intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất

Chia sẻ: Mhnjmb Mhnjmb | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

289
lượt xem
69
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất nhằm tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái, đồng thời đề xuất ra các giải pháp giảm thiểu rủi ro, định hướng công cụ phát sinh tỷ giá hối đoái trong giai đoạn tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất

  1. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 TRƯỜN G ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN Môn: Lý Thuyết Tài Chính – Tiền Tệ Giảng viên hướng dẫn : Trương Minh Tuấn Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 12 Lớp : VB15KT002 Thành phố Hồ Chí M inh Tháng 11/2012 GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 1
  2. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 ĐỀ TÀI SỐ 6: TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ LÃI SUẤT STT HỌ VÀ TÊN CHỮ KÝ 12 Hoàng Lê Phương Dung 17 Phan Thị Mỹ Duyên 20 Nguyễn Thị Đào 30 Lê Thị Hằng 98 Phạm Thị Kim Oanh GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 2
  3. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 LỜI MỞ ĐẦU Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới lãi suất là một công cụ quan trọng trong điều hành và quản lý kinh tế vĩ mô. Lãi suất ảnh hưởng tới quan hệ cung cầu vốn, đến việc phân bổ các nguồn tài chính của nền kinh tế tác động đến thị trường tiền tệ từ đó ảnh hưởng tới lãi suất và tỷ giá hối đoái. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất là một trong các loại giá có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội. Lãi suất ảnh hưởng đến phân phối thu nhập của dân cư, đầu tư mở rộng sản xuất của doanh nghiệp và tỷ giá hối đoái. Lãi suất và tỷ giá hố i đ o ái đang là vấn đề quan tâm không chỉ của các nhà hoạch đ ịnh chính sách mà còn là vấn đề quan tâm của xã hội, xoay quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau về mố i quan h ệ g i ữa lãi suất và tỷ giá hối đoái. Sau những nới lỏng nhất định về chính sách tiền tệ (CSTT), thực hiện kích cầu nền kinh tế, những tiềm ẩn lạm phát của nền kinh tế Việt Nam đã được nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước cảnh báo. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế đô la hóa như Việt Nam, thì phải thực hiện một CSTT chủ động, linh hoạt thận trọng trong mối quan hệ với tỷ giá hối đoái là một tất yếu. Bài tiểu luận này chúng em xin đưa ra các quan điểm của các tác giả về mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái qua nhiều thời kỳ phát triển của nền kinh tế trong nước và trên thế giới. Trong tiểu luận này, chúng em sẽ tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái, đồng thời đề xuất ra các giải pháp giảm thiểu rủi ro, định hướng công cụ phát sinh tỷ giá hối đoái trong giai đoạn tới. Với thời gian nghiên cứu không nhiều cũng như khối lượng kiến thức về lãi suất và tỷ giá hối đoái khá lớn, do đó tiểu luận này sẽ khó tránh khỏi có những sai sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy để chúng em hoàn thiện thêm kiến thức về tài chính tiền tệ nói chung và lãi suất , tỷ giá hối đoái nói riêng. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 3
  4. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 CHƯƠ NG I: M ỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 1.1. Lãi suất 1.1.1. Khái niệm Lãi suất là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu. 1.1.2. Vai trò của lãi suất - Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. - Lãi suất là công cụ khuyến khích tiết kiệm và kích thích đầu tư trong nền kinh tế. - Là công cụ đo lường sức khỏe của nền kinh tế: Trong giai đoạn nền kinh tế phát triển, lãi suất thường có xu hướng tăng do cung cầu quỹ cho vay đều tăng nhưng tốc độ tăng của cầu lớn hơn tốc độ tăng của cung, ngược lại khi nền kinh tế suy thoái. 1.1.3. Các loại lãi suất Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, có thể chia lãi suất ra làm nhiều loại. Tuy nhiên có một số loại lãi suất cơ bản sau: - Lãi suất cơ bản: là lãi suất gốc do Ngân hàng Nhà nước đưa ra để các Ngân hàng thương mại căn cứ vào đó để hình thành lãi suất kinh doanh của mình. - Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. - Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá trị ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 4
  5. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 - Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. - Lãi suất danh nghĩa:là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm xem xét, mà chưa loại trừ yếu tố lạm phát. - Lãi suất thực: là số lãi mà người vay phải trả tính theo hàng hóa và dịch vụ thực tế ( đã được loại trừ yếu tố lạm phát). Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát (Dự kiến) 1.1.4. Các nhân tố tác động đến lãi suất - Lạm phát dự tính: Chi phí thực của việc vay tiền được đo một cách chính xác hơn bằng lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Do đó một lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực hiện việc vay tiền giảm xuống nên cầu tiền vay tăng lên. M ặt khác khi lạm phát dự tính tăng lên thì lợi tức dự tính của những khoản tiền gửi giảm xuống. Những người cho vay lập tức chuyển vốn tiền tệ vào một thị trường khác như thị trường bất động sản hay dự trữ hàng hoá, vàng bạc… Như vậy, khi lạm phát dự tính xảy ra lãi suất sẽ tăng. - Sự ổn định của nền kinh tế: Khi nền kinh tế ổn định và phát triển, các cơ hội đầu tư sinh lời tăng lên làm cho nhu cầu vay vốn tăng mạnh. Và của cải cũng tăng lên và sẽ kích thích tăng cung vốn vay. Nếu đường cầu vốn vay dịch chuyển nhiều hơn thì lãi suất cân bằng sẽ tăng lên và ngược lại, đường cung vốn vay dịch chuyển nhiều hơn thì lãi suất cân bằng sẽ hạ xuống. - Mức cung cầu tiền tệ: Lãi suất cân bằng được xác định là giao điểm giữa cung và cầu tiền tệ. - Khi ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua công cụ của nó sẽ làm tăng mức dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất chiết khấu, giảm hạn mức tín dụng -> M ức cung tiền tệ sẽ giảm đi -> Lãi suất tăng. - Khi ngân hàng Trung ương lo sợ sắp có suy thoái thì chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ được thực thi -> Tăng mức cung tiền tệ bằng cách bơm tiền vào lưu thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ -> Lãi suất có xu hướng giảm xuống. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 5
  6. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 - Tỷ giá hối đoái: Khi tỷ giá hối đoái tăng, xuất khẩu tăng lên, nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, tương đương với việc tăng cầu nội tệ kết quả là làm lãi suất tăng lên. - Các chính sách tài chính của Nhà nước: o Chi tiêu của chính phủ. o Chính sách thuế khóa. 1.2. Tỷ giá hối đoái 1.2.1 . Khái niệm tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan giá trị giữa hai đồng tiền với nhau. Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được thể hiện bằng số lượng tiền tệ của một nước khác. Từ khi chấm dứt chế độ bản vị vàng, trong điều kiện của chế độ lưu thông tiền tệ giấy tỷ giá hối đoái hoàn toàn không ổn định. Khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai thì chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods (1944) ra đời với mục đích muốn phục hồi và phát triển kinh tế hệ thống chủ nghĩa tư bản, trước hết là phục hồi và phát triển thương mại quốc tế. Đến đầu những năm 1970 hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods hoàn toàn bị sụp đổ và thay thế nó là chế độ tỷ giá thả nổi được hình thành trên cơ sở diễn biến của cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái thả nổi có vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết thương mại quốc tế và góp phần làm ổn định trở lại nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang có nguy cơ suy thoái. Quốc tế hóa toàn cầu, các quốc gia chịu sự ràng buộc và phụ thuộc ngày càng chặt chẽ lẫn nhau thì một chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do hoàn toàn sẽ chứa đựng tiềm tàng nhiều yếu tố bất lợi, thậm chí gây nguy hiểm cho nền tài chính – tiền tệ quốc gia. Cho đến nay xu thế tất yếu của kinh tế thị trường lá áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 6
  7. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 1.2.2 . Tỷ giá hối đoái gồm nhiều loại khác nhau Tỷ giá chính thức: là loại tỷ giá do NHTW hoặc Viện hối đoái của Nhà nước công bố. Tỷ giá thị trường: là loại tỷ giá được hình thành trên thị trường ngoại tệ một cách công khai và hợp pháp. Tỷ giá thị trường bị chi phối bởi quan hệ cung cầu về ngoại hối. Trong tỷ giá thị trường có phân biệt hai loại: + Tỷ giá mở (cửa) là tỷ giá được công bố vào lúc thị trường giao dịch ngoại hối mở cửa hoạt động. + Tỷ giá đóng (cửa) là tỷ giá hình thành vào thời điểm cuối cùng của phiên giao dịch ngoại tệ. Là tỷ giá phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá kinh doanh ngoại tệ: đó là tỷ giá do các ngân hàng, các tổ chức được phép kinh doanh ngoại tệ công bố gồm tỷ giá mua và tỷ giá bán, trong các loại đó có phân biệt tỷ giá tiền mặt, tỷ giá chuyển khoản; ngoài ra còn tồn tại nhiều loại tỷ giá trong giao dịch kinh doanh ngoại tệ như tỷ giá điện hối, tỷ giá giao ngay, tỷ giá có kỳ hạn, tỷ giá tính chéo v.v... Tỷ giá bình quân Tỷ giá hối đoái danh nghĩa Tỷ giá hối đoái thực Trên thế giới hiện nay có hai cơ chế hình thành tỷ giá: - Tỷ giá có thể biến động trong một giới hạn và biên độ nhất định. NHTW chỉ can thiệp khi tỷ giá vượt khỏi biên độ đó. - Tỷ giá thả nổi: cho phép các ngân hàng được xác định tỷ giá một cách linh hoạt theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Ở Việt Nam: Luật ngân hàng nhà nước cho phép ngân hàng nhà nước xác định và công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam, trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Tỷ giá được công bố bao gồm các hình thức sau đây: - Tỷ giá trần có ý nghĩa khống chế chỉ đạo, không có hoặc có quy định biên độ giao dịch. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 7
  8. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 - Tỷ giá giao dịch cuối ngày hôm trước trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoặc thị trường hối đoái trong nước, có hoặc không có sự can thiệp thị trường. Điều hành tỷ giá hối đoái cố định. Điều hành tỷ giá hối đoái thả nổi tự do. Điều hành tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi. 1.2.3 . Nhân tố tác động đến tỷ giá Tỷ giá hối đoái ở tại một thời điểm là tổng hợp sự tác động của nhiều nhân tố: - Sức mua của các đồng tiền và tốc độ lạm phát ở các nước có liên quan. - Mức độ bội chi ngân sách và tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Thông thường bảng cân đối chi trả thiếu hụt (bội chi) thì tỷ giá hối đoái sẽ tăng, ngược lại bảng cân đối chi trả (bội thu) thì tỷ giá hối đoái sẽ giảm. - Chênh lệnh mức lãi suất giữa các nước có liên quan. - Thực trạng của hoạt động thị trường tài chính - Hệ số tín nhiệm của các đồng tiền trên thị trường tài chính quốc tế: Nếu lưu thông tiền tệ trong nước không ổn định, lạm phát tiền giấy mất giá thì làm cho tỷ giá hối đoái tăng và ngược lại. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là nếu đồng ngoại tệ cũng bị lạm phát hay tăng giá ở nước ngoài (nước phát hành đồng ngoại tệ) thì tỷ giá hối đoái cũng bị ảnh hưởng tương tự. Như vậy sức mua của mỗi đồng tiền có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá, người ta gọi sự ảnh hưởng đó là Lý thuyết đồng giá sức mua (Theory of Purchasing Power parity). GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 8
  9. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 CHƯƠNG II: MỘT SỐ QUI LUẬT VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ LÃI SUẤT 2.1. Một số qui luật 2.1.1 . Qui luật một giá PPP Nếu hai nước sản xuất cùng một loại hàng hóa, giá của hàng hóa này phải giống nhau trên toàn thế giới, không quan trọng nước nào sản xuất ra nó. Ví dụ: Cùng mặt hàng thép: giả sử thép của Mỹ giá 100$/tấn, của Việt Nam là 1.500.000đ/tấn. Theo qui luật trên, tỷ giá của USD/VND phải là 100/1.500.000 =1/15.000, tức là 1USd đổi được 15.000VND . 2.1.2 . Thuyết ngang bằng sức mua (Purchasing Power Parity-PPP) Tỷ giá giữa 2 đồng tiền sẽ điều chỉnh để thực hiện mức giá của 2 nước. Thuyết này dựa trên Qui luật một giá cho mức giá chung của một quốc gia. Như ví dụ trên, giả sử giá bán thép bằng đồng VND tăng giá 10% (1.650.000đ/tấn), theo qui luật một giá tỷ giá phải tăng tương ứng là 16.500d/USD, hay đồng USD tăng giá 10% so với VND. Thuyết ngang bằng sức mua cho thấy nếu mức giá của một quốc gia tăng lên so với nước khác thì đồng tiền của quốc gia đó s ẽ giảm giá - đồng tiền nước kia tăng giá.  Ngang giá sức mua tuyệt (PPP tuyệt đối) Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá của một hàng hóa bán ở bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ như nhau nếu được tính bằng một đồng tiền chung. Và nếu có một sự chênh lệch trong giá cả khi được tính bằng một đồng tiền chung thì mức cầu sẽ dịch chuyển để các giá cả này trở nên cân bằng. Ví dụ: Nếu cùng một sản phẩm được Mỹ và A nh sản xuất, và giá ở Anh thấp hơn khi được tính bằng một đồng tiền chung , cầu của sản phẩm này sẽ tăng ở Anh và giảm đi ở Mỹ. Vì vậy, giá thực tế tính ở mỗi nước hoặc tỷ giá hối đoái có thể điều chỉnh lại hoặc 2 nhân tố này bị tác động đồng thời. Cả hai lực này sẽ làm cho giá của các sản phẩm sẽ giống nhau khi được tính bằng một đồng tiền chung. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 9
  10. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 Trên thực tế, sự hiện hữu của chi phí vận chuyển, thuế nhập khẩu và hạn ngạch có thể ngăn cản hình thức ngang giá sức mua tuyệt đối. Nếu chi phí vận chuyển trong thí dụ này cao, mức cầu đối với sản phẩm có thể không chuyển dịch theo cách nêu trên. Vì vậy, chênh lệch trong giá cả sẽ tiếp tục.  Nhược điểm:  Chỉ dựa trên giá cả của một hàng hóa cụ thể mà đưa ra kết luận chung cho cả nền kinh tế Dựa trên giả định về thị trường cạnh tranh hoàn hảo (trên thực tế vẫn tồn tại chi phí vận chuyển, thuế, hạn ngạch  Ngang giá sức mua tương đối (PPP tương đối) Khắc phục những nhược điểm của PPP tuyệt đối, PPP tương đối xem xét mối quan hệ giữa giá cả các quốc gia trong điều kiện bất hoàn hảo của thị trường chi phí vận chuyển, thuế quan và hạn ngạch, đồng thời dùng chỉ số giá đại diện cho giá cả hàng hóa mỗi nước.  Do các bất hoàn hảo của thị trường nên giá cả của những sản phẩm giống nhau ở các nước khác nhau sẽ không nhất thiết bằng nhau khi tính bằng một đồng tiền chung.  Tỷ lệ thay đổi trong giá cả sản phẩm giống nhau ở các nước khác nhau sẽ phần nào giống nhau khi được tính bằng một đồng tiền chung, miễn là chi phí vận chuyển và các hàng rào mậu dịch là không thay đổi.  Hình thức tương đối của lý thuyết này là một hình thức khác giải thích cho khả năng bất hoàn hảo của thị trường như chi phí vận chuyển, thuế quan và hạn ngạch. Hình thức này công nhận rằng do các bất hoàn hảo của thị trường, giá cả của những sản phẩm giống nhau ở các nước khác nhau sẽ không nhất thiết bằng nhau khi được tính bằng một đồng tiền chung. Tuy nhiên, theo hình thức này, tỷ lệ thay đổi trong giá cả sản phẩm sẽ phần nào giống nhau khi được tính bằng một đồng tiền chung, miễn là chi phí vận chuyển và các hàng rào mậu dịch không thay đổi. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 10
  11. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 2.1.3. Điều kiện ngang bằng lãi suất (Interest Parity Condition) Lãi suất nội địa bằng lãi suất nước ngoài cộng với khoản tăng giá dự tính của đồng tiền nước ngoài. Hay là lãi suất nội địa bằng lãi suất nước ngoài trừ đi sự tăng giá dự tính của đồng nội tệ. Giải thích: khi lãi suất nội địa cao hơn nước ngoài, đồng tiền nước ngoài sẽ tăng giá một khoảng bằn chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền( nhằm đảm bảo ngang giá sức mua). VD: lãi suất trong nước là 15%, lãi suất nước ngoài là 10%, thì đồng tiền nước ngoài phải tăng giá 5% nhằm bù đắp cho lãi suất nước ngoài đang thấp hơn. 2.1.4 . Hiệu ứng Fisher Cùng với lý thuyết ngang giá sức mua, một lý thuyết quan trọng khác trong tài chính quốc tế là lý thuyết hiệu ứng Fisher quốc tế - IFE. Lý thuyết này sử dụng lãi suất (chứ không dùng chênh lệch mức lạm phát) để giải thích tại sao tỷ giá hối đoái thay đổi theo thời gian, nhưng nó có liên quan mật thiết với lý thuyết ngang giá sức mua vì lãi suất thường có sự quan hệ mật thiết với tỷ lệ lạm phát. Do đó, chênh lệch lãi suất giữa các quốc gia có thể là kết quả chênh lệch trong lạm phát. Ta biết rằng nếu có ngang giá lãi suất thì tỷ suất sinh lợi của nhà đầu tư từ kinh doanh chênh lệch lãi suất có phòng ngừa không cao hơn tỷ suất sinh lợi trong nước. Theo điều kiện này, một công ty có tiền mặt ngắn hạn thặng dư có thể vẫn xem xét đầu tư nước ngoài. Chiến lược này có đem đến một tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi trong nước hay không tuỳ thuộc vào điều gì xảy ra cho giá trị của đồng tiền đó. Thí dụ, hãy xem một công ty Mỹ có thể đạt được lãi suất 10% từ ký thác ở một ngân hàng Mỹ so với 12% từ ký thác ở một ngân hàng Anh Để đầu tư vào ký thác A nh, đầu tiên công ty Mỹ này phải đổi đồng đô la Mỹ ra đồng bảng Anh. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 11
  12. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 Sau đó, khi ký thác tới hạn, công ty sẽ nhận đồng bảng A nh và hầu như sẽ phải đổi ngược đồng bảng Anh ra đô la Mỹ. Nếu đồng bảng A nh giảm giá đáng kể trong suốt thời gian công ty Mỹ này giữ ký thác ở A nh, tỷ suất sinh lợị từ ký thác này sẽ thấp hơn tỷ suất sinh lợi từ ký thác Mỹ. Giả dụ rằng các nhà đầu tư ở Mỹ dự kiến tỷ lệ lạm phát là 6%/năm và đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi thực 2%/năm; lãi suất danh nghĩa của tín phiếu kho bạc sẽ là 8%/năm. Nếu các nhà đầu tư ở tất cả mọi quốc gia đề đòi hỏi tỷ suất sinh lợi thực như nhau cho một năm, lúc đó chênh lệch trong các lãi suất danh nghĩa giữa bất kỳ hai nước nào cũng biểu thị cho chênh lệch lạm phát tương ứng giữa hai nước đó. Giả dụ lãi suất danh nghĩa là 8% ở Mỹ và 5% ở Nhật. Nếu các nhà đầu tư ở cả hai nước này đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi thực là 2%, lúc đó chênh lệch lạm phát dự kiến là 3% (6% ở Mỹ - 3% ở Nhật) theo lý thuyết ngang giá sức mua, đồng yên Nhật sẽ được dự kiến tăng giá bằng chênh lệch lạm phát dự kiến là 3%. Nếu tỷ giá hối đoái thay đổi như dự kiến, các nhà đầu tư Nhật cố gắng vốn hoá trên lãi suất cao hơn ở Mỹ sẽ đạt được một tỷ suất sinh lợi tương tự như tỷ suất sinh lợi mà đáng leõ họ sẽ đạt được ở nước họ. Trong khi lãi suất ở Mỹ cao hơn 3%, các nhà đầu tư Nhật sẽ mua đồng yên vào nhiều hơn mức bán đồng yên ra là 3%. Để củng cố khái niệm này, giả dụ rằng lãi suất danh nghĩa ở Canada là 13%. Cho rằng các nhà đầu tư ở Canada cũng đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi thực là 2%, mức lạm phát dự kiến ở Canada phải là 11%. Theo lý thuyết ngang giá sức mua, đồng đô la Canada sẽ giảm giá khoảng 5% so với đồng đô la (do tỷ lệ lạm phát ở Canada cao hơn 5%). Vì vậy các nhà đầu tư Mỹ sẽ không được lợi từ việc đầu tư ở Canada vì chênh lệch lãi suất 5% vào cuối kỳ. Các nhà đầu tư Mỹ sẽ kiếm được 8% từ đầu tư Canada, bằng với mức độ họ có thể đạt được ở Mỹ. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 12
  13. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 Theo thông tin này, chênh lệch lạm phát dự kiến giữa Canada và Nhật là 8%. Theo lý thuyết ngang giá sức mua, chênh lệch lạm phát này cho thấy đồng đô la Canada sẽ giảm giá 8% so với đồng yên. Vì vậy, ngay cả khi đối với các nhà đầu tư Nhật sẽ kiếm thêm được một lãi suất 8% từ một đầu tư ở Canada, đô la Canada sẽ bị giảm giá 8% vào cuối kỳ. Theo các điều kiện này, các nhà đầu tư Nhật sẽ đạt được tỷ suất sinh lợi 5%, bằng với tỷ suất sinh lợi mà họ sẽ đạt được từ một đầu tư ở Nhật. Các cơ hội đầu tư có thể có này cùng với một vài cơ hội khác được tóm tắt trong bảng 2.11. Lưu ý rằng dù các nhà đầu tư của một nước cho sẵn đầu tư ở bất kỳ nơi nào, tỷ suất sinh lợi danh nghĩa dự kiến đều bằng nhau. Mối liên hệ chính xác giữa chênh lệch lãi suất của hai nước và thay đổi tỷ giá hối đoái dự kiến theo hiệu ứng Fisher quốc tế có thể được diễn đạt như sau. Đầu tiên, tỷ suất sinh lợi thực sự cho các nhà đầu tư, đầu tư vào chứng khoán thị trường tiền tệ (như ký thác ngân hàng ngắn hạn) ở nước họ chỉ là lãi suất của các chứng khoán đó. Tuy nhiên, tỷ suất sinh lợi thực sự của các nhà đầu tư đầu tư vào chứng khoán thị trường tiền tệ nước ngoài tuỳ thuộc không chỉ vào lãi suất nước ngoài (if) mà còn vào phần trăm thay đổi trong giá trị của ngoại tệ (ef) của chứng khoán. Công thức tính tỷ suất sinh lợi thực sự (đã điều chỉnh theo tỷ giá hối đoái) còn gọi là tỷ suất sinh lợi có hiệu lực từ ký thác ở một ngân hàng nước ngoài (hay bất kỳ chứng khoán thị trường tiền tệ nào) là: r = (1 + if)(1+ef) – 1 Theo lý thuyết hiệu ứng Fisher quốc tế, tỷ suất sinh lợi từ đầu tư trong nước tính trung bình sẽ bằng tỷ suất sinh lợi có hiệu lực từ đầu tư nước ngoài. Tức là: r = ih Trong đó r là tỷ suất sinh lợi có hiệu lực từ ký thác nước ngoài và ih là lãi suất ký thác trong nước. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 13
  14. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 Chúng ta có thể xác định mức độ mà đồng ngoại tệ phải thay đổi để làm cho đầu tư ở cả hai nước cùng có tỷ suất sinh lợi bằng nhau. Lấy công thức tính r và cho r bằng ih ta có : r = (1 + if )(1 + ef ) – 1 = ih Bây giờ ta tìm ef : (1 + if )(1 + ef ) = (1 + ih ) (1 i h ) ef  (1 i h ) 1 (1 ef )  (1  if ) (1  i f )  Như được chứng minh ở đây, lý thuyết hiệu ứng Fisher quốc tế khẳng định khi ih > if ; ef sẽ dương. Tức là, đồng ngoại tệ sẽ tăng giá khi lãi suất nước ngoài thấp hơn lãi suất trong nước. Sự tăng giá này sẽ cải thiện tỷ suất sinh lợi từ nước ngoài cho các nhà đầu tư trong nước, làm cho tỷ suất sinh lợi chứng khoán nước ngoài tương tự với tỷ suất sinh lợi từ chứng khoán trong nước. Ngược lại, khi ih
  15. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 Điều này sẽ làm cho tỷ suất sinh lợi từ đầu tư nước ngoài bằng với tỷ suất sinh lợi từ đầu tư trong nước.  Một công thức đơn giản hoá nhưng không chính xác bằng hiệu ứng Fisher quốc tế là: ef =ih – if. Tức là, phần trăm thay đổi tỷ giá hối đoái trong thời kỳ đầu tư sẽ bằng chênh lệch lãi suất giữa hai nước. Thí dụ, nếu lãi suất cho ký thác 6 tháng của A nh cao hơn của Mỹ 2%, đồng bảng Anh sẽ giảm khoảng 2% qua 6 tháng theo hiệu ứng Fisher quốc tế. Nếu điều này xảy ra, các nhà đầu tư Mỹ sẽ thu được tỷ suất sinh lợi từ ký thác Anh bằng với tỷ suất sinh lợi từ ký thác Mỹ. Như vậy, đầu tư nước ngoài sẽ không có lợi dù cả khi đầu tư nước ngoài có một mức lãi suất cao hơn đầu tư trong nước. Ngang giá sức mua không đúng ở một thời kỳ nào đó. Hiệu ứng Fisher quốc tế căn cứ ngang giá sức mua, nên nó cũng không luôn luôn đúng. 2.1. Mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái 2.2.1 . Dựa trên lý thuyết ngang giá lãi suất Lý thuyết ngang giá lãi suất: M ối quan hệ giữa lãi suất trên thị trường tiền tệ với tỷ giá trên thị trường hối đoái sẽ được hiểu rõ thông qua việc nghiên cứu hiệu ứng Fisher quốc tế (International Fisher Effect) và lý thuyết ngang giá lãi suất. Hai lý thuyết này khác nhau ở các hàm ý: - Lý thuyết ngang giá lãi suất chú ý luận giải vì sao tỷ giá kỳ hạn khác với tỷ giá giao ngay và mức độ chênh lệch sẽ có. Lý thuyết này liên quan đến một thời điểm nhất định (tỷ giá kỳ hạn), khẳng định tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng sự sai biệt trong lãi suất. - Theo lý thuyết ngang giá về lãi suất, đồng tiền của một quốc gia nào đó có lãi suất thấp hơn thì nhất định sẽ là bù kỳ hạn cho hợp đồng kỳ hạn đối với đồng tiền của một quốc gia nọ có lãi suất cao hơn. Nói cách khác, trừ kỳ hạn hoặc bù kỳ hạn trên giá kỳ hạn là xấp xỉ tương đương với chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Ngược lại, hiệu ứng Fisher quốc tế chú trọng đến việc tỷ giá giao ngay của một đồng tiền sẽ thay đổi theo thời gian, khẳng định rằng tỷ giá giao ngay sẽ thay đổi theo chênh lệch lãi suất giữa hai nước. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 15
  16. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 Từ phân tích theo lý thuyết ngang giá lãi suất và hiệu ứng Fisher quốc tế, có thể thấy rằng lãi suất là công cụ giúp các nhà quản trị tài chính dự đoán và xác định tỷ giá trong tương lai để hoạch định chiến lược phòng chống rủi ro và chiến lược kinh doanh hiệu quả. Lãi suất đóng vai trò quan trọng trên thị trường hối đoái bởi vì các khoản tiền gởi lớn được buôn bán tại đó đều được trả lãi, mỗi khoản có một lãi suất, tùy theo đồng tiền mà nó được định danh. Lợi tức của các khoản tiền gởi được mua bán trên thị trường hối đoái phụ thuộc vào lãi suất và các thay đổi dự kiến của tỷ giá hối đoái. Sự cân bằng thị trường hối đoái đòi hỏi sự ngang bằng về tiền lãi, điều kiện mà theo đó lợi tức dự kiến của các khoản tiền gởi của hai loại tiền bất kỳ là tương đương thì được đo bằng một loại tiền (nghĩa là đo bằng các đơn vị có thể so sánh với nhau được). Chỉ khi tất cả các tỷ suất lợi tức dự kiến đều bằng nhau, tức là khi đó điều kiện ngang bằng tiền lãi, thì sẽ không có tình trạng dư cung về một số dạng tiền gởi nào đó và cũng không có tình trạng dư cầu về một số loại tiền gởi khác. Thị trường hối đoái sẽ cân bằng khi không một loại tiền gởi nào ở trong tình trạng dư cầu hoặc dư cung. Do vậy, có thể nói rằng thị trường tỷ giá hối đoái sẽ cân bằng khi có điều kiện ngang bằng về tiền lãi. Khi phân tích lãi suất tác động đến tỷ giá, chúng ta dựa trên nguyên tắc cetacis paribas, nghĩa là khi nghiên cứu tác động của một nhân tố thì chúng ta cố định các nhân tố khác. Đó là cách làm để đơn giản hóa việc phân tích. Tuy nhiên, các yếu tố có tác động lẫn nhau, vì vậy ảnh hưởng đồng thời của chúng đối với vấn đề nghiên cứu rất phức tạp. Phân tích hồi quy thường được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng đã qua của một hay nhiều yếu tố đối với đối tượng nghiên cứu. Điều này hàm ý là sự thay đổi về tỷ giá hối đoái tương lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố thay vì chỉ phụ thuộc vào lãi suất. Do đó, trong khi lý thuyết ngang bằng tiền lãi có vẻ hợp lý, thực tế không luôn luôn xảy ra như vậy. Các ảnh hưởng khác có thể bù trừ các ảnh hưởng của một nhân tố nào đó. Dù sao chăng nữa, lý thuyết ngang giá lãi suất có tầm quan trọng đến độ cho phép người ta dùng nó để khái quát ảnh hưởng của các nhân tố đến việc thay đổi dự kiến của tỷ giá. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 16
  17. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 Khi nghiên cứu phân tích, chúng ta thường né tránh các vấn đề phức tạp có liên quan đến nội dung nghiên cứu bằng cách giả định “nếu mọi điều kiện khác đều như nhau”, tuy nhiên khi xem xét các trường hợp cụ thể, thì thấy rằng “mọi điều kiện khác” thường không như nhau. Trong thực tế, tỷ giá thị trường thường lệch khỏi tỷ giá được hình thành trên cơ sở ngang giá lãi suất, bởi lẽ trạng thái cân bằng lãi suất của tỷ giá chỉ tồn tại trong một số điều kiện nhất định như chu chuyển vốn trên thị trường tài chính phải hoàn toàn tự do, chi phí giao dịch bằng không (0), rủi ro trong đầu tư vào các tài sản tài chính bằng nhau…Trong các nền kinh tế, các điều kiện này rất khó tồn tại như nhau làm cho mối quan hệ ngang giá lãi suất không thể được duy trì chính xác mọi lúc, mọi nơi. Cho dù ngang giá lãi suất có thể không được duy trì trong thực tế, thì nó vẫn có thể đóng một vai trò hữu ích trong phân tích kinh tế. Thứ nhất, người ta có thể sử dụng tỷ giá xác định theo ngang giá lãi suất như là chuẩn để quyết định xem đồng tiền của một nước là dưới giá hay quá giá so với đồng tiền khác. Thứ hai, người ta có thể thường xuyên làm những so sánh quốc tế có ý nghĩa các số liệu kinh tế, sử dụng tỷ giá xác định theo ngang giá lãi suất hơn là tỷ giá do thị trường xác định. Những điều kiện diễn giải trên cho thấy rằng, sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái dự kiến trong tương lai phụ thuộc vào các nguyên nhân kinh tế của sự thay đổi về lãi suất. Chúng ta thấy các tỷ giá hối đoái luôn luôn điều chỉnh để duy trì sự ngang bằng tiền lãi. Làm thế nào để điều chỉnh tỷ giá hối đoái? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ so sánh các mối quan hệ có khả năng khác nhau giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái dự kiến trong tương lai và việc tỷ giá hối đoái sẽ được sử dụng thế nào cùng với lãi suất để tính ra các tỷ suất lợi tức có thể so sánh được. Tỷ giá hối đoái được xác định tại thị trường ngoại hối. Thị trường hối đoái sẽ cân bằng khi các khoản tiền gởi của mọi loại tiền đều có một tỷ suất lợi tức dự kiến như nhau, điều kiện mà theo đó những người nắm giữ các khoản tiền gởi ngoại tệ tiềm năng sẽ coi các khoản tiền nầy như những tài s ản được mong muốn như nhau, sẵn sàng nắm giữ tất cả các nguồn cung ứng tiền gởi hiện có của mọi đồng tiền. Nói cách khác, một tỷ giá hối đoái ổn định được thị trường sẽ là một tỷ giá khiến cho những người tham gia thị trường bằng lòng nắm giữ các nguồn cung ứng hiện có về GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 17
  18. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 các khoản tiền gởi bằng tất cả các đồng tiền. Như vậy, tỷ giá cân bằng được xác định theo nhu cầu đối với ngoại tệ. Vì tỷ giá hối đoái là giá tương đối của hai tài sản, nên hợp lý nhất là coi chúng như một loại giá tài sản. Nguyên lý cơ bản của việc định giá tài sản là ở chỗ giá trị hiện tại của tài sản, phụ thuộc vào sức mua tương lai dự kiến của chúng. Khi đánh giá tài sản, người tiết kiệm xem xét tỷ suất lợi tức dự kiến mà tài s ản đó mang lại, tức là tỷ suất mà theo đó giá trị của một khoản đầu tư vào tài sản dự kiến sẽ tăng lên qua một thời gian. 2.2.2. Dựa vào công cụ điều chỉnh tỷ giá Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của nôi tệ. Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước, nếu lãi suất trong nước cao hơn so với lãi suất nước ngoài hay lãi suất ngoại tệ sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy vào hay sẽ làm chuyển lượng hóa ngoại tệ trong nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn. Điều này làm cho tăng cung ngoại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội tệ sẽ tăng giá. Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi suất nươc ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá trên thị trường hay đồng nội tệ sẽ giảm giá. Về cơ bản, những trình bày trên đây chỉ đúng với các nền kinh tế mở (open economy), nơi có đồng tiền chuyển đổi và tự do lưu chuyển vốn. Về mặt lý thuyết, nếu lãi suất nước ngoài cao hơn, thì dẫn đến xuất khẩu tiền tệ, và trong trường hợp ngược lại, là nhập khẩu tiền tệ. Thực chất, những khác biệt về lãi suất chỉ dẫn tới sự chuyển đổi vốn, và kết quả là dẫn tới sự thay đổi về tỷ giá, nếu dự đoán về lợi nhuận, lãi suất thu được do đầu tư tiền tệ không được đảm bảo hay do việc nhân tín dụng bằng ngoại tệ không cân bằng, bởi những mất mát về tỷ giá. Một khi còn tồn tại những mối lo ngại như vậy, thì ngay cả khi có sự khác biệt lớn về lãi suất cũng không thể dẫn tới sự chuyển đổi vốn đến mức giảm lãi suất. GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 18
  19. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 Dự đoán về một quá trình phát triển tỷ giá đảo ngược để dẫn tới chênh lệch về lãi suất thường xuất hiện khi xem xét lãi suất danh nghĩa của một đồng tiền chứ không phải là lãi suất thực, tức là khi chiết trừ tỷ lệ lạm phát thì đồng tiền với lãi suất danh nghĩa thấp lại có lãi suất thực cao hơn và ngược lại. Thí dụ, đồng tiền A có lãi suất 10%/năm và tỷ lệ tăng giá là 9%/năm; đồng tiền B có lãi suất là 8%/năm và tỷ lệ lạm phát là 5%/năm, như vậy lãi suất danh nghĩa của đồng tiền A cao hơn của đồng tiền B là 2%/năm, nhưng lãi suất thực thì ngược lại, lãi suất của đồng tiền B lại cao hơn so với đồng tiền A là 2%/năm. Theo cách phân tích này, chỉ có lãi suất thực mới tạo ra được sự nhập vốn; ngược lại, khi đồng tiền có lãi suất thực thấp thì sẽ dẫn tới hiện tượng nhận tín dụng, bởi vì người ta hy vọng rằng, khi thanh toán tín dụng người ta chỉ cần phải chi phí ít đơn vị nội tệ để mua lại số ngoại tệ đã vay, thậm chí còn ít hơn cả khi chưa trao đổi giá trị tín dụng. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, mức lãi suất cao là công cụ để chống lạm phát và nó thường được sử dụng để đáp ứng yêu cầu can thiệp vào nền kinh tế. Ngoài ra, chính sách lãi suất còn được sử dụng vào mục đích điều chỉnh giá trị đối ngoại của nội tệ. Phương pháp dùng lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể nó là phương pháp thường được sử dụng với mong muốn có những thay đổi cấp thời về tỷ giá. Cơ chế tác động của công cụ này đến tỷ giá hối đoái như sau: Trong thế cân bằng ban đầu của cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khi lãi suất tái chiết khấu thay đổi, sẽ kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó, tác động đến xu hướng dịch chuyển của các dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn (trong cán cân thanh toán quốc tế) hoặc ít nhất cũng làm những người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể, nếu lãi suất tăng sẽ dẫn đến xu hướng là một đồng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và những người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có khuynh hướng chuyển đổi đồng ngoại tệ của mình s ang nội tệ để thu lãi cao hơn. Kết quả là tỷ giá giảm (đồng nội tệ tăng). Trong trường hợp ngược lại, nếu muốn tỷ giá tăng thì sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu. * Những hạn chế GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 19
  20. Đề tài số 6: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất _ Nhóm 12 Cách làm này cũng có những hạn chế nhất định, bởi lẽ lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau. Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi suất có thể biến động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một tình hình đặc biệt, có thể vượt quá tỷ suất lợi nhận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định. Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến động của lãi suất (lên cao chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến tỷ giá hối đoái biến động theo (hạ xuống chẳng hạn). Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nhưng khi tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước không ổn định, thì không nhất thiết thực hiện được, bởi vì với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm bảo an toàn cho số vốn chứ không phải là vấn đề thu hút được lãi nhiều. Để minh hoạ vấn đề này, có thể sử dụng hai ví dụ điển hình trong lịch sử: + Một là, trước thế chiến 2, A nh là một trong những nước điển hình về việc sử dụng lãi suất chiết khấu để can thiệp vào thị trường hối đoái và đã thu được nhiều kết quả đáng kể, do nền kinh tế và tiền tệ nước Anh lúc đó khá ổn định. + Hai là, có thể lấy cuộc khủng hoảng USD thời kỳ 1971-1973 làm ví dụ. Tổng thống Mỹ Nixon, đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Vào lúc này, mặc dù lãi suất trên thị trường New York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 lần thị trường Frankfurk, nhưng vốn ngắn hạn cũng không được chuyển vào Mỹ mà lại đưa đến Tây Đức và Nhật Bản, dù rằng các nước này thực hiện chính s ách lãi suất thấp, vì lúc đó USD đang đứng bên bờ của nguy cơ mất giá. Như vậy, chính sách lãi suất chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có giới hạn đối với tỷ giá hối đoái, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất chỉ có quan hệ lôgic chứ không phải quan hệ nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố duy GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2