạch không phải là mục tiêu cuối cùng của một quốc gia, Seyfried và Bremmer (2003) cho rằng, mục đích của LPMT không chỉ kiềm chế lạm phát hiện hành, mà còn tập trung vào mục tiêu trung, dài hạn. Vì vậy, NHTW, theo Bernanke và Mishkin (1997) nên theo dõi 4
- Đề tài 9 Nhóm 10 chặt chẽ các chỉ báo có quyền năng dự báo lạm phát trong tương lai. Pui (2003) cảnh báo cơ chế LPMT với ý nghĩa thuần túy (trong đó, sản lượng và tăng trưởng kinh tế không gắn trọng số hay tầm quan trọng) không chắc sẽ tối đa hóa phúc lợi xã hội bởi vì một sự thu hẹp hay mở rộng hoạt động kinh tế sẽ không có ý nghĩa chừng nào mục tiêu lạm phát không thực hiện được. 2. Đặc tính chung của cơ chế lạm phát mục tiêu Lạm phát mục tiêu có thể được miêu tả như một cơ chế điều hành CSTT dựa trên nền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm chỉ số mục tiêu trung gian. NHTW sẽ dự báo xu hướng lạm phát năm tới để đưa ra chỉ số lạm phát mục tiêu (định hướng bằng một chỉ số hoặc một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có trách nhiệm thực hiện bất cứ chỉ tiêu nào khác. Trong giới hạn của mình, NHTW có thể linh hoạt lựa chọn và sử dụng bất kỳ các công cụ để chỉ đạt một mục tiêu duy nhất - chỉ số lạm phát mục tiêu. Về kỹ thuật việc xác định chỉ số mục tiêu (hay lạm phát mục tiêu) bao gồm các bước: (1) Lựa chọn loại chỉ số giá (dựa trên mức độ giá cả hoặc tỷ lệ lạm phát); (2) Hình thành mục tiêu; (3) Tính toán xu hướng lạm phát năm sau; (4) Ưu việt cơ bản nhất của lạm phát mục tiêu là nó không bị can thiệp bởi các chỉ số kinh tế vĩ mô khác như các mục tiêu trung gian truyền thống (M2, M3 hay tỷ giá). Một sự khác biệt nữa với các cơ chế điều hành khác là nó tạo cho NHTW sự tự do và linh hoạt trong việc điều hành CSTT. Ví dụ trong trường hợp lấy khối lượng tiền hoặc tỷ giá lạm mục tiêu trung gian, công chúng và các doanh nghiệp có thể kiểm soát dễ dàng và khi các chỉ số như lạm phát, lãi suất hay tỷ giá biến động họ sẽ có những phản ứng tiêu cực trước tình trạng điều hành CSTT của quốc gia. Chính sự khác biệt này tạo điều kiện cho NHTW chủ động hơn trong điều hành CSTT. Xác định lạm phát mục tiêu (một chỉ số hoặc một khoảng biên độ); (5) Thoả thuận về khả năng huỷ bỏ giá trị mục tiêu hoặc từ chối chỉ số lạm phát mục tiêu trong một số trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên để áp dụng lạm phát mục tiêu thì NHTW, trước hết, phải có được mức tin tưởng cao từ phía xã hội và phải hoạt động một cách minh bạch. Hơn nữa, kinh nghiệm quý báu của các nước áp dụng chỉ số lạm phát mục tiêu đã chỉ ra sự cần thiết hình thành 5
- Đề tài 9 Nhóm 10 những điều kiện tối thiểu để áp dụng lạm phát mục tiêu trong điều hành CSTT. Trên hết tất cả, lạm phát mục tiêu chỉ có thể áp dụng ở những nước mà ở đó có thể đảm bảo duy trì lạm phát ở mức thấp không chỉ trên hình thức mà trên cả thực tế. Các cơ quan quản lý tiền tệ cần hiểu rằng lạm phát không thể bù đắp tổn hại cho nền kinh tế, có nghĩa rằng với sự trợ giúp của tiền tệ, việc bành trướng ngân sách sẽ không những không thúc đẩy phát triển các khu vực kinh tế, mà tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách sẽ còn là tiền đề trực tiếp cho sự gia tăng giá cả trong nền kinh tế, phá hủy tính ổn định của khu vực tài chính và làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Ngoài ra, lạm phát mục tiêu đòi hỏi phải thoả mãn hai điều kiện then chốt: Thứ nhất, NHTW cần có một mức độc lập tương đối để thực thi CSTT, mặc dù không có một NHTW nào có thể hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của chính phủ. NHTW cần phải, trong giới hạn cho phép, được tự do lựa chọn các công cụ để đạt được tỷ lệ lạm phát mục tiêu. Để thực hiện yêu cầu này, quốc gia đó cần từ bỏ nguyên tắc ''ngân sách chi phối'', cũng như các vấn đề thuộc chính sách tài khoá không được gây bất cứ ảnh hưởng nào đến CSTT. Số thoát khỏi ngân sách chi phối ngụ ý rằng các khoản vay từ NHTW của chính phủ phải ở mức thấp nhất (hoặc tốt nhất bằng 0) và các thị trường tài chính trong nước có đủ độ sâu để ''nuốt chửng'' các đợt phát hành nợ của chính phủ. Hơn nữa, sự thoát khỏi ngân sách chi phối cũng ngụ ý rằng chính phủ phải có cơ sở nguồn thu rộng rãi và không phải đưa một cách có hệ thống vào nguồn thu từ in tiền. Nếu chi phối về mặt tài khoá tồn tại thì chính sách thuế khoá sẽ gây áp lực đến lạm phát và thổi bay hiệu quả của CSTT. Trên thực tế, điều này được thể hiện qua việc chính phủ không muốn làm mếch lòng công chúng bằng việc yêu cầu NHTW, ví dụ, giảm lãi suất để tăng thuế. Thứ hai, NHTW phải có khả năng thực hiện lạm phát mục tiêu cũng như không có trách nhiệm với các mục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay tỷ giả. Ví dụ, nếu một quốc gia duy trì chế độ tỷ giá cố định, trong điều kiện các luồng vốn dịch chuyển mạnh như hiện nay thì không thề cùng một lúc thực hiện được lạm phát mục tiêu. Hơn nữa là khi NHTW duy trì cùng lúc hai hay nhiều mục tiêu thì thị trường không hiểu trong trường hợp xấu đi, mục tiêu nào sẽ được ưu tiên thực hiện. Ví dụ, khi xuất hiện mối đe doạ đến tỷ giá, NHTW buộc phải lựa chọn: 6
- Đề tài 9 Nhóm 10 hoặc duy trì tỷ giá cố định, từ bỏ mục tiêu lạm phát; hoặc bảo vệ chỉ tiêu lạm phát kế hoạch, hy sinh tỷ giá cố định. 3. Các ưu điểm và hạn chế của cơ chế Lạm phát mục tiêu 3.1. Các ưu điểm Cơ chế LPMT có một số ưu điểm như một chiến lược CSTT so với các cơ chế chính sách khác. (1) LPMT cung cấp một neo danh nghĩa cho CSTT và kì vọng lạm phát. Khẳng định rõ mục tiêu tối thượng của CSTT là ổn định giá cả, thể hiện ở lạm phát thấp, có tính minh bạch cao. Mục tiêu lạm phát rõ ràng, dễ quan sát và không thay dổi nhiều so với các mục tiêu khác. Chỉ số lạm phát do NHTW công bố và những cam kết thực hiện tạo được niềm tin trong công chúng, thuận lợi trong điều hành CSTT và được công chúng, doanh nghiệp đồng thuận khi NHTW thực hiện các công cụ CSTT để đạt lạm phát mục tiêu. (2) Khác với cơ chế tỉ giá mục tiêu, LPMT mang lại cơ hội đối phó với các cơn sốc có thể tác động đến nền kinh tế và tập trung vào các điều kiện kinh tế trong nước. (3) LPMT không đòi hỏi mối quan hệ ổn định giữa cung tiền và lạm phát như trong cơ chế điều hành CSTT lấy cung tiền làm mục tiêu trung gian. Nó sử dụng toàn bộ các thông tin hiện có để xây dựng chính sách. (4) CSTT tác động đến các hoạt động kinh tế với các độ trễ dài và biến động nên nó không thể tác động đến lạm phát hiện hành. Vì vậy, mục tiêu lạm phát thường được hiểu là mang tính trung hạn. Ðiều đó có nghĩa rằng NHTW theo đuổi mục tiêu lạm phát trong một thời kì nhất định thông qua việc kiểm soát và duy trì lạm phát ở mức thấp và ổn định. Trong ngắn hạn, những biến động của lạm phát thực tế so với mục tiêu là có thể chấp nhận được và không nhất thiết làm mất đi lòng tin của công chúng đối với NHTW. Nói cách khác, cơ chế LPMT đem lại vai trò cho các độ trễ của CSTT trong việc lựa chọn công cụ chính sách. (5) Cơ chế LPMT có thể giảm khả năng rơi vào bẫy không nhất quán về thời gian thông qua việc giảm áp lực từ các chính khách nhằm kích thích nền kinh tế. (6) Một uu điểm khác của cơ chế LPMT, đó là tăng cuờng mối quan hệ đối thoạivà truyền thông với công chúng và tính minh bạch. Thuộc tính này có vai trò quan trọng trong các thành công của cơ chế LPMT tại các nước công nghiệp phát triển. Các nhà hoạch định chính sách ở các nước phát triển tận dụng mọi cơ hội để 7
- Đề tài 9 Nhóm 10 đối thoại, giao tiếp với công chúng thông qua các hình thức như cung cấp các thông diệp chính sách, các cuộc thảo luận mục tiêu chính sách, các báo cáo lạm phát… (7) Tính minh bạch của chính sách sẽ tăng cuờng trách nhiệm giải trình với công chúng, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách trong thực hiện các mục tiêu lạm phát và tạo được sự đồng thuận và hỗ trợ cao từ phía công chúng với NHTW. 3.2. Những hạn chế (1) Cơ chế LPMT bị chỉ trích do quá chú trọng đến lạm phát, cơ cấu cứng nhắc, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và do nó loại trừ các mục tiêu khác như ổn định sản lượng. Tuy nhiên, thông báo của các quốc gia thực hiện cơ chế LPMT về tỉ lệ lạm phát mục tiêu lớn hơn 0 cho thấy NHTW vẫn quan tâm đến tăng trưởng sản lượng một cách tổng thể, vấn đề thiểu phát và các tác động không mong muốn của thiểu phát đến nền kinh tế. (2) Khác với tỉ giá và cung tiền, kiểm soát lạm phát là vấn đề không dễ và các công cụ chính sách chỉ cho thấy tác động với độ trễ dài và biến động. Ðây là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng ở các nước đang phát triển khi tỉ lệ lạm phát đang được kéo thấp từ những mức cao. Trong tình huống này, sẽ có những sai lầm lớn trong dự báo và hiện tượng chệch mục tiêu có thể xẩy ra thường xuyên. Vì vậy, NHTW sẽ gặp khó khăn trong việc giải thích lí do để tạo dựng niềm tin, một vấn đề trung tâm trong cơ chế LPMT. Theo Masson và các cộng sự (1997), cơ chế LPMT sẽ hiệu quả hơn nếu bắt đầu thực hiện sau khi đã thực hiện các biện pháp giảm lạm phát thành công. Một nhân tố khác có thể ảnh huởng đến năng lực của NHTW trong kiểm soát lạm phát là phạm vi kiểm soát giá cả của chính phủ còn khá lớn và đây là một trong những nhân tố cần quan tâm xem xét ở các nước đang phát triển. Ðể thực thi cơ chế LPMT một cách thành công, đòi hỏi một sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền quyết định giá cả các hàng hóa chịu sự kiểm soát của chính phủ hoặc loại bỏ các loại hàng hóa này trong tính toán tỉ lệ lạm phát mục tiêu. Hơn nữa, quy trình dự báo lạm phát ở các quốc gia này cần lưu ý đến lộ trình, thời điểm và biên độ điều chỉnh của giá cả các loại hàng hóa nêu trên. (3) Cơ chế LPMT không thể ngăn chặn hoàn toàn sự chi phối của chính sách tài chính. Về dài hạn, thâm hụt ngân sách lớn sẽ dẫn đến việc tiền tệ hóa các khoản thâm hụt hay phá giá đồng tiền và sẽ gây ra lạm phát cao. 8
- Đề tài 9 Nhóm 10 (4) Cơ chế LPMT đòi hỏi cơ chế tỉ giá linh hoạt, nhưng chính điều này có thể gây bất ổn tài chính. (5) Có một số nhà kinh tế (như Calvo, 1999) lập luận rằng cơ chế LPMT là quá tùy nghi (too discretionary) và nó có thể khiến các nhà hoạch định chính sách theo đuổi các chính sách mở rộng quá mức. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, cơ chế LPMT tăng cuờng trách nhiệm giải trình và minh bạch của chính sách. Trách nhiệm giải trình làm tăng chi phí của những sai lầm chính sách đối với các nhà hoạch định chính sách, còn tính minh bạch sẽ làm cho việc xây dựng chính sách mở rộng quá mức mà không có sự thông báo hoặc giải thích trở nên khó triển khai thực hiện hơn . Vì vậy, sẽ không thuyết phục khi cho rằng CSTT trong cơ chế LPMT là quá tùy nghi. (6) Một số nhà kinh tế cho rằng cơ chế LPMT là quá cứng nhắc và nó có thể gây cản trở cho các nhà chức trách tiền tệ trong đối phó với các cơn sốc tác động đến nền kinh tế. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cơ chế LPMT không phải là một quy tắc cứng nhắc, nó có thể được xem như một sự “tự do trong khuôn khổ”. Nó không bao hàm các quy tắc giản đơn về xây dựng CSTT, trái lại, cơ chế LPMT buộc các nhà hoạch định chính sách sử dụng toàn bộ thông tin hiện có để đạt được mục tiêu đề ra. II. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ mỗi giai đoạn của một quốc gia Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn bộ nền kinh tế trong 1 thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc bằng số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng) – đó là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc kỳ gốc. Tăng trưởng kinh tế còn được xem xét dưới góc độ chất lượng, chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau: Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong 1 thời gian dài. Phát triển có hiện quả thể hiện qua năng suất lao động, năng suất tài sản cao và ổn định. Hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) cao. 9
- Đề tài 9 Nhóm 10 Cơ cấu chuyển dịch kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế trong mỗi thời kỳ. Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo hài hòa đời sống kinh tế xã hội. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Để phản ánh tăng trưởng kinh tế, các nhà kinh tế sử dụng số liệu về GDP – 1 chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập của mọi người trong nền kinh tế. Chương tiếp theo của bài tiểu luận sẽ tìm hiểu về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế, mức độ ảnh hưởng giữa hai thành tố này qua các nghiên cứu và lý thuyết từ trước đến nay. 10
- Đề tài 9 Nhóm 10 CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC NGOÀI Lạm phát mục tiêu là một chính sách tiền tệ khá mới mẻ, và hiện được đa số các quốc gia đang phát triển áp dụng, trong đó Việt Nam vẫn trong giai đoạn bắt đầu xem xét và nghiên cứu, chuẩn bị thử nghiệm chính sách này như một công cụ điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Với mục tiêu đặt một chỉ tiêu lạm phát cho một giai đoạn trung và dài hạn, các công cụ điều tiết vĩ mô khác sẽ hoạt động xoay quanh mục tiêu lạm phát này. Trong bối cảnh đặc thù của một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm luôn ở mức khá cao so với các quốc gia khác, trong khi đó lạm phát cũng luôn ở mức cao, liệu mối quan hệ trực tiếp giữa hai chỉ số cơ bản luôn được quan tâm là lạm phát và tốc độ tăng trưởng sẽ có mối quan hệ thế nào? Có ý kiến cho rằng muốn chống lạm phát phải hi sinh tăng trưởng. Điều đó không đúng hoàn toàn. Tăng trưởng kinh tế và chống lạm phát là hai mục tiêu gắn bó chặt chẽ với nhau, muốn tăng trưởng kinh tế cao và hiệu quả cần phải chống lạm phát, và ngược lại chống lạm phát làm cho kinh tế phát triển cao và bền vững. Lạm phát và tăng trưởng là bạn đồng hành tin cậy nếu như tỷ lệ giữa chúng không vượt quá 1.45 lần. Thực tế nền kinh tế các nước chứng minh điều đó. Một số nước trong khu vực có mức tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8-9%, chẳng hạn Trung Quốc đạt 10%, Ấn Độ đạt 8,9%, Campuchia 9,5%. Nhìn chung toàn Châu Á là 8%, trong đó các nền kinh tế đang nổi là 9,5%, nhưng vẫn giữ chỉ số lạm phát chỉ ở mức 2-3%, Trung Quốc cũng chỉ 5,4%, Singapore 3%. Về mặt lý thuyết, lạm phát có ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực đến tăng trưởng. Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả 11
- Đề tài 9 Nhóm 10 trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như vậy, các nhà đầu tư thường có xu hướng mắc lỗi trong quyết định của mình và chọn những “gói” yếu tố sản xuất không phải là tối ưu, làm giảm hiệu quả kinh tế và, do đó, giảm năng suất. Từ một khía cạnh khác, một số nhà nghiên cứu cho rằng lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thật sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia. Một số khảo sát về mối tương quan giữa hai chỉ số này đã được nghiên cứu trước đó với các kết quả cụ thể như sau: Theo lý thuyết Keynes: trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nhất định; trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển cùng chiều; sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng thì GDP cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm (đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp); mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu dương. Theo chủ nghĩa trọng tiền (đại diện là Milton Fredman): quan điểm cho rằng lạm phát là sản phẩm của việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế; nghĩa là, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng; nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra; nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát. 12
- Đề tài 9 Nhóm 10 Lập luận này cũng được thể hiện trong công thức nổi tiếng của Irving Fisher (lý thuyết số lượng tiền tệ - Quantity theory of Money): MV = PY Trong đó: M: cung tiền V: Hệ số tạo tiền P: Giá Y: sản lượng đầu ra (GDP thật) Cũng theo Friedman, nếu giá cả hàng hóa trong nền kinh tế tăng gấp 2 lần mà thu nhập của người lao động cũng tăng gấp 2 lần, họ sẽ không quan tâm đến việc tăng giá hàng hóa. Trong trường hợp như vậy, tăng trưởng không bị suy giảm bởi lạm phát. Nếu lạm phát xảy ra theo hướng này thì không ảnh hưởng nguy hiểm đến tăng trưởng kinh tế. Nói tóm lại, theo quan điểm của thuyết trọng tiền, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng. Nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra. Nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát. Theo lý thuyết tân cổ điển Mundell (1965) và Tobin (1965): lạm phát là nguyên nhân làm cho con người tránh giữ tiền mà chuyển thành các tài sản sinh lời; theo mô hình này giữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ tỉ lệ thuận. Bổ sung thêm cho mô hình trên của lý thuyết tân cổ điển nhà kinh tế học Sidrauski (1967, theo Vikesh Gokal, Subrina Hanif 2004) có cùng quan điểm với chủ nghĩa trọng tiền, Sidrauski đề cập đến một trạng thái “vô cùng dửng dưng” (superneutral) với lạm phát. Kết quả nghiên cứu của ông là khi các biến số độc lập với việc tăng cung tiền trong dài hạn thì việc tăng lạm phát không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Mô hình của Stockman (1981, theo Vikesh Gokal, Subrina Hanif 2004) - một nhà kinh tế học thuộc trường phái tân cổ điển - thì cho rằng lạm phát tăng cao sẽ làm cho tăng trưởng giảm. Lý thuyết của Bruno và Easterly (1995) . Theo thuyết này, một cú sốc tạm thời (ví dụ như tỷ lệ thâm hụt ngân sách tăng vọt), có thể là nguyên nhân của lạm phát (tức là làm cho mặt bằng giá tăng lên trong thời gian dài hơn), và sau đó lạm phát chỉ giảm đi và kết thúc với một khoảng thời gian trễ khi nguyên nhân gây ra lạm phát chấm dứt (ví dụ như tỷ lệ thâm hụt ngân sách quay lại mức ban đầu). 13
- Đề tài 9 Nhóm 10 Lý thuyết này được xây dựng dựa trên các quan sát về lạm phát ở các nước Nam Mỹ và Mỹ La tinh, một số nước châu Phi, Israen, Indonexia và một vài nước châu Á khác trong 3 thập kỷ 60, 70 và 80 của thế kỷ trước. Lý thuyết này định nghĩa khủng hoảng lạm phát là một giai đoạn nhiều năm trong đó tỷ lệ lạm phát hàng năm vượt quá 40%, sau đó lại có giai đoạn lạm phát chậm lại; tuy nhiên kiểu lạm phát này khác với kiểu lạm phát kinh niên trong đó thời gian lạm phát dài hơn, mạnh hơn và đều đặn hơn. Các nhà lý thuyết của trường phái này cho rằng các cuộc khủng hoảng lạm phát luôn kèm theo giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, nhưng đến khi trở lại ổn định thì sẽ kèm theo sự tăng nhanh của tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và thường vượt cả tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng. Lý thuyết này được hình thành từ giả thuyết về trung và dài hạn có một quan hệ âm giữa lạm phát và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, trong đó tỷ lệ tăng trưởng kinh tế là hậu quả và phản ứng trễ, ngược chiều so với lạm phát. Trong số nhiều kênh mà lạm phát có thể ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế, có một kênh quan trọng như sau: Người đầu tư tiềm năng không còn tin vào khả năng kiểm soát môi trường kinh tế vĩ mô của chính phủ, trước hết là do đã để bùng nổ khủng hoảng lạm phát, tiếp đến là có thể áp đặt một hệ thống các chính sách kinh tế xã hội khắc khổ quá nhanh, làm cho cầu giảm đột ngột, kéo theo giảm các hoạt động kinh tế xã hội và giảm tỷ suất lợi nhuận đầu tư. Với lập luận đó, họ sẽ nhanh chóng cắt giảm đầu tư và làm cho sản xuất tăng trưởng chậm lại. Tuy quan điểm về lý thuyết và mô hình minh chứng cho mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát của các trường phái có sự khác nhau, nhưng điểm chung của các trường phái là mối quan hệ ấy không phải một chiều, mà là sự tác động qua lại. Trong ngắn hạn khi lạm phát còn ở mức thấp, lạm phát và tăng trưởng thừơng có mối quan hệ cùng chiều. Nghĩa là nếu muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn thì phải chấp nhận tăng lạm phát. Tuy nhiên mối quan hệ này không tồn tại mãi và đến một lúc nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tăng trưởng; trong dài hạn, khi tăng trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác động đến tăng trưởng nữa mà lúc này lạm phát là hậu quả của việc tăng cung tiền quá mức vào nền kinh tế. Đó chính là mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu ban đầu (những năm 1960) không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa hệ thống. Nghiên cứu giai đoạn sau khủng khoảng dầu hoả (năm 1973-1974) của Fischer (1993), Barro (1996), Bruno và Easterly (1998) đã tìm thấy quan hệ âm 14
- Đề tài 9 Nhóm 10 giữa lạm phát và tăng trưởng. Nghiên cứu gần đây, M.Khan và A.Senhadji (2001) cũng đã tìm thấy mối quan hệ tăng trưởng - lạm phát mang dấu âm khi: tỉ lệ lạm phát vượt qua ngưỡng và mang dấu dương trong trường hợp còn lại. M.Khan và A.Senchadji đã sử dụng các kĩ thuật phân tích hiện đại nhất để kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Công trình của các ông bao quát số liệu của 140 nước trong đó có cả các nước phát triển và các nước đã công nghiệp hóa giai đoạn 1960-1998. Một lần nữa kết quả cho thấy có tồn tại một mức ngưỡng mà dưới đó lạm phát và tăng trưởng có mối tương quan dương và trên đó lạm phát gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Một phát kiến rất có ý nghĩa của các tác giả là mức ngưỡng đó khác nhau giữa các khối nước ở các nước công nghiệp, mức ngưỡng này rất thấp, chỉ vào khoảng 1-3%/năm, trong khi đó ở các nước phát triển mức ngưỡng này vào khoảng 7-11%/năm. Nối tiếp các kết quả trên, rất nhiều nhà nghiên cứu bằng các phương pháp khác nhau đã công bố ảnh hưởng qua lại giữa tăng trưởng và lạm phát: Mallik và Chowdhury (2001) sử dụng hồi quy đồng liên kết và mô hình sai số hiệu chỉnh (ECM); Faria and Carneiro (2001) cũng sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị ADF (xác định tính dừng của chuỗi dữ liệu khi phân tích chuỗi dữ liệu theo thời gian) và phương pháp phân tích phương sai dựa trên mô hình VAR…cho thấy: lạm phát không ảnh hưởng đến sản lượng thực tế trong dài hạn, tuy nhiên trong ngắn hạn thì sự ảnh hưởng của lạm phát đến sản lượng thực tế lại mang dấu âm. Nước Mỹ trong thời gian khá dài đã thực thi chính sách “hy sinh” mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát. Sau hơn 10 năm tăng trưởng liên tục khi kinh tế Mỹ bước vào chu kỳ suy thoái, nước Mỹ đã chuyển sang thực thi chính sách “hy sinh” mục tiêu kiềm chế lạm phát cho mục tiêu tăng trưởng, mà biểu hiện rõ nhất là chỉ trong một năm đã liên tục 12 lần cắt giảm lãi suất từ 6,7% xuống chỉ còn 1%. Khi tăng trưởng kinh tế phục hồi và lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, nước Mỹ lại thực thi chính sách “hy sinh” mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu chống lạm phát với một trong những giải pháp cụ thể đã thực hiện là chỉ từ tháng 7/2004 đến nay đã tám lần liên tục nâng lãi suất từ 1% lên 3%. Trung Quốc sau 26 năm tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (hiện giữ kỷ lục về thời gian tăng trưởng liên tục mà trước đó Hàn Quốc đã giữ với 23 năm), cũng đã muốn hạ bớt tốc độ tăng trưởng nóng và kiềm chế lạm phát, bằng việc giảm đầu tư sau mấy năm ở mức cao nhất thế giới (trên 44% so với GDP)…Có thể thấy trong 15
- Đề tài 9 Nhóm 10 bối cảnh tương đồng của quốc gia láng giềng Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách đã đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tốc đông tăng trưởng, chấp nhận giảm nhịp tăng trưởng để hạ tỷ lệ lạm phát, như vậy giai đoạn hiện tại, mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng ở Trung Quốc là đồng biến. II. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM Tại Việt Nam, để nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát, ông Nguyễn Trung Chính (2009) đã sử dụng phương pháp hồi qui đồng liên kết và mô hình sai số hiệu chỉnh được đề xuất bởi Engle và Granger (1987). Nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 1995-2008 theo số liệu công bố của Tổng Cục thống kê đã chỉ ra các kết quả là tăng trưởng và lạm phát có mối quan hệ dương (đồng biến) trong cả dài hạn và ngắn hạn và sự thay đổi của tăng trưởng nhanh hơn sự thay đổi của lạm phát. Như vậy trong giai đoạn này lạm phát có tác dụng tích cực đến tăng trưởng và chưa vượt quá ngưỡng kiểm soát. Trong mối tương tác của hai chỉ số này thì lạm phát có ảnh hưởng đến tăng trưởng nhiều hơn ảnh hưởng ngược trở lại của tăng trưởng đến lạm phát. Điều đó cho thấy lạm phát còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác, đặc biệt là những biến động trong ngắn hạn. Nghiên cứu của ông Chính đề xuất Chính phủ không nên theo đuổi mục tiêu giữ lạm phát thấp bằng mọi giá, mà cần thực hiện các chính sách hướng tới mục tiêu ưu tiên hàng đầu là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh để rút ngắn thời gian thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Vì lạm phát còn bị chi phối bởi nhiều nhân tố khác nên chính phủ cần thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm ổn định lạm phát, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng 1 cách bền vững và tránh những cú sốc lạm phát không có lợi cho nền kinh tế Căn cứ vào kinh nghiệm của những quốc gia trên thế giới, TS Phan Minh Ngọc (2006) cho rằng ảnh hưởng của lạm phát là không rõ ràng lên tăng trưởng kinh tế. Ở một nước/nhóm nước nào đó lạm phát ( và tính bất trắc lạm phát ) có thể làm giảm năng suất (và giảm tăng trưởng), nhưng ở một nước/nhóm nước khác điều này là không đúng. Vì vậy, trước khi đưa ra một Mục tiêu lạm phát để kiềm chế lạm phát ở nước ta (mà chủ yếu dựa vào chính sách tiền tệ), cần phải có những nghiên cứu thực chứng công phu để có một đánh giá đúng về quan hệ giữa lạm phát và năng suất (và tăng trưởng) ở nước ta. Khi chưa có những nghiên cứu này thì không thể loại trừ khả năng lạm phát ở ta tuy cao nhưng tác động của nó lên tăng trưởng là 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất
32 p | 287 | 69
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng
17 p | 299 | 59
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
13 p | 235 | 58
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái
12 p | 250 | 51
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và nợ công
33 p | 258 | 51
-
Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
18 p | 180 | 48
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
23 p | 268 | 47
-
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
19 p | 173 | 38
-
Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái
23 p | 219 | 36
-
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước
18 p | 205 | 27
-
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất
9 p | 191 | 25
-
Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
27 p | 165 | 24
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và ngưỡng bội chi
11 p | 176 | 22
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
30 p | 131 | 21
-
Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước
17 p | 167 | 18
-
Tiểu luận: Tóm lược một số lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
14 p | 125 | 16
-
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và ngưỡng bội chi
19 p | 125 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn