intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận:Quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ 1986-1995

Chia sẻ: Bcjxc Gdfgf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

322
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việt Nam – một đất nước nhỏ bé đã trải qua bao cuộc chiến tranh mới có được sự phát triển như ngày nay. Trong bối cảnh hiện nay, mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước lớn trên thế giới được quan tâm hơn bao giờ hết, đặc biệt là mối quan hệ với Mỹ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận:Quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ 1986-1995

  1. HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO VIỆT NAM BỘ MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI Tiểu luận QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ 1986-1995 Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Trang Lớp / khoá: D33 Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2009
  2. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1 2. Mục đích – giới hạn nghiên cứu ........................................................... 1 3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................ 2 NỘI DUNG ................................................................................................... 3 I. Khái quát quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ từ 1945 đến 1986 ............. 3 II. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ 1986-1995 .................................... 5 1. Những thay đổi của môi trường quốc tế ............................................... 5 2. Điều chỉnh chính sách của Việt Nam .................................................... 7 a. Chính sách đổi mới, mở cửa của Việt Nam ........................................... 7 b. Vị trí của Mỹ trong CSĐN của Việt Nam .............................................. 9 3. Điều chỉnh chính sách của Mỹ.............................................................. 10 a. Những lợi ích của Mỹ trong quan hệ với Việt Nam – Vị trí của Việt Nam trong CSĐN của Mỹ.................................................................. 10 b. Thay đổi trong chính sách của Mỹ - Quá trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ ..................................................................................... 11 4. Đánh giá ............................................................................................... 13 KẾT LUẬN ................................................................................................... 15 Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................... 16
  3. LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam – một đất nước nhỏ bé đã trải qua bao cuộc chiến tranh mới có được sự phát triển như ngày nay. Trong bối cảnh hiện nay, mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước lớn trên thế giới được quan tâm hơn bao giờ hết, đặc biệt là mối quan hệ với Mỹ. Quan hệ Việt – Mỹ vốn lả mối quan hệ phức tạp, có từ rất lâu đời. Một siêu cường trên thế giới và một nước đang phát triển ở châu Á - một nước đi xâm lược và một nước bị xâm lược, từ thù địch lẫn nhau nay đã có quan hệ hợp tác tốt đẹp. Quan hệ Việt – Mỹ trải qua rất nhiều thăng trầm với nhiều giai đoạn và tính chất khác nhau. Mối quan hệ này được rất nhiều nhà nghiên cứu, các chuyên gia của cả 2 nước và trên cả thế giới phân tích, bình luận. Là một sinh viên Học viện ngoại giao, người viết cũng rất quan tâm đến vấn đề này. 2. Mục đích – giới hạn nghiên cứu Hơn 20 năm sau khi cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam kết thúc, ngày 11/7/1995, quan hệ Việt - Mỹ mới được chính thức thiết lập mặc dù những nỗ lực bình thường hoá quan hệ giữa hai nước đã được bắt đầu không lâu sau chiến tranh. Quan hệ hai nước phải trải qua một giai đoạn thù địch và đối đầu với chính sách cấm vận của Mỹ áp đặt lên Việt Nam trong suốt hơn hai thập kỷ. Cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, những chuyển biến lớn lao trên thế giới và ở khu vực cùng với chính sách đổi mới toàn diện của Việt Nam đã buộc Mỹ phải có điều chỉnh chính sách cơ bản đối với Việt Nam, khởi đầu tiến trình bình thường hoá quan hệ giữa hai quốc gia. Với đề tài “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ 1986 - 1995”, người viết muốn làm rõ hơn những thay đổi trong chính sách của cả hai nước cùng với những biến đổi của môi trường quốc tế trong thời gian này – những nhân tố dẫn đến sự kiện bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ năm 1995. Bài tiểu luận tập trung vào giai đoạn từ 1986 đến 1995. Sở dĩ như vậy là bởi năm 1986 đánh dấu một bước phát triển lớn trong chính sách của Việt Nam – năm bắt đầu Đổi mới tư duy toàn diện và năm 1995 là năm đánh dấu mối quan hệ Việt – Mỹ được nâng lên tầm cao mới. 1
  4. 3. Nội dung nghiên cứu Với đề tài như trên, bên cạnh phần Mở đầu và Kết luận, bài tiểu luận được chia thành các mục sau: I. Khái quát quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ từ 1945 đến 1986: Phần này nêu khái quát lại mối quan hệ giữa 2 nước kể từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, xuyên suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam và đến nửa đầu thập kỷ 80. II. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ 1986-1995 1. Thay đổi của môi trường quốc tế: Phần này nghiên cứu những thay đổi của bối cảnh thế giới cũng như khu vực trong thập niên 80 và 90, những xu thế phát triển mới của thế giới, một yếu tố quan trọng dẫn đến sự thay đổi trong chính sách của Việt Nam và Hoa Kỳ. 2. Điều chỉnh chính sách của Việt Nam: Phần này tập trung vào chính sách đổi mới toàn diện của Việt Nam bắt đầu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nói chung và vị trí quan trọng của nước Mỹ trong chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng. 3. Điều chỉnh chính sách của Mỹ: Phần này nêu những lợi ích Mỹ có được khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và vị trí của Việt Nam trong chính sách của Mỹ, cùng với những thay đổi chính sách của Mỹ từ những năm 1990. 4. Đánh giá: Phần này đưa ra kết luận về mối quan hệ Việt – Mỹ từ xưa đến nay và vị trí của Việt Nam hiện nay. Do thời gian nghiên cứu không dài, nguồn tài liệu chưa đầy đủ và trình độ - kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của Thầy cô và các bạn để hoàn thiện hơn bài tiểu luận này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 4 năm 2009. 2
  5. PHẦN NỘI DUNG I. Khái quát quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ 1945 đến 1986 Quan hệ Việt – Mỹ là mối quan hệ tương đối phức tạp và có từ khá sớm, không phải bắt nguồn từ khi Mỹ chiếm đánh Việt Nam, mà còn xa trước đó nữa trong lịch sử. Mối quan hệ này bắt nguồn từ sự quan tâm về kinh tế thương mại của hơn 1 thế kỉ không được khai thông. Khi nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những hành động thiện chí kêu gọi Mỹ công nhận và ủng hộ nền độc lập Việt Nam, ngăn chặn âm mưu xâm lược của thực dân Pháp: “Chúng tôi yêu cầu nước Mỹ với tư cách là những người bảo vệ và chiến sĩ công bằng thế giới có bước quyết định ủng hộ nền độc lập của chúng tôi”1. Nhưng Mỹ từ chối vì những cam kết trong Chiến tranh lạnh ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, không những thế Mỹ còn giúp đỡ Pháp trong cuộc chiến tranh tại Đông Dương. Sau khi Pháp thất bại ở Việt Nam, Mỹ ngày càng lấn sâu vào chiến trường miền Nam Việt Nam. Mỹ và 1 số nước đồng minh như Anh, Pháp.. lập ra khối liên minh quân sự Đông Nam Á SEATO và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này. Thông qua chính quyền và quân đội tay sai ở miền Nam Việt Nam và sau đó Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam. Mỹ bước vào 1 cuộc chiến tranh phi nghĩa và dài ngày nhất trong lịch sử nước Mỹ. Cuộc chiến tranh của Mỹ đã cướp đi sinh mạng của hơn 3 triệu con người Việt Nam và để lại nhiều hậu quả nặng nề, dai dẳng đối với kinh tế và xã hội Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, nước Mỹ đã thất bại và phải trả giá cho những tham vọng và quyết định sai lầm của giới lãnh đạo Mỹ. Hơn 58.000 lính Mỹ đã tử trận ở Việt Nam để lại một vết thương nặng nề, một sự chia rẽ sâu sắc trong nước Mỹ mà người ta thường gọi là ‘Hội chứng Việt Nam’ . Hiệp định Paris được kí kết ngày 27/1/1973 chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, đánh dấu thất bại hoàn toàn của Mỹ trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Mỹ rút quân về nước và bắt đầu thực hiện chính sách bao vây cấm vận toàn diện Việt Nam. Không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, do đặt nhu cầu khôi phục và phát triển đất nước lên hàng đầu, Việt Nam đã chủ động bình thường hoá quan hệ (BTHQH) với Mỹ. Tháng 6/1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đề nghị Mỹ xúc tiến bình thường hoá 1 Chủ tich Hồ Chí Minh và công tác ngoại giao, NXB Sự thật, Hà Nội, 1994. 3
  6. với điều kiện là Mỹ bồi thường chiến tranh, có trách nhiệm hàn gắn và xây dựng lại Việt Nam sau chiến tranh. Tuy nhiên, dưới chính quyền Ford, phía Mỹ chưa đáp ứng với đề nghị bình thường hoá của Việt Nam. Quan hệ Việt - Mỹ trở nên bớt căng thẳng hơn khi Tổng Thống (TT) Jimmy Carter lên nắm quyền, chính quyền Carter đã có những cử chỉ nhằm cải thiện mối quan hệ của 2 nước. Bình thường hoá quan hệ với Việt Nam nằm trong ưu tiên của Carter. Hơn nữa, bộ trưởng Ngoại giao Cyrus Vance và trợ lý ngoại trưởng về Đông Á và Thái Bình Dương Richard Holbrook cho rằng việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam sẽ giúp giảm sự lệ thuộc của Việt Nam vào Liên Xô và Trung Quốc cũng như giúp Việt Nam hội nhập vào ASEAN. Đây là những tính toán của chính quyền Carter đằng sau chủ trương bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Ngày 16/3/1977, TT đã cử phái đoàn sang thăm dò khả năng BTHQH với Việt Nam. Quá trình bình thường hóa gặp nhiều khó khăn và trắc trở. Mỹ muốn bình thường hóa vô điều kiện nhưng Việt Nam không đồng ý. Việt Nam đòi Mỹ bồi thường thiệt hại chiến tranh và tất nhiên 1 cường quốc lớn và đầy kiêu hãnh như Mỹ sẽ không chấp thuận. Trong hai năm 1977-1978, hai bên Việt Nam và Mỹ đã có nhiều cuộc đàm phán tiếp xúc nhằm BTHQH, song quan điểm của 2 bên vẫn không thống nhất được và cuối cùng những nỗ lực bình thường hóa đầu tiên đã không đạt được kết quả. Những thay đổi trong tình hình thế giới và khu vực vào cuối năm 1978 đã có tác động bất lợi đối với tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ trong những năm tiếp theo. Mặc dù sau đó, Việt Nam đã chủ động rút bỏ điều kiện đòi Mỹ bồi thường chiến tranh và đóng góp xây dựng nước Việt Nam hậu chiến nhưng Mỹ từ chối đàm phán do những tính toán chiến lược mới của Mỹ. Những sự kiện như quan hệ Xô - Trung căng thẳng, Việt Nam đưa quân và Campuchia (CPC), quan hệ Việt - Trung xấu đi tạo động lực khiến Mỹ xích lại gần Trung Quốc. Cơ hội bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã không còn. Như vậy, trong thời gian này, vấn đề CPC cùng với việc Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đã làm cho quan hệ Việt – Mỹ băng giá trở lại. Quân tình nguyện Việt Nam sang giúp chính quyền CPC lật đổ Polpot, nhưng kẻ thù lại cho rằng Việt Nam đã xâm lược CPC. Vấn đề CPC trở thành cái cớ để Mỹ và các nước thực hiện chính sách bao vây cấm vận đối với Việt Nam. Hoa Kỳ đưa ra 2 vấn đề làm 4
  7. điều kiện tiên quyết cho BTHQH : vấn đề CPC và vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh – MIA/POW. Quan hệ hai nước tiếp tục trong trạng thái thù địch cho đến nửa cuối thập kỷ 80. II. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ 1986-1995 1. Những thay đổi của môi trường quốc tế Những năm 1980s, tình hình chính trị thế giới có nhiều thay đổi. Đầu thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ đạt tới đỉnh điểm. Sau đó, quan hệ 2 nước chuyển dần đến đối thoại thay vì đối đầu. Quan hệ của Mỹ và Liên Xô với Trung Quốc cũng bắt đầu vào giai đoạn hòa hoãn. Các nước tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa dần dần hòa nhập với nhau. Quan hệ giữa các nước lớn tương đối tốt đẹp. Kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng. Điển hình là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ (CMKHCN) và quá trình toàn cầu hóa. Cuộc CMKHCN có bước nhảy vọt với sự bùng nổ thành tựu trong các ngành điện tử tin học, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học…tác động sâu sắc đến tình hình kinh tế, chính trị xã hội và quan hệ quốc tế. Sự phát triển kinh tế ngày càng phụ thuộc vào yếu tố tri thức-trí tuệ dẫn đến sự hình thành của nền kinh tế tri thức. Phát triển kinh tế trị thức tạo ra những thay đổi lớn không chỉ trong đời sống kinh tế-xã hội mà cả trong so sánh lực lượng và vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ. Xu hướng tự do hóa kinh tế thế giới đạt được những bước phát triển mới. Cùng với sự chuyển biến của quốc tế thì tình hình khu vực cũng không kém phần phức tạp. Kinh tế khu vực phát triển năng động. Chính trị cũng có sự thay đổi sâu sắc, riêng đối với vấn đề Campuchia đã có dấu hiệu tìm ra cách giải quyết. Vai trò của ASEAN đối với các vấn đề về khu vực cũng được thể hiện rõ nét hơn. Sau chiến tranh lạnh, tình hình thế giới có những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp. Trước hết, chủ nghĩa xã hội (CNXH) và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu sắc mà đỉnh cao là sự sụp đổ CNXH ở Đông Âu, Liên Xô. CNXH hiện thực thoái trào, trật tự thế giới 2 cực Xô - Mỹ đổ vỡ làm đảo lộn cục diện thế giới, tương quan lực lượng nghiêng về phía có lợi cho CNTB. Chiến tranh lạnh kết thúc, quá trình hình thành trật tự thế giới mới chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó đoán định. Phương thức liên minh và tập hợp lực lượng giữa các 5
  8. nước thay đổi, trở nên rất cơ động và linh hoạt, lợi ích quốc gia nổi lên hàng đầu chi phối quan hệ quốc tế hiện đại. Trong tình hình đó, tất cả các nước đều tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại (CSĐN) theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, tìm cách hội nhập với khu vực và thế giới vì mục tiêu phát triển. Cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra gay gắt. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, những bất ổn do mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ khủng bố xảy ra ở nhiều nơi, nhất là tại các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, ngày càng xuất hiện nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống cung với sự gay gắt thêm cuả những vấn đề mang tính toàn cầu bức xúc, đòi hỏi phải có hợp tác sâu rộng của tất cả các nước cùng giải quyết. Các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn là nhân tố quan trọng tác động đến sự phát triển thế giới. Tuy nhiên, các nước lớn không phải là một khối thống nhất mà là một tập hợp đầy mâu thuẫn. Sau Chiến tranh lạnh, các nước đều điều chỉnh chiến lược để mở rộng ảnh hưởng, giành giật lợi ích về nhiều mặt. Quan hệ giữa họ diễn ra theo chiều hướng vừa đấu tranh vừa thỏa hiệp và vì lợi ích của mình, nhìn chung các nước lớn đều tránh đối đầu với Mỹ. Vấn đề đặt ra trong CSĐN của các nước đang phát triển là làm sao vừa tranh thủ được quan hệ với các nước lớn để phát triển vừa không để các nước này thâu tóm, áp đặt hoặc gây bất lợi trong quan hệ quốc tế. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương và đặc biệt là Đông Nam Á có sự phát triển năng động được cả thế giới quan tâm, đánh giá cao. Song tại đây cũng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước, những bất ổn về kinh tế-chính trị-xã hội ở một số nước. Tóm lại, thế giới vận động theo nhìêu xu thế đan xen phức tạp, trong đó nổi lên các xu thế cơ bản sau: - Hòa bình ổn định hợp tác và phát triển là một xu thế lớn, phản ánh những đòi hỏi bức xúc của các dân tộc trên thế giới. Các nước đều dành ưu tiên và coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp, đồng thời chú trọng sự ổn định chính trị và hợp tác quốc tế. - Các quốc gia lớn nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác, liên 6
  9. kết khu vực và quốc tế về kinh tế, chính trị, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Hợp tác ngày càng tăng, nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt, quyết liệt. - Các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng QHQT. - Các nước XHCN, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế ngày càng bộc lộ rõ dấu hiệu phục hồi, nỗ lực tìm kiếm những hình thức tập hợp lực lượng mới củng cố vai trò trong đời sống chtrị xã hội. - Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Hợp tác và đấu tranh là 2 mặt không thể tách rời của QHQT hiện đại, đồng thời cũng là vấn đề có tính nguyên tắc trong phương pháp xử lý các vấn đề quốc tế. Những đặc điểm và xu thế trên đã quy định tính đa phương, đa dạng hóa QHQT trong CSĐN của mỗi nước. 2. Điều chỉnh chính sách của Việt Nam a. Chính sách đổi mới, mở cửa của Việt Nam Bước vào thời kì đổi mới cũng là thời điểm đất nước ta đứng trước những khó khăn to lớn. Tình hình kinh tế xã hội trở nên gay gắt do duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Nền sản xuất trì trệ, năng suât hiệu quả kém, lạm phát tăng nhanh, khủng hoảng kinh tế diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tăng cường bao vây, cấm vận kinh tế, ra sức lợi dụng vấn đề CPC để chống phá về chính trị, cô lập nước ta ở khu vực và trên trương quốc tế. Tình hình càng trở nên đặc biệt căng thảng khi chế độ CNXH ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, CNXH hiện thực thoái trào. Nước ta không còn nhận được sự viện trợ giúp đõ từ Liên Xô và các nước XHCN trước đây. Hoạt động kinh tế dối ngoại gặp rất nhiều khó khăn. Trong hoàn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã có bước điều chỉnh chính sách toàn diện và căn bản. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đưa ra quyết định lịch sử, đưa đất nước ta vào tiến trình đổi mới toàn diện. Với phương châm “thêm bạn 7
  10. bớt thù”, đại hội VI của Đảng ta xác định rất rõ nhiệm vụ cơ bản và trước mắt là đẩy mạnh giải phóng sức sản xuất, tập trung phát triển kinh tế xã hội để nhanh chóng vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế, phá thế bao vây cấm vận và mở rộng các quan hệ quốc tế. Là một bộ phận hợp thành đường lối chung của Đảng, CSĐN là sự tiếp tục của chính sách đối nội, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta. CSĐN đổi mới được hoạch dịnh nhằm tranh thủ tối đa nguồn ngoại lực, kết hợp một cách hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những nội dung đổi mới cơ bản được biểu hiện cụ thể thông qua việc thực hiện CSĐN đổi mới như sau: - Đảng ta đã nắm bắt được xu thế chung của thời cuộc, nhanh chóng chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại, vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, coi mục tiêu cao nhất là tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế, phát triển đất nước. Với quan điểm mới về mục tiêu đối ngoại, đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa 2 nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Để có hòa bình, ổn định chính trị, an ninh của mình phải giải quyết tốt quan hệ với các nước lớn, các trung tâm tư bản và các nước láng giềng. - Trong tập hợp lực lượng, đảng ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ cả trong tư duy lẫn trong hoạt động ngoại giao cụ thể. Từ chỗ nước ta chủ yếu dựa vào đồng minh chiến lược Liên Xô và hệ thống XHCN, nay chúng ta chuyển sang đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các nước. - Chuyển từ trạng thái đóng cửa, biệt lập sang mở cửa hội nhập Việt Nam với thế giới trên nhiều lĩnh vực nhất là kinh tế. Hội nhập với tinh thần chủ động, hội nhập nhưng vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. - Ta chuyển ưu tiên quan hệ sang các nước láng giềng, các nước trong khu vực, trong khi vẫn giữ vững và phát triển quan hệ với các bạn bè truyền thống. - Coi việc phục vụ phát triển kinh tế đất nước là nhiệm vụ chính của công tác ngoại giao. Ngoại giao đổi mới của Việt Nam không chỉ đơn thuần tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc mà còn chính thức vào cuộc để phát triểnkinh tế đối ngoại, tìm kiếm thị trường, đối tác mới. 8
  11. Đặc biệt, trong quan hệ với Mỹ, Đại hội VI đã nêu chủ trương: “Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Mỹ về vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ vì lợi ích của hoà bình và ổn định ở Đông Nam Á”. Từ 1988, ta đã không coi Mỹ là kẻ thù lâu dài và chủ trương đẩy mạnh chính sách từng bước phá vỡ thế bao vây, cấm vận của Mỹ và tiến tới bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 tiếp tục khẳng định chính sách đổi mới của Việt Nam, trịnh trọng tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, cùng phấn đấu vì hoà bình, ổn định và phát triển”. b. Vị trí của Mỹ trong CSĐN của Việt Nam Quan hệ Việt – Mỹ không khởi đầu từ một cuộc chiến tranh mà còn từ xa hơn nữa trong lịch sử. Ngay từ những năm đầu thế kỷ 19, dưới thời TT Jefferson, một số phái bộ Mỹ đã sang Việt Nam nhằm thiết lập quan hệ giao hảo và phát triển thương mại. Vua Tự đức cũng cử sứ thần sang Mỹ , song tất cả các nỗ lực đó do nhiều nguyên nhân khác nhau không đạt kết quả. Khi đó, quan hệ Việt – Mỹ không thể đi xa hơn. Những năm sau này, nhất là trong thời kì Chiến tranh lạnh thì nước Mỹ, vốn đi lên từ một nước thuộc địa đã từ bỏ chính sách ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh đã luôn mong muốn khai thác các điểm đồng giữa 2 nước để tạo dựng một mối quan hệ thực sự. Nhưng nỗ lực đó cũng không được nước Mỹ tiếp nhận do họ ngày càng cam kết sâu trong Chiến tranh lạnh với mục tiêu ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản. Thực tế, chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng kinh tế khó khăn của Việt Nam. Nhận thức được điều này, Đảng và Chính phủ ta đã có chủ trương đúng đắn nhằm cải thiện và tiến tới bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Việt Nam luôn đặt Mỹ ở vị trí quan trọng hàng đầu không chỉ trong hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, hợp tác phát triển mà cả về chính trị, văn hóa của Việt Nam vì Mỹ là nước có trình độ khoa học công nghệ hàng đầu thế giới, là nước nắm công nghệ nguồn, nguồn đầu tư của thế giới và là thị trường khổng lồ với kim ngạch nhập khẩu hơn 1600 tỷ USD hàng năm. Trong khi đó, Việt Nam là thị trường khá hấp dẫn đối với công ty Mỹ với dân số đông, nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh, nguồn nhân lực dồi dào, chịu khó và năng động. Những điều trên 9
  12. cho thấy cả Việt Nam và Mỹ đều có lợi ích lớn trong việc tăng cường quan hệ kinh tế thương mại. Hơn nữa, trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Việt Nam rất cần đến vốn, công nghệ và thị trường của các nước, đặc biệt là những nước phát triển, trong đó có Mỹ. Vai trò chủ đạo của Mỹ trong các thiết chế kinh tế, tài chính chủ yếu của thế giới cũng là một nhân tố quan trọng trong tính toán thúc đẩy quan hệ giữa ta với Mỹ. Quan hệ bình thường với Mỹ sẽ giúp Việt Nam tranh thủ huy động được các nguồn cho vay của Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới. Hơn nữa, quan hệ với Mỹ cũng sẽ mở đường cho Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Như vậy, thúc đẩy quan hệ với Mỹ là để tiến tới bình thường hoá phục vụ lợi ích của phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Chính vì vậy, Việt Nam đã có những bước điều chỉnh chính sách linh hoạt nhằm khai thông quan hệ với Mỹ. Đường lối đối ngoại rộng mở và chính sách của Việt Nam đối với Mỹ đã là một trong những nhân tố chủ yếu thúc đẩy tiến trình BTHQH giữa Việt Nam và Mỹ sau hơn hai thập kỷ đối đầu căng thẳng. 3. Điều chỉnh chính sách của Mỹ a. Những lợi ích của Mỹ trong quan hệ với Việt Nam – Vị trí của Việt Nam trong CSĐN của Mỹ Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, có vị trí địa lý quan trọng và đóng vai trò không nhỏ trong việc giữ gìn hòa bình an ninh khu vực. Do đó, những mục tiêu trong chính sách đối với Việt Nam của Mỹ không nằm ngoài mục tiêu chung trong chiến lược toàn cầu đối với Đông Nam Á của Hoa Kỳ. Song, thực chất mối quan hệ của Mỹ với Việt Nam lại chứa đựng nhiều ý nghĩa khác biệt so với các nước khác. Trong từng thời kì nhất định, chính sách của Mỹ đối với Việt Nam chịu nhiều tác động của chiến lược ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nội dung chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn hậu Chiến tranh lạnh gồm những trọng điểm sau: - Bình thường hóa và phát triển mối quan hệ đối với Việt Nam giúp Mỹ xóa bỏ được những mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ, giải quyết những vấn đề tồn đọng của chiến tranh để lại. MIA/POW là vấn đề mang tính chính trị sâu sắc trong quan hệ Việt – Mỹ. Đối với Hoa Kỳ, nó là vấn đề nhạy cảm thường khơi dậy “hội chứng Việt Nam”. Thời TT Bush cha và Bill Clinton, POW và vấn đề CPC là điều kiện tiên quyết cho 10
  13. BTHQH Việt – Mỹ. Từ thời gian đầu của chính quyền này, bất kỳ sự cải thiện nào trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đều dựa vào tiến bộ đạt được về người Mỹ mất tích trong khi làm nhiệm vụ hay bị bắt làm tù binh2. - Việc giải quyết những di sản của chiến tranh là để mở đường cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư vào thị trường Việt Nam – một thị trường đầy tiềm năng và triển vọng. Nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam đang được đánh giá là thị trường hấp dẫn mà Mỹ cũng như các công ty nước ngoài muốn làm ăn cùng, rất lo ngại bị chậm chân hay mất cơ hội. Như chúng ta đã biết, châu Á là khu vực mà các quyền lợi của 4 cường quốc lớn Mỹ, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc đan chéo nhau. Các nhà chiến lược Washington cho rằng Mỹ phải sẵn sàng đối phó và kiềm chế không để cho các đối tác đồng thời là đối thủ mạnh tới mức có thể thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ. Chính vì thế, thông qua vị trí vai trò của Việt Nam - nước hiện nay có vị trí quan trọng trong quan hệ với tất cả các nước lớn, Mỹ kiềm chế các đối tác và đối thủ khác đặc biệt là những cường quốc ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Do vậy, Mỹ muốn tác động để có thể giành được lợi thế hơn so với các nước lớn khác. Như vậy, mặc dù Việt Nam không còn chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ sau 1975, Mỹ cũng có những lợi ích quan trọng ở Việt Nam bao gồm lợi ích kinh tế, chiến lược cũng như lợi ích có tính chất nhân đạo là việc giải quyết vấn đề MIA/POW và thúc đẩy “dân chủ, nhân quyền” ở Việt Nam. Nói tóm lại, những lợi ích kinh tế, chính trị và hàn gắn vết thương chiến tranh quả là những động lực cơ bản thúc đẩy chính sách bình thường hoá quan hệ với Việt Nam thời kỳ cuối những năm 1980 và đầu 1990. Có một sự nhất trí chung giữa chính quyền Bush và chính quyền Clinton về lợi ích của nước Mỹ trong việc BTHQH với Việt Nam. b. Thay đổi chính sách của Mỹ - Quá trình bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ Một trong những trở ngại chính trên con đường tiến tới BTHQH Việt - Mỹ là vấn đề CPC. Sau một thời gian dài bao vây và cô lập Việt Nam trong vấn đề CPC, Mỹ đã có điều chỉnh chính sách quan trọng trong đầu thập kỷ 90. Ngày 18/7/1990, Ngoại 2 Về những chuyển động để đi tới BTHQH Việt – Mỹ, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 1/1995 11
  14. trưởng Mỹ J.Baker đã tuyên bố mở đối thoại trực tiếp với Việt Nam về vấn đề CPC và không công nhận Chính phủ liên hiệp CPC dân chủ ở Liên Hợp Quốc. Quyết định này đã mở đường cho đối thoại chính thức đầu tiên giữa Mỹ và Việt Nam về vấn đề CPC. Trong năm 1990, các cuộc gặp cấp cao giữa đại diện của Việt Nam và Hoa Kỳ đã bắt đầu diễn ra như cuộc gặp giữa trưởng đại diện phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc, Đại sứ Trịnh Xuân Lãng và phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ K.Quinn ngày 06/8/1990, Ngoại trưởng Mỹ Baker đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch ngày 29/9/1990, bàn về vấn đề CPC. Vào thời điểm này, dư luận nội bộ nước Mỹ và quốc hội Mỹ kêu gọi chính quyền Mỹ có những điều chỉnh chính sách mạnh mẽ và tích cực hơn đối với Việt Nam. Ngày 09/4/1991, Mỹ chính thức đưa ra “Bản lộ trình” gồm 4 bước, vạch ra tiến trình BTHQH với Việt Nam. Bản lộ trình đã đánh dấu một bước điều chỉnh chính sách quan trọng khác của Mỹ đối với Việt Nam. Nếu trước đây, Mỹ coi việc giải quyết vấn đề Campuchia và vấn đề POW/MIA là điều kiện tiên quyết đối với việc BTHQH với Việt Nam thì nay, vấn đề CPC và vấn đề POW/MIA chỉ được gắn với tiến trình BTHQH hệ song phương. Mục đích chủ yếu của bản lộ trình BTHQH với Việt Nam của chính quyền Bush là thúc đẩy giải quyết vấn đề CPC và vấn đề POW/MIA. Chủ trương BTHQH với Việt Nam được chính quyền Bush định hình và bước đầu đi vào thực hiện, sau được chính quyền Clinton tiếp tục thúc đẩy. Vào thời điểm này, do vấn đề CPC về cơ bản đã được giải quyết, vấn đề MIA trở thành vấn đề trung tâm và nhạy cảm nhất trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam. Chính quyền Clinton đã tuyên bố vấn đề MIA chiếm ưu tiên cao nhất trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam và việc BTHQH Việt - Mỹ phụ thuộc vào tiến bộ đạt được trong lĩnh vực này. Ngoại trưởng Mỹ Warren Christopher nói: “Mỹ sẵn sàng tiến về phía trước ngay khi có sự tiến triển trong vấn đề MIA. Đó là vấn đề duy nhất ngăn cản chúng ta hủy bỏ cấm vận”3. Về phía mình, Việt Nam coi đây là vấn đề nhân đạo tích cực hỗ trợ giúp đỡ giải quyết vấn đề BTHQH. Trong 17 tháng, Hà Nội đã thực hiện những bước quan trọng giúp Hoa Kỳ giải quyết được nhiều trường hợp. 29 gia đình Mỹ đã nhận được hài cốt của những người thân của họ và cuối cùng có thể mai táng họ thỏa đáng. Mặt khác “Hà 3 Tạp chí châu Mỹ ngày nay, NXB chtrị quốc gia, số 8/1995 12
  15. Nội đã trao cho Mỹ hàng trăm trang tài liệu rọi ánh sáng vào những gì đã xảy ra đối với người Mỹ ở Việt Nam” 4. Việt Nam đã lực hết sức mình trong vấn đề này và được Mỹ ghi nhận "Trong lịch sử chiến tranh chưa bao giờ lại có một nỗ lực lớn lao đến vậy". Trên tinh thần đó, sau khi Clinton trình Quốc hội bản báo cáo đánh giá tốt sự hợp tác của Việt Nam và những tiến bộ đạt được trong việc tìm kiếm người Mỹ mất tích, ngày 03/02/1994, Clinton tuyên bố bỏ cấm vận và mở cơ quan liên lạc tại Việt Nam. Sau khi cấm vận thương mại đối với Việt Nam được bãi bỏ, quan hệ kinh tế giữa hai nước đã có một số bước khai thông. Mỹ bỏ phong toả hàng hoá và tài khoản của ta, cho phép các công ty của Mỹ được đầu tư và xuất khẩu vào Việt Nam mặc dù một số mặt hàng vẫn bị kiểm soát. Ngày 08/10/1994, Quốc hội Mỹ thông qua nghị quyết khuyến nghị huỷ bỏ lệnh cấm viện trợ cho Việt Nam. Sau đó, hai bên đã tiến hành đàm phán chính thức để mở cơ quan liên lạc tại thủ đô của hai nước và giải quyết vấn đề tài sản. Vì mục tiêu và yêu cầu sớm BTHQH với Việt Nam, mặc dù có những khó khăn và bất đồng, hai bên đã đi đến thoả thuận về việc mở cơ quan liên lạc. Ngày 28/01/1995, Việt Nam và Mỹ tuyên bố chính thức mở cơ quan liên lạc tại thủ đô của hai nước và đồng thời, hai bên cũng ký các hiệp định về tài sản ngoại giao và các tài sản khác của Việt Nam ở Mỹ và của Mỹ ở Việt Nam. Đây là một mốc quan trọng khác trong tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ . Không lâu sau đó, ngày 11/7/1995, Tổng thống Clinton tuyên bố BTHQH với Việt Nam. Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt tuyên bố “Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoan nghênh quyết định của TT Mỹ” và hưởng ứng đề nghị trao đổi đại sứ. Như vậy, hơn hai thập kỷ sau khi cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam kết thúc, hai nước mới vượt qua được những trở ngại nhiều mặt để bước đầu tiến tới hàn gắn quan hệ, phục vụ lợi ích quốc gia của cả hai dân tộc. 4. Đánh giá Mối quan hệ Việt – Mỹ từ xưa đến nay trải qua rất nhiều giai đoạn. Từ thù địch trong những năm chiến tranh đến BTHQH là cả một quá trình lâu dài. Sau chiến tranh, những năm 1977-1978, Việt Nam đã có những nỗ lực nhằm bình thường hóa đầu tiên song không mang lại kết quả. Cho đến giữa những năm 1980s, từ khi Liên Xô bắt đầu 4 Bill Clinton, “Tuyên bố về việc BTHQH với Việt Nam” ngày 11/7/1995 13
  16. cải tổ, tình hình thế giới có những thay đổi thì quan hệ Việt - Mỹ có những tiến triển, đặc biệt từ năm 1986 ta đổi mới thì hai bên bắt đầu có những tiếp xúc trở lại, đặc biệt Mỹ rất quan tâm vấn đề MIA/POW. Các cuộc thương lượng tìm kiếm MIA như một chất xúc tác, như chiếc cầu nối giúp hai bên bắt đầu hợp tác giải quyết các vấn đề do chiến tranh để lại. Lúc đó, dư luận Mỹ cho rằng ở Việt Nam vẫn còn người Mỹ còn sống, ta giam giữ họ để làm con tin và đòi bồi thường. Đây là vấn đề rất khó khăn, liên quan đến chủ quyền, an ninh. Nhưng, bằng những hành động cụ thể, ta đã chứng minh không có hành động như vậy. Cùng lúc đó, ta cũng chú ý đi đến giải pháp về CPC. Sau khi hai vấn đề đó có tiến triển tốt thì hai bên thực sự tính tới bình thường hoá mà bước đầu của họ là bỏ cấm vận ngày 3/2/1994, đầu năm 1995 BTHQH và thiết lập Văn phòng Liên lạc. Việc phát triển quan hệ với các nước nói chung, cũng như với Mỹ nói riêng là một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách đối ngoại nước ta, đặc biệt là từ sau Đổi mới. Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của việc BTHQH với Mỹ nên đã không ngừng đưa ra các giải pháp để thực hiện mục đích này. Phía Mỹ cũng vậy, BTHQH với Việt Nam mang lại cho Mỹ rất nhiều lợi ích. Hai nước đã trải qua nhiều giai đoạn khó khăn mới tiến hành bình thường hóa thành công, xây dựng mối quan hệ đối tác tốt đẹp phục vụ cho lợi ích của cả 2 bên. Quá trình gian nan này cũng đã mang lại cho chúng ta nhiều bài học quan trọng cho quan hệ Việt – Mỹ: bài học về chính trị nội bộ nước Mỹ, về chiến tranh trong quá khứ, về quan hệ của nước lớn với nước nhỏ…. Những bài học này sẽ giúp chúng ta chủ động đối phó với những thách thức mới nảy sinh trong quan hệ thời kỳ hậu bình thường hoá. Và ngày nay, “quan hệ giữa hai nước đã thật sự thay đổi và sẽ không bao giờ trở lại kiểu quan hệ trước đây, Việt Nam cuối cùng đã tìm thấy chỗ đứng của mình ở Washington”5. 5 “relations between the two countries have changed drastically and will never be the same again, Vietnam has finally found its niche in Washington's Beltway”, Vietnam-US ties take root, http://www.nationmultimedia.com/search/read.php?newsid=30037614&keyword=vietnam+washington 14
  17. PHẦN KẾT LUẬN Nhìn lại chặng đường đã qua, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước sự đổi thay kì diệu của đất nước, không còn một Việt Nam nghèo nàn lạc hậu, giờ đây chúng ta sánh vai với các nước lớn trên thế giới đi chung trên con thuyền WTO. Là thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An, Việt Nam đã khẳng định được vị thế mới của mình trên trường quốc tế. Có được ngày hôm nay, chúng ta đã nỗ lực hết sức mình, một trong những thành công lớn nhất là BTHQH với Mỹ năm 1995. Từ hai nước thù địch không đội trời chung, trải qua bao thăng trầm, giờ đây Việt – Mỹ đã có mối quan hệ đối tác bền vững lâu dài. Quan hệ Việt – Mỹ đặc biệt phát triển từ giữa những năm 1980s và đầu 1990s. Mối quan hệ này được xây dựng trên những nhu cầu phát triển của mỗi nước, những thay đổi của bối cảnh thế giới và những điều chỉnh chiến lược để phù hợp với tình hình mới. Mối quan hệ dựa trên nền tảng bình đẳng và 2 bên cùng có lợi. Thời gian qua 2 nước đã có những bước phát triển không ngừng và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên trong quan hệ 2 nước vẫn tồn tại nhiều trở ngại là cho quan hệ chậm phát triển như vấn đề tôn giáo, nhân quyền, hội chứng chiến tranh còn nặng nề, các lực lượng chống đối vẫn tìm cách chống phá. Nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đòi hỏi Việt Nam và Hoa Kỳ cần phải nỗ lực hợp tác từ 2 phía, xây dựng mối quan hệ dựa trên những nền tảng có sẵn cùng nhau hướng tới tương lai vì hòa bình ổn định khu vực và trên thế giới./. 15
  18. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách, báo, tạp chí 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh và công tác ngoại giao, NXB Sự thật, Hà Nội, 1994. 2. Bill Clinton, “Tuyên bố về việc BTHQH với Việt Nam” ngày 11/7/1995. 3. Lê Linh Lan, Quá trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ: kinh nghiệm và bài học, Chính sách đối ngoại VIệt Nam, Hà Nội, 2007. 4. Tạp chí châu Mỹ ngày nay, NXB chtrị quốc gia, số 8/1995. 5. Về những chuyển động để đi tới BTHQH Việt – Mỹ, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 1/1995. 6. Mỹ và các nước lớn với châu Á TBD, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 1/97. II. Các trang web 1. Báo The Nation, Thailand, Vietnam-US ties take root, http://www.nationmultimedia.com/search/read.php?newsid=30037614&keyword=viet nam+washington, đăng ngày 23/6/2007. 2. Bộ Ngoại giao Việt Nam, Bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ: Quá trình lâu dài và chông gai, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns050713075737/, đăng ngày 14/7/2005. 3. Việt báo Việt Nam, Quan hệ Việt - Mỹ đang ở chặng cuối của tiến trình bình thường hoá, http://vietbao.vn/Kinh-te/Quan-he-Viet-My-dang-o-chang-cuoi-cua-tien-trinh-binh- thuong-hoa/55116150/88/, đăng ngày 04/7/2006. 4. Việt báo Việt Nam, Quan hệ Việt Mỹ sơ khởi: "Tình trong như đã...", http://vietbao.vn/The-gioi/Quan-he-Viet-My-so-khoi-Tinh-trong-nhu- da/75011004/159/, đăng ngày 14/11/2006. 5. Họ Bùi Việt Nam, Quan hệ Việt - Mỹ: Những bước thăng trầm hơn 200 năm, http://hobuivietnam.com/index.php?nv=News&at=article&sid=316, đăng ngày 10/8/2008. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2