Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này
lượt xem 56
download
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này nhằm mục đích thống kê, chỉ ra những bất ổn hiện nay trong hệ thống các NHTM cũng như các ứng phó của NHTW trước những bất ổn đó. Từ đó giúp mọi người có cái nhìn tổng quan hơn về NHTM và NHTW. Tiểu luận làm rõ nguyên nhân gây ra rủi ro và đánh giá rủi ro hoạt động trong các ngân hàng thương mại trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng và chỉ ra một số hoạt động quản trị rủi ro có hiệu quả.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ TÊN ĐỀ TÀI: Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này Sinh viên thực hiện Mã sinh viên STT Đào Thị Hằng( Nhóm trưởng) 1211510017 42 Nguyễn Thị Linh 1211510039 76 Trần Thị Hồng Ngọc 1211510050 89 Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan Hà Nội, 30 tháng 9 năm 2013
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ MỤC LỤC A, Mở đầu 1) Lí do chọn đề tài: Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường mở, hệ thống các ngân hàng thương mại trên khắp thế giới phát triển mạnh mẽ và đa dạng. Sự phát triển của các ngân hang thương mại có tác động rất lớn đến nền kinh tế các nước đó cũng như trên khắp thế giới. Bên cạnh những thuận lợi có được, các Ngân hàng thương mại (NHTM) cũng gặp không ít các bất ổn khó giải quyết.Nhưng nhờ có sự can thiệp của ngân hàng Trung ương(NHTW), hệ tống ngân hàng các nước trên khắp thế giới đã dần ổn định và phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu. Như vậy hiện nay hệ thống các NHTM cũng như NHTW đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế khu vực cũng như toàn cầu. Trong quá trình tìm hiểu nhận thấy tính thiết thực và quan trọng của việc phân tích bất ổn thường gặp của hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và cách ứng phó của ngân hàng trung ương nên nhóm chúng em quyết định chọn đề tài 1 Tên đề tài: “Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này” 2) Mục đích nghiên cứu: Page 2
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ Nhằm thống kê, chỉ ra những bất ổn hiện nay trong hệ thống các NHTM cũng như các ứng phó của NHTW trước những bất ổn đó. Từ đó giúp mọi người có cái nhìn tổng quan hơn về NHTM và NHTW. Làm rõ nguyên nhân gây ra rủi ro và đánh giá rủi ro hoạt động trong các ngân hàng thương mại trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Chỉ ra một số hoạt động quản trị rủi ro có hiệu quả 3) Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập thông tin: o Nghiên cứu tài liệu. o Phi thực nghiệm. Phương pháp ngiên cứu tài liệu Phương pháp quan sát. Phương pháp thực nghiệm. Phương pháp phân tích và hệ thống hóa. 4) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: bất ổn thường gặp trong hệ thống NHTM và cách ứng phó của NHTW trên thế giới. Phạm vi nghiên cứu: o Phạm vi không gian: Trên thế giới. o Phạm vi thời gian: Từ năm 2000-2013. B, Phần nội dung: Chương 1) : Những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM của các nước trên thế giới. Không một loại hình doanh nghiệp nào mà không phải đối đầu với nguy cơ rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nhưng với các đặc điểm, đặc thù của ngân hàng thương mại có thể kết luận hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ- tín dụng của ngân hàng gặp phải nguy cơ rủi ro cao hơn cả. Người ta có thể khái quát Page 3
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ các loại rủi ro ( vấn đề bất ổn) của các ngân hàng thương mại như sau: I. Rủi ro tín dụng (nợ xấu): 1) Khái niệm Đó là loại rủi ro khi người vay không trả được nợ ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây thiệt hại nhiều nhất cho ngân hàng thương mại. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng đầu tư. Thông thường đối với các ngân hàng trên thế giới nó mang lại 2/3 phần thu nhập, còn ở Việt Nam là 90% thu nhập của ngân hàng thương mại. Tuy mang lại nhiều thu nhập nhưng trong lĩnh vực này nếu gặp rủi ro thì hậu quả sẽ rất lớn, nhiều khi dẫn đến sự phá sản của một ngân hàng. “Các khoản tiền cho vay có xác suất vỡ nợ cao hơn các tài sản khác nên các ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ vào các món cho vay”. Bất cứ một rủi ro nào của người đi vay đều có thể đưa đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình s ản xuất lưu thông hàng hóa, ngay cả những hoạt động phi sản xuất cũng không thể thiếu sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Chính vì tín dụng ngân hàng tham gia vào mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi lĩnh vực của nền kinh tế, mà mỗi ngành mỗi lĩnh vực kinh doanh lại có tính đặc thù, có sự phức tạp riêng, có những rủi ro riêng nên rủi ro tín dụng của ngân hàng mang tính tổng hợp và khả năng suất hiện là lớn hơn các ngành khác. 2) Các hình thức của rủi ro tín dụng: Page 4
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở 4 trương hợp đối với nợ lãi và nợ gốc. Đó là việc không thu được lãi đúng hạn hoặc không thu đủ lãi, không thu được vốn đúng hạn hoặc không thu đủ vốn. Tùy trường hợp mà ngân hàng hạch toán vào các khoản mục theo dõi khác nhau như lãi treo hoặc nợ quá hạn. Khi không thu được lãi đúng hạn ,nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ đưa vào mục lãi treo phát sinh. N ếu ngân hàng không thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản mục lãi treo đóng băng, tr ừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lãi đó cho doanh ngiệp. Còn khi không thu được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có khoản nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên, khoản này vẫn chưa thể coi là khoản mất mát hoàn toàn của ngân hàng vì có thể vì lý do nào đó doanh nghiệp chậm trả nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết trong hợp đồng. Nếu như khoản này ngân hàng không thể thu hồi được (do doanh nghiệp bị phá sản chẳng hạn) thì lúc này ngân hàng coi như gặp rủi ro tín dụng ở mức đ ộ cao vì đã phát sinh khoản nợ không có khả năng thu hồi, trừ những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp vay vốn hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về xoá nợ thì ngân hàng có thể xem xét để xoá nợ cho doanh nghiệp. Rủi ro tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức, các hình thức đó luôn chuyển biến cho nhau, mà mức độ cuối cùng là nợ không có khả năng thu hồi. Khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng người ta thường chú trọng vào các nguy cơ xảy ra rủi ro như lãi treo và đặc biệt là nợ phát sinh, còn lãi treo đóng băng và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi đ ược coi là các tình huống rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học. 3) Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 3.1) Nguyên nhân từ phía khách hàng Trong nền kinh tế thị trường ,hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thường xuyên phải đương đầu với cạnh tranh và chịu sự chi phối rất lớn của quy luật cung cầu ,giá cả thị trường ...nên cũng phải thường xuyên đ ối mặt với r ủi ro t ừ Page 5
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ nhiều phía kể cả các rủi ro thuần tuý như thiên tai ,trộm cắp...có khi do giá cả thay đổi ,khả năng quản lý kém ,sự thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước ...dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp làm cho kinh doanh gặp khó khăn thua lỗ,thậm chí phá sản .Đồng thời hoặt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng không thể thoát ly khỏi mối quan hệ với ngân hàng .Chính vì vậy rủi ro của ngân hàng thương mại là cộng hưởng rủi ro của các doanh nghiệp . Nếu đứng trên góc độ tư cách đạo đức của người đi vay thì nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng có thể chia làm hai tr ường hợp lớn .Khách hàng gian lận hoặc khách hàng không gian lận 3.2) Khách hàng gian lận, cố ý lừa ngân hàng . Điều này được thể hiện qua việc gian lận về số liệu,giấy tờ ,quyền sở hữu tài sản .Doanh nghiệp có thể nộp báo cáo tài chính không chính xác,cố ý đưa ra số liệu sai sự thật ,phản ánh không đúng thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của đơn vị.Những món cho vay trên cơ sở nnhững thông tin giả như vậy dễ đưa đến rủi ro cho ngân hàng .Bên cạnh đó lợi dụng khe hở về giấy tờ sở hữu tài sản ,doanh nghiệp có thể đem thế chấp một tài sản ở nhiều ngân hàng khác nhau.Khi không thu được nợ,các ngân hàng thương mại phát mãi tài sản thì mới biết bị lừa Ngoài ra, khách hàng có thể gian lận ngân hàng thể hiện qua việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án đã nêu nên không trả được nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn nhưng lại dùng để mua sắm tài sản cố định và bất đ ộng sản. Việc giá nhà đất đột ngột giảm xuống làm doanh nghiệp kinh doanh nhà đất bị thua lỗ nặng không thể trả được nợ ngân hàng. Ngân hàng có phát mại tài sản thế chấp đi nữa cũng không đủ khoản cho vay vì tài sản thế chấp cũng là nhà đ ất nên cũng giảm giá trị.Việc khách hàng gian lận gây ra rủi ro cho ngân hàng còn thể hiện qua những hoạt động của người đi vay có tư cách kém như cố tình không trả nợ ngân hàng hoặc lừa đảo ngân hàng rồi bỏ trốn. 3.3) Khách hàng không gian lận Không chỉ khi khách hàng có ý không tốt ngân hàng mới gặp rủi ro mà ngay cả khi khách hàng đi vay có đủ tư cách, không có ý gian lận, ngân hàng vẫn có thể gặp rủi ro tín dụng. Đó là khi khách hàng có trình độ kém, năng lực quản lý yếu, không có đầu óc kinh doanh nên không thể đưa phương án kinh doanh của mình đạt hiệu quả, không thể đưa doanh nghiệp của mình thắng trong cạnh tranh nên việc trả nợ ngân hàng là rất khó khăn.Ngoài ra, nếu doanh nghiệp bị lừa đảo trong kinh doanh hoặc bạn hàng của doanh nghiệp gặp rủi ro thì ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu nợ đúng hạn.Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân rủi ro khách quan như thiên tai, trộm cắp có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp và có nguy cơ dẫn đ ến r ủi ro tín dụng cho ngân hàng. Page 6
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ 3.4) Nguyên nhân từ phía ngân hàng - Do thông tin tín dụng không đầy đủ. Ngân hàng có một cái nhìn không toàn di ện về bản thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó dẫn đ ến s ự sai lệch trong việc đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả của khách hàng. - Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng nói chung và của cán bộ tín dụng nói riêng còn hạn chế. Hiện nay nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng thiếu năng lực xử lý các thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát khoản vay. Cán bộ tín dụng không có khả năng phân tích thẩm định dự án; kiến thức thị trường, kiến thức xã hội cũng bị hạn chế nên nhều khi cho vay mà không đánh giá được liệu dự án hay phương án đó có khả thi không. - Ngân hàng quá trú trọng về lợi tức, đặt mong muốn về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh, do vậy rủi ro của khoản vay càng cao. - Sự cạnh tranh không lành mạnh với các ngân hàng khác để mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu rằng ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng ... nhằm lôi kéo khách hàng. - Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên. Nhân viên tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như môi trường tín dụng của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động sai sót, không nắm bắt kịp thời các khoản cho vay có vấn đề. 3.5) Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh a) Môi trường kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng của các ngân hàng thương mại nói riêng. Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ bao gồm các chính sách về kinh tế, tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại ... Chỉ cần chính phủ thay đổi một trong các chính sách trên, lập tức sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh c ủa các doanh nghiệp và người chịu tác động trực tiếp là các ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của ngân hàng khác nhau luôn gắn bó mật thiết với hoạt động của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nếu chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ đúng đằn phù hợp với thực tiễn thì nó sẽ góp phần thúc đ ẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, nhưng Page 7
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ ngược lại cũng sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn thậm chí thua lỗ, phá sản. b) Môi trường pháp lý: Trong hoạt động kinh doanh, song song với hoạt động mang tính kĩ thuật nghiệp vụ và các hoạt động mang tính pháp lý như kí kết hợp đồng kinh tế, đầu tư tài chính tín dụng ... Tính pháp lý thể hiện ở các hoạt động kinh doanh luôn tiến hành dựa trên các quy định pháp luật, hay ní cách khác bị giới hạn trong khuôn khổ pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các yếu tố pháp lý là điều kiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu môi trường pháp lý chưa hoàn ch ỉnh thiếu đồng bộ cũng sẽ gây khó khăn, bất lợi cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời tạo nên môi trường cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi trường cho vay có ảnh hưởng, tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động tín dụng, nó sẽ góp phần làm hạn chế hoặc tăng thêm rủi ro trong các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. c) Nguyên nhân từ môi trường xã hội: Những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới luôn có ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của các ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá, chính trị giữa các nước đời sống kinh tế thế giới cũng có nhiều biến đổi. Muốn phát triển kinh tế một cách toàn diện cần thực hiện mở cửa nền kinh tế để tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật hiệi đại của những nước phát triển, trao đổi, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, đầu tư hoặc vay tiền của nước ngoài... Tất cảc các hoạt động đó tạo nên mối quan hệ kinh tế đối ngoại của mối quốc gia. Những thay đổi về chính trị rết có thể dẫn đến sự biíen động cán cân thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái giá các đồng tiền làm biến động thị trường trong nước như giá cả nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ, mức lãi suất thị trường, mức cầu tiền tệ... trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động là các ngân hàng thương mại. 4) Một số ngân hàng thương mại thế giới và rủi ro tín dụng: 4.1) Ngân hàng Lehman Brothers: 15/9 vừa qua đánh dấu tròn 5 năm ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ, cũng là sự mở đầu cho trận sóng thần tài chính thế giới lớn nhất gần một thế kỷ qua. Kể từ đó, nhiều biện pháp đã được đưa ra nhằm khắc phục hậu quả. Các nước cũng ra Page 8
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ sức tìm kiếm mô hình kinh tế bền vững nhằm tránh một cơn sóng thần mới trong tương lai. Nhưng cho đến nay, nỗ lực đó vẫn chỉ là giải pháp ngắn hạn, và dường người ta vẫn chưa rút ra được bài học nào từ lịch sử. Nguyên nhân chính dẫn tới sự ra đi của Lehman Brothers 5 năm trước là sự liều lĩnh của chính họ cũng như các ngân hàng đầu tư khác khi theo đuổi lợi nhuận bằng cách khai thác công cụ tài chính mới, bất chấp mọi rủi ro. Các định chế tài chính, dẫn đầu là LB, còn tham gia nhiệt tình vào thị trường cho vay cầm cố bất động sản đang bùng nổ, do cơ chế lãi suất thấp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Các ngân hàng cho vay mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Sau đó, những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính t ại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu. 4.2) Cùng với khủng hoảng nợ công khu vực đồng euro (eurozone), nợ công trong hệ thống ngân hàng châu Âu tăng mạnh những tháng cuối năm 2012: Theo một khảo sát của hãng kiểm toán PricewaterhouseCoopers (PwC), kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008, nợ xấu của ngân hàng châu Âu tăng gấp đôi. Tổng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng châu Âu hiện là 1,05 nghìn tỷ euro (1,85 nghìn tỷ USD), tăng 10% so với cuối năm 2011. Trong đó, tình trạng nợ xấu đặc biệt tồi tệ ở các nước eurozone vốn bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi bong bóng bất động sản và khủng hoảng nợ khu vực. Chỉ tính riêng Hy Lạp, nợ xấu ngân hàng tăng gần 50% so với năm ngoái lên 40 tỷ euro, Tây Ban Nha tăng 23% lên 136 tỷ euro, Italia tăng 37% lên 107 tỷ euro. Đức, Anh và Pháp là các nước hiếm hoi mà nợ xấu ngân hàng không tăng kể từ năm 2010. Do các nhà đầu tư không sẵn sàng tái cấp vốn và các chính phủ không thể bơm thêm tiền nên các ngân hàng chỉ còn cách bán tài sản và giảm quy mô hoạt động để bù đắp nợ xấu. 4.3) Nợ xấu” không phải là vấn đề mới trên thế giới, nhưng hiện Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn do thiếu kinh nghiệm xử lý. Hai cường quốc kinh tế Hoa Kỳ, Trung Quốc đã từng “gánh” khoản nợ xấu cao ngất ngưởng. Hệ thống tài chính ngân hàng rơi vào tình trạng báo động cao nhất và rất nhiều ngân hàng đã phải “trả giá”. Cho “vay dưới chuẩn”: Lòng tham giống nhau. Theo ngân hàng Phát triển Châu Á – ADB, năm 2003, Trung Quốc có bốn ngân hàng Thương mại (NHTM) quốc doanh lớn nhất với tổng tài sản khoảng 15.200 tỷ nhân dân tệ (NDT), chiếm khoảng 55% tổng tài sản của hệ thống tài chính. Page 9
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ Các “đại gia” làng tài chính đã cho vay tới 90% dư nợ của các công ty nhà nước và tỏ ra khá thoải mái trong các khoản vay đầu tư bất động sản, chứng khoán. Điều này không mấy khác so với tình trạng cho “vay dưới chuẩn” (vay với mức độ rủi ro cao) của các ngân hàng ở Hoa Kỳ giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế tài chính 2008. Việc các ngân hàng Trung Quốc phải gánh nhiều khoản vay khó đòi xuất phát từ các xí nghiệp quốc doanh liên tục làm ăn cthua lỗ. Có tới 70% xí nghiệp quốc hữu trong tình trạng thâm vốn nặng, và đến 98% xí nghiệp phải sống vật vờ nhờ các khoản vay ngân hàng. Trong khi đó, Hoa Kỳ năm 2007 phải gánh con số dư nợ là 1.300 tỷ (trong khi năm 2001 là 160 tỷ USD). Hậu quả là hàng loạt ngân hàng lão làng như Bear Stearns, Lehman Brothers, Washington Mutual… tuyên bố phá sản. Tính cạnh tranh trong thị trường tài chính và tham vọng kiếm lợi từ việc cho vay thế chấp khiến nhiều ngân hàng mờ mắt và không dự đoán trước các rủi ro có thể xảy ra. Việc “chạy đua cho vay” bởi miếng mồi ngon đang nóng từ thị trường chứng khoán và bất động sản đã vô tình dẫn các NHTM vào thế khó mang khi “bong bóng” nhà đất, chứng khoán vỡ tung do được “bơm tiền” quá mức. Khi thị trường tài chính ngân hàng sụp đổ, cả thực tế và lý thuyết vĩ mô đều chứng minh, hiệu ứng Domino sẽ xảy ra nhanh chóng trên các thị trường tín dụng, chứng khoán, bất động sản, thương mại... * Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, đặc biệt giai đoạn từ cuối 2007 đến đầu năm 2013, hàng loạt ngân hàng trên thế giới công bố thua lỗ về kết quả hoạt động kinh doanh, mất khả năng thanh toán, nợ xấu vượt mức cho phép dẫn đ ến tình trạng các hàng loạt các ngân hàng bị mua lại và phá sản. II. Rủi ro lãi suất: 1) Khái niệm: Rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất trên thị tr ường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất, dẫn đến tổn thất về mặt tài sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng. 2) Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất: + Khi xuất hiện sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản Có và tài sản Nợ. Page 10
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ ▪ Trường hợp 1: Kỳ hạn của tài sản có lớn hơn kỳ hạn của tài sản nợ: Ngân hàng huy động vốn ngắn hạn để cho vay, đầu tư dài hạn. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo tăng lên, trong khi lãi suất cho vay và đầu tư dài hạn không đổi. ▪ Trường hợp 2: Kỳ hạn của tài sản có nhỏ hơn kỳ hạn của tài sản nợ: Ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài để cho vay, đầu tư kỳ ngắn hạn. Rủi ro sẽ tr ở thành sự thật nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo không đổi, trong khi lãi suất cho vay và đầu tư giảm xuống. + Do các ngân hàng áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy động vốn và cho vay: ▪ Trường hợp 1: Ngân hàng huy động vốn với lãi suất cố định đ ể cho vay, đ ầu t ư với lãi suất biến đổi. Khi lãi suất giảm, rủi ro lãi suất sẽ thực hiện vì chi phí lãi không đổi trong khi thu nhập lại giảm, do đó lợi nhuận của ngân hàng giảm. ▪ Trường hợp 2: Ngân hàng huy động vốn với lãi suất biến đổi để cho vay, đầu tư với lãi suất cố định. Khi lãi suất tăng, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi tăng theo lãi suất thị trường, trong khi thu nhập lãi không đổi, do đó lợi nhuận của ngân hàng giảm. + Do không có sự phù hợp về khối lượng giữa nguồn huy động với việc s ử dụng nguồn vốn đó để cho vay. + Do không có sự phù hợp về thời hạn giữa nguồn vốn huy động được với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay. + Do tỷ lệ lạm phát dự kiến không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế, dẫn đến vốn của ngân hàng không được bảo toàn sau khi cho vay. + Ngoài ra, khi lãi suất trên thị trường thay đổi, ngân hàng còn có thể gặp r ủi ro giảm giá trị tài sản. 3) Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động ngân hàng: Từ những nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất nêu trên, có thể thấy những ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như sau: • Rủi ro lãi suất làm tăng chi phí nguồn vốn của ngân hàng • Rủi ro lãi suất làm giảm thu nhập từ tài sản của ngân hàng • Rủi ro lãi suất làm giảm giá trị thị trường của tài sản Có và vốn chủ sở hữu của ngân hàng. 4) Một số ngân hàng thế giới và rủi ro lãi suất: Page 11
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ 4.1) Rủi ro của các ngân hàng Trung Quốc Người ta lo ngại rằng các ngân hàng Trung Quốc thiếu các kỹ năng quản trị rủi ro cần thiết trong 1 môi trường kinh doanh mới.Con đường tiến tới cải cách tài chính ở Trung Quốc đang trở nên gập ghềnh hơn bao giờ hết.Tuần trước, tại hội nghị thượng đỉnh ở Singapore, lãnh đạo các ngân hàng cho biết bước tiếp theo trên lộ trình cải cách tài chính ở Trung Quốc là tự do hóa lãi suất – điều có thể xảy ra trong 18 tháng tới và chắc chắn điều này sẽ khiến cho giới ngân hàng cũng như các khách hàng phải đau đầu.Tuy nhiên đây là một bước đi hợp logic. Với việc tự do hóa lãi suất, nhà chức trách Trung Quốc hy vọng sẽ ngăn chặn đ ược sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm – chủ yếu nhờ vào việc nhiều người có tiền dư thừa muốn có lãi suất cao hơn trong khi người đi vay không thể tiếp cận các khoản vay có lãi suất thấp giả tạo sẵn sàng trả thêm các khoản phí không chính thức đ ể có thể có tiền.Tự do hóa lãi suất cũng là một tiền đề cần thiết để xóa bỏ các kiểm soát về dòng vốn. Chừng nào lãi suất còn bị giữ ở mức thấp giả tạo cũng như các công cụ đầu tư còn thiếu hụt ở Trung Quốc, các quỹ đầu tư còn có động lực để rời bỏ thị trừng này và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở các thị trường nước ngoài.Trước đó, Trung Quốc đã bỏ sàn lãi suất cho vay, khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước được vay với lãi suất thấp hơn. Với bước đi tiếp theo này, lãi suất trần sẽ được dỡ bỏ và người gửi tiền sẽ được quyền yêu cầu các ngân hàng trả lãi cao hơn và khiến cho các ngân hàng khát tiền hơn. Mặc dù các ngân hàng đã được cảnh báo trước về điều này, người ta vẫn quan ngại rằng liệu các ngân hàng đã trang bị đủ các kỹ năng quản trị rủi ro cần thiết cho một “thế giới mới” này hay chưa. Ngân hàng tại các thị trường phát triển hơn đã không cưỡng lại nổi xu thế đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn nhằm làm tăng tỷ lệ lợi nhuận và đã gánh chịu các hậu quả nghiêm trọng. 4.2) Cái giá của tự do hóa lãi suất Các ngân hàng nhóm 2 (các ngân hàng đứng sau nhóm 4 ngân hàng nhà nước và Bank of Communications cũng như Citic Bank) sẽ phải đối mặt với thách thức thực sự. Các ngân hàng quốc tế và khu vực cũng đã cắt giảm tín dụng đối với các ngân hàng này do sợ rằng mình không được bảo đảm an toàn bởi mạng an toàn nhà nước. Trong khi đó, cổ đông lớn của các ngân hàng nhà nước lớn cũng quan ngại rằng sẽ bị yêu cầu tiếp nhận các ngân hàng yếu kém hơn như trường hợp của Nhật Bản.Một hậu quả khác của việc tự do hóa lãi suất sẽ là chi phí cho vay tăng cao đối với hầu hết người đi vay. Về dài hạn, điều này là có lợi vì khi chi phí vay vố nđắt hơn, vốn sẽ được phân bổ cẩn thận hơn.Tuy nhiên không may cho Trung Quốc là việc tăng lãi suất lần này đến đúng lúc mà tình trạng tài chính của các công ty Trung Quốc đang xấu đi. Theo phân tích của hang Forensic Asia thì rất nhiều công ty – trong đó có cả các công ty niêm yết đang phải oằn mình gánh các khoản nợ do dòng tiền hoạt động suy giảm trong khi các khoản phải thu cũng ngày một tăng lên. Vấn đề nợ chồng chéo giữa các công ty đang có nguy cơ xuất hiện trở lại.Bản thân các ngân hàng cũng đã chuẩn bị đối phó với vấn đ ề nợ xấu. Tính tới thời điểm hiện tại, tỷ lệ nợ xấu (đã dự phòng rủi ro) là 1%. Tuy nhiên, tỷ lệ Page 12
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ 1% này khó mà phản ánh hết tình hình thực tế. Nhưng có các nhóm l ợi ích quy ền lực khác, ở vị trí cao hơn các ngân hàng và phải chịu trách nhiệm cho vấn đ ề này. Nguồn thu chủ yếu của Bộ Tài chính là từ các khoản thuế của ngân hàng và bất kỳ sự xóa nợ nào sẽ làm giảm nguồn thu thuế. Central Huijin thuộc Tổng Công ty đầu tư Trung Quốc – tổ chức nắm giữ cổ phần của Chính phủ trong các ngân hàng – cần có cổ tức mà các ngân hàng chi trả. III. Rủi ro thanh khoản: 1) Khái niệm : Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung ứng đủ nhưng với chi phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu c ầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy, thì ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Trong cơ cấu tài sản có thì thì tiền mặt có độ thanh khoản cao nhất, do đó trước hết ngân hàng sử dụng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng.Bởi vì tiền mặt tại quỹ không mang lại thu nhập lãi suất, cho nên trong những trường hợp bình thường ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt ở mức độ tối ưu để có thể đáp ứng các nhu cầu rút tiền thường xuyên của người gửi tiền mà không gây ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng. Ngân hàng có thể làm được điều này, bởi vì qua kinh nghiệm công tác ngân quỹ hằng ngày ngân hàng có thể dự tính chính xác nhu cầu rút tiền gửi hằng ngày và trong trường hợp thiếu hụt tiền mặt tạm thời thì ngân hàng chỉ cần đi vay bổ sung một cách thông thường trên thị tr ường tài chính lien ngân hàng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản, ví dụ như trong trường hợp dân chũng mất long tin vào ngân hàng, hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường. Trong bối cảnh đó, hầu hết các ngân hàng đều đang phải đối phó với trường hợp tương tự , thì chi phí để huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán 1 số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và ngân hàng buộc phải bán thốc, bán tháo tức thời ngay cả số tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ mạt vì ngân hàng không có thời gian để tìm người mua cũng như điều kiện thương lượng về giá cả. Do bán khẩn cấp 1 số tài sản với giá thấp khiến cho khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe dọa. Trong số tài sản có đ ộ thanh khoản thấp bao gồm các khoản tín dụng cấp cho các công ty nhỏ. Trong trường hợp rủi ro thanh khoản càng ngày càng nghiêm trọng , nếu tất cả những Page 13
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ người gửi trên đồng loạt yêu cầu ngân hàng chi trả toàn bộ tiền gửi cho họ thì dẫn đến ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá sản. 2) Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản: + Ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn từ các cá nhân và định chế tài chính khác nhau, sau đó, chuyển hóa chúng thành những tài sản đầu tư dài hạn.Do đó, đã xảy ra tình trạng mất cân xứng giữa ngày đáo hạn của các khoản sử dụng vốn và ngày đáo hạn của các nguồn vốn huy động , mà thường gặp nhất là dòng tiền thu hồi từ các tài sản đầu tư nhỏ hơn dòng tiền phải chi ra để chi trả tiền gửi đến hạn. + Do ngân hàng nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất đầu tư, nhất là các khoản tiền gửi. Khi lãi suất đầu tư tăng, một số người gửi tiền rút vốn của họ ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có tỉ suất lợi nhuận cao hơn , còn các khách hàng vay tiền sẽ tích cực tiếp cận các khoản tín dụng vì có lãi suất thấp hơn. Như vậy, sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng đến cả khách hàng gửi tiền và vay tiền, kế đó tác động đến tình trạng thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa, xu hướng về s ự thay đổi của lãi suất còn ảnh hưởn đến giá trị thị trường của các tài sản, mà ngân hàng có thể đem bán để tăng them nguồn cung cấp thanh khoản, và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên thị trường tiền tệ. + Do ngân hàng có chiến lược quản trị thanh khoản không phù hợp và kém hi ệu quả : các chứng khoán ngân hàng đang sở hữu có tính thanh khoản thấp, dự trữ của ngân hàng không đủ chi cho nhu cầu chi trả. + Ngoài ra trong một số trường hợp ngân hàng gặp phải các rủi ro như bị tội phạm công nghệ tấn cống, … làm cho người cho vay thấy thiếu an toàn về số tiền của mình và đồng loạt đến rút tiền khỏi ngân hàng cũng gây ra rủi ro thanh khoản ở ngân hàng đó. 3) Nhìn lại nguyên nhân rủi ro thanh khoản tại một số nước trên thế giới: 3.1) Rủi ro thanh khoản ở Anh- Thảm hoạ Northern Rock Bank. Bước ngoặt dẫn tới kết cục buồn của Northern Rock đến vào năm 2006 khi ngân hàng này mở rộng hoạt động sang lĩnh vực cho vay thế chấp bằng bất động sản với đối tác là Lehman Brothers. Khủng hoảng thị trường nhà đất và tín dụng đã đẩy cả hai gã khổng lồ tới bờ vực phá sản. - Năm 2007, Northern Rock đưa ra dự báo lợi nhuận trước thuế sẽ giảm so với dự kiến ban đầu. - Báo Anh đưa ra nhiều thông tin giật gân: Northern Rock đang khan hiếm tiền mặt, Northern Rock đang gánh hậu quả do cho vay thế chấp tràn lan,… - Trong 3 ngày 14,15 và17/9/2007khoảng 3tỷ Bảng Anh đã được rút ra. Page 14
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ - Do được Ngân hàng Anh (BOE) hỗ trợ nên Northern Rock không thiếu tiền mặt song số người rút tiền vẫn chưa giảm. - NHTW Anh đã phải ra tay cứu giúp bằng cách “bơm” một lượng tiền mặt không nhỏ cho Northern Rock. - Chính phủ Anh có thể sẽ mua lại Northern Rock để rồi sẽ có phương án xủ lý thích hợp khi tình hình trở lại bình thường. Nguyên nhân: Khủng hoảng tín dụng cho vay thế chấp nhà với đối tượng thu nhập thấp, tìm hiểu nguyên nhân thì cho thấy khi cho vay thế chấp bằng nhà đất, ngân hàng Northern Rock đã cho vay nhiều gấp 125% giá trị nhà đất của người vay đưa đi cầm cố, bất chấp những lời cảnh báo về sự không ổn định của nền kinh tế cũng như các dự báo về giá bất động sản tụt dốc, việc cho vay thế chấp sai lầm nói trên đã khiến cho tài sản bong bóng xà phòng của ngân hàng Northern Rock tồn tại trong một thời gian dài và liên tục được thổi căng phồng lên ; Công tác PR của Northern Rock Bank quá yếu; Thiếu kinh nghiệm trong việc xử lý khủng hoảng; Sự “thổi phồng” thông tin của báo giới,… 3.2) Rủi ro thanh khoản ở các NHTM Nga năm 2004. Vào tháng 7/2004, các ngân hàng của Nga đứng trước nguy cơ rủi ro thanh khoản rất lớn. - Ngày 9/7/2004: Một đại gia trong ngành Ngân hàng Nga- Guta bank- thông báo tạm khóa các tài khoản tiền gửi trên toàn quốc do chi trả trong tháng 6 vượt 10 tỷ rúp (tương đương 345 triệu USD). Ngân hàng đã đóng cửa 76 chi nhánh và ngừng hoạt động hơn 400 máy ATM. Ngày 10/7/2004: Ngay sau khi Guta khóa các tài khoản tiền gửi, người dân đổ xô đi rút tiền ở ngân hàng khác để đề phòng r ơi vào hoàn cảnh tương tự. Ngày 16/7/2004: Các Ngân hàng Nga đã từ chối cung cấp tín dụng cho nhau, lãi suất tiền gửi tăng song khách hàng vẫn ồ ạt xếp hàng rồng rắn bên ngoài các tòa nhà ngân hàng để chờ đến lượt rút tiền. Ngày 17/7/2004: Ngân hàng Alfa, đại gia thứ 4 trong ngành tài chính Quyết định áp dụng biện pháp cấp bách là phạt 10% số tiền nếu khách hàng rút trước thời hạn. Cùng lúc, báo chí trích lời một cơ quan quản lý tài chính Nga tuyên bố 10 ngân hàng nữa có thể sẽ bị đóng cửa trong nay mai. Tuy nhiên, một số phương tiện thông tin đại chúng lại tiết lộ họ có trong tay danh sách đen 27 ngân hàng đang bên bờ vực phá sản. Ngày 18/7/2004: Thống đốc NH trung ương Sergei Ignatiev và tổng thống Putin tuyên bố không hề có danh sách đen và khủng hoảng như vậy nhất thời là do tâm lý. Ông Sergei Ignatiev Quyết định giảm các tỷ lệ dự trữ tiền mặt của các ngân hàng từ 7% xuống 3,5% nhằm tăng khả năng thanh khoản, đồng thời áp dụng hàng loạt biện pháp cứu Guta. Ngày 20/7/2004: Nhiều ngân hàng đã sụp đổ, người gửi tiền tràn đến các nhà băng để rút tiền vì lo ngại cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998 tái diễn và họ sẽ mất những khoản tiền tiết kiệm dành dụm cả đời. Phản ứng của chính phủ trong giai đoạn này là lên kế hoạch để Vneshtorgbank của nhà nước mua lại Ngân hàng Guta. Ngày 27/7/2004: Phó chủ tịch Ủy ban tài chính Duma Pavel Medvedv tuyên bố trong tuần, các ngân hàng sẽ thoát khỏi tình trạng tồi tệ hiện nay. Page 15
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ Vậy nguyên nhân của tình trạng mất khả năng thanh khoản của các ngân hàng Nga là do đâu? Theo các chuyên gia, khủng hoảng rất dễ xảy ra bởi Nga hiện có quá nhiều ngân hàng, trong đó phần lớn là tổ chức tài chính nhỏ tồn tại bằng các hoạt động bất hợp pháp; Các ngân hàng có vốn sở hữu quá nhỏ bé, 90% ngân hàng ở đây có số vốn dưới 10 triệu USD; Ngoài biện pháp giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt các cơ quan quản lý tài chính của Nga chưa đưa ra được biện pháp có hiệu quả nào để giải quyết vấn đề. 3.3) Một số vấn đề về tội phạm công nghệ: a) Nga thiệt hại hơn 600 triệu USD do tội phạm mạng Trong năm 2012, tội phạm mạng đã gây thiệt hại 615 triệu USD cho người dân Nga. Đây là số liệu do công ty Group-IB, hoạt động trong lĩnh vực ngăn chặn và điều tra tội phạm mạng và các vụ lừa đảo sử dụng công nghệ cao, công bố ngày 10/9. Theo Group-IB, trong năm ngoái, hệ thống ngân hàng điện tử của Nga đã chịu tổn thất 446 triệu USD. Ngoài ra, việc bọn tội phạm đánh cắp và sử dụng dữ liệu cá nhân của chủ tài khoản gây thiệt hại 57 triệu USD, việc lấy cắp tiền qua mạng gây thiệt hại 23 triệu USD, trong khi dịch vụ "rửa" tiền từ các khoản thu nhập bất hợp pháp "ngốn" mất 89 triệu USD. Theo kết quả điều tra năm 2012 của Group-IB cũng như việc theo dõi hoạt động của tội phạm mạng, trên lãnh thổ Nga có 12 nhóm tội phạm có tổ chức, trong đó 8 nhóm chuyên lấy cắp tiền từ tài khoản ngân hàng của các pháp nhân, và 4 nhóm thực hiện hành động phạm tội tương tự đối với các thể nhân. Tính trung bình mỗi ngày xảy ra 44 vụ lấy cắp tiền từ các hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử tại Nga. IV. Rủi ro tỷ giá hối đoái: 1) Khái niệm : Rủi ro tỉ giá hối đoái là rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay ngoại tệ hoặc quá trình kinh doanh ngoại tệ khi tỉ giá biến động theo chiều hướng bất lợi cho khách hàng. 2) Nguyên nhân dẫn đến phát sinh rủi ro ngoại hối đối với một ngân hàng: + Rủi ro hối đoái trong kinh doanh ngoại tệ, gồm 2 hoạt động sau: • Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng hoặc cho chính ngân hàng, nhằm cân bằng trạng thái ngoại hội để phòng ngừa rủi ro tỉ giá. • Mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ kiếm lãi khi tỉ giá biến động. + Sự không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ. Hay nói cách khác là việc các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ. Giả sử, khi một ngân hàng Việt Nam cấp tín dụng bằng USD cho khách Page 16
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ hàng của mình . Khi đồng USD giảm giá so với VND, thì gốc và lãi của khoản vay bằng USD thu về sẽ bị giảm khi quy thành VND. 3) Ví dụ về rủi ro tỷ giá hối đoái: Chẳng hạn, hiện nay Ngân hàng Dự Trữ Liên Bang Mỹ đã hạ lãi suất xuống mức thấp nhất chỉ còn 1,25%/năm. Đây là cơ hội hiếm có cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể vay vốn ngoại tệ với chi phí rẽ. Tuy nhiên, nếu vay USD trong th ời gian tương đối dài với số lượng lớn, doanh nghiệp cần lưu ý tác động của yếu tố rủi ro tỷ giá. Ví dụ công ty Giadimex đang thương lượng xin vay vốn tài trợ xuất khẩu của HSBC số tiền 3 triệu USD để thu mua và chế biến hàng xuất khẩu. Hiện tại do lãi suất USD trên thị trường giảm nên HSBC đồng ý cho Giadimex vay với lãi suất 3%/năm trong thời hạn 6 tháng. Hiện tại tỷ giá USD/VND = 15.381. Sáu tháng sau khi nợ đáo hạn, tỷ giá USD/VND là bao nhiêu công ty chưa biết, do đó, công ty đối mặt với rủi ro tỷ giá nếu ký kết hợp đồng vay vốn này. Công ty ước tính, sáu tháng sau phải trả nợ cả gốc và lãi là 3(1+ 0,03 x 6/12) = 3,045 triệu USD. Với t ỷ giá hiện tại công ty phải bỏ ra 3,045 x 15.381 = 46.835,145 triệu VND trả nợ và lãi. Nhưng nếu sáu tháng sau tỷ giá USD/VND = 15.481 thì cứ mỗi USD phải trả công ty phải bỏ thêm 100VND, tổng chi phí trả nợ và lãi sẽ lên đến 3,045 x 15481 = 47.139,645 triệu VND, tăng 47.139,645 – 46.835,145 = 304,5 triệu VND so với ước tính. V. Rủi ro sở hữu chéo: 1) Khái quát về sở hữu chéo 1.1) Thâu tóm ngân hàng, nợ xấu và tăng vốn ảo là 3 rủi ro lớn xuất phát từ sở hữu chéo trong hoạt động ngân hàng. Có 3 rủi ro lớn xuất phát từ sở hữu chéo trong hoạt động ngân hàng đã được Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, nêu ra. Đó là thâu tóm ngân hàng, nợ xấu và tăng vốn ảo, từ đó dẫn đến rủi ro mang tính hệ thống. Sở hữu chéo xuất hiện khi một công ty A hay nhà đầu tư A đ ầu tư vào công ty B, sau đó công ty B đầu tư lại vào công ty A hoặc cả công ty A lẫn B đầu tư vào công ty C. Sau đó công ty C đầu tư ngược trở lại vào công ty A và công ty B. Có th ể hiểu đơn giản như vậy. Trên thực tế, có thể chu trình của sở hữu chéo còn phức tạp hơn thế nữa.Theo quy định, một cá nhân không được sở hữu quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng, nhưng thông qua sở hữu chéo, họ vẫn thâu tóm hoặc gây ảnh hưởng đến ngân hàngHọ có thể lách luật, thâu tóm ngân hàng bằng cách sử dụng hình thức ủy quyền. Tức cá nhân A chỉ được sở hữu không quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng, nhưng trên thực tế cá nhân này chỉ nắm 2%, còn lại ủy Page 17
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ quyền vốn cho nhiều cá nhân hoặc tổ chức khác không họ hàng gì với cá nhân A để cùng đầu tư vào một ngân hàng. Vì thế, sở hữu chéo là vấn đề Việt Nam còn rất ít kinh nghiệm và rất khó kiểm soát. Điều này cần phải truy lại từ thời kỳ đầu những năm 1990, khi các ngân hàng thương mại nhà nước đầu tư vào ngân hàng nhỏ để tái cấu trúc các ngân hàng này.Lúc đó, chỉ đơn thuần là ngân hàng lớn đầu tư vào ngân hàng nhỏ chứ chưa lằng nhằng như sau này, khi các doanh nghiệp phi tài chính đầu tư vào ngân hàng, trở thành những ông chủ ngân hàng hay chiếm vị trí chi phối trong ngân hàng. Sau đó họ lại đầu tư vào các ngân hàng khác. Các ngân hàng khác lại có chu trình đ ầu tư rất phức tạp, đan chéo nhau như sở hữu chéo đã nói ban đầu. Do đó, mức độ rủi ro cao hơn trong khi khả năng giám sát của chúng ta lại không theo kịp tình hình thị trường. Có một đặc điểm chung khi nói đến rủi ro của thị trường tài chính ngân hàng. Đó là rủi ro mang tính hệ thống, dù rủi ro ấy ban đầu chỉ xuất phát từ một vài tổ chức riêng lẻ. Vì đó là quan hệ giữa dòng tiền với nền sản xuất thực, nên sự đổ vỡ của một vài tổ chức sẽ không chỉ lan tỏa trong hệ thống ngân hàng (do mối quan h ệ lằng nhằng giữa các ngân hàng), mà còn ra cả hệ thống sản xuất kinh doanh ngoài ngân hàng. Nợ xấu là hệ lụy của câu chuyện vừa nêu. Nếu giám sát không chặt chẽ, dòng tiền có thể chuyển sang cho vay các dự án sân sau của chính những người chi phối hoặc làm chủ ngân hàng. Việc nguồn lực phân bổ không được đánh giá, giám sát đầy đủ sẽ dễ gây ra nợ xấu. Khi đã xuất hiện nợ xấu, việc xử lý sẽ khó khăn hơn nhiều, do mối quan hệ lằng nhằng của sở hữu chéo.Các ngân hàng cũng có thể đầu tư chéo vào nhau, nắm cổ phần của nhau, qua đó giúp nhau nâng vốn điều lệ một cách nhanh chóng. Điều này có thể đã xảy ra ở Việt Nam nếu quan sát 2 điểm. Thứ nhất là những vụ việc gần đây và dòng tiền đầu tư của các ngân hàng thương mại. Thứ hai là trong thời gian quá ngắn, họ lại có được số vốn rất lớn để tăng vốn điều lệ. Đây là vốn sở hữu của ngân hàng. Điều đó cho thấy vốn ảo là có thực trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Điều này nguy hiểm ở chỗ, sở hữu chéo làm sai lệch việc đánh giá rủi ro c ủa hệ thống ngân hàng, vì có rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn sở hữu mà ngân hàng đang nắm, trong khi vốn đó là vốn ảo. Các chỉ số không chính xác sẽ dẫn đến những sai lệch, cả về quản trị ngân hàng lẫn giám sát hệ thống tài chính.Chắc chắn là có rủi ro, vì sở hữu chéo giảm tính minh bạch, giảm khả năng giám sát và tăng khả năng đổ vỡ của một định chế tài chính. Khi đó người gửi tiền sẽ chịu thiệt hại. Kinh nghiệm của các nước vào những thời điểm khủng hoảng, cần cải tổ hệ thống tài chính cho thấy, họ đều nâng mạnh số tiền bảo hiểm, thậm chí bảo hiểm 100% giá trị khoản tiền gửi. Điều này là để có được sự ổn định trong quá trình tái Page 18
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ cấu trúc hay cải cách để làm lành mạnh hệ thống ngân hàng. Ở nhiều nước trong giai đoạn khủng hoảng 2008-2009, bảo hiểm tiền gửi đã giúp tránh được tình trạng người dân quá lo lắng, ồ ạt đến ngân hàng rút tiền. Như vậy, trong điều kiện bình thường, cần phải có một tỉ lệ bảo hiểm tiền gửi nhất định, nhưng vẫn phải đảm bảo rằng, nếu một ngân hàng làm ăn kém thì ngân hàng đó phải chấp nhận phá sản. Còn trong khủng hoảng mà cần tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, có thể buộc phải chấp nhận mức bảo hiểm tiền gửi rất cao, thậm chí là 100% giá trị khoản tiền gửi. Nếu sở hữu chéo nằm trong hoạt động sản xuất kinh doanh thực, hoạt động phi tài chính, trong một chừng mực nhất định nào đó, nếu năng lực tài chính và quản trị của doanh nghiệp tốt thì sở hữu chéo có thể tạo ra những lợi thế nhất định trong kinh doanh. Ví dụ như lợi thế quy mô, lợi thế kiểm soát chuỗi giá trị. Thế nhưng, nếu sở hữu chéo gắn với khu vực tài chính - ngân hàng thì rủi ro sẽ rất cao. Nói chung, các nhà kinh tế đều rất e ngại với chuyện không tạo ra một bức tường lửa giữa ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại. Bởi lẽ, bản chất sở hữu chéo là các dòng vốn đầu tư lẫn nhau mà lại chịu sự chi phối của một người hay một nhóm người nhất định. 1.2) Sở hữu chéo tại các Chaebol Hàn Quốc Sở hữu chéo đơn giản là việc 2 tổ chức sở hữu cổ phần lẫn nhau, chẳng hạn như công ty (Cty) A đầu tư vào Cty B, sau đó B lại đầu tư vào A. Ở Hàn Quốc, sở hữu chéo được coi là đặc trưng nổi bật của các tập đoàn kinh doanh quy mô l ớn (Chaebol). Mối quan hệ sở hữu chéo không chỉ giữa các Cty thành viên trong nội bộ Chaebol mà còn giữa các Chaebol với nhau. Luật Thương mại của Hàn Quốc quy định rõ giới hạn cho phép đối với vấn đề này, theo đó, các Cty con không đ ược phép nắm giữ cổ phiếu của Cty mẹ và Cty mẹ cũng không được phép nắm giữ quá 40% cổ phần của Cty con. Tuy việc nắm giữ cổ phần chéo không được phép nhưng một Cty vẫn có thể đầu tư vốn vào một Cty khác và sau đó chuyển vốn cổ phần sang cho bên thứ 3. Hình thức này là hình thức đầu tư nội bộ, đ ược gọi là “mô hình kim tự tháp”. Mô hình này cho thấy, với số vốn đầu tư không quá lớn (chỉ cần đảm bảo mức khống chế ở một số Cty chủ chốt và một lượng vốn nhỏ ở các Cty con) nhưng phạm vi ảnh hưởng của Cty mẹ hay các gia đình sáng lập thực sự rất lớn. Cty mẹ chỉ cần duy trì tỷ lệ cổ phần khống chế tại Cty A và Cty B nhưng vẫn có ảnh hưởng rất lớn tới các Cty con của A và B. Tuy nhiên, chính sự tập trung này cộng thêm với các chính sách bảo hộ quá lớn của Chính phủ là những nguyên nhân căn bản gây nên rất nhiều vấn đề bất cập ở Hàn Quốc: Thứ nhất, những bất cập liên quan tới quản trị doanh nghiệp (DN): Tình trạng quản lý không rõ ràng, kém hiệu quả trong quản lý do những mối quan hệ qua l ại Page 19
- Trường Đại học Ngoại thương Tiểu lu ận Tài chính- ti ền t ệ đan xen trong mô hình sở hữu chéo khá phổ biến. Các Cty niêm yết trực thuộc các chaebol luôn có quan niệm mang tính mặc định là những người lãnh đạo sẽ không bao giờ bị thay thế. Vị trí của những người này sẽ vẫn được duy trì đến chừng nào những người ủng hộ họ vẫn còn nắm giữ các vị trí quản lý tại các Cty con, vì thế họ đương nhiên sẽ trúng cử trong đại hội cổ đông. Thêm nữa là tình trạng không phân định rõ ràng chức năng quản trị của Hội đồng quản trị (HĐQT) với chức năng quản lý của Ban điều hành và thiếu tính minh bạch trong quản lý DN. Cho đ ến năm 1997, HĐQT của tất cả các Cty niêm yết chỉ bao gồm những “người trong cuộc” và họ có quyền chỉ định kiểm toán viên bên ngoài. Vì thế, tính độc l ập c ủa các kiểm toán viên bên ngoài luôn là một vấn đề gây nhiều nghi vấn. Sau cuộc khủng hoảng 1997, Sở Giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc đã buộc các Cty muốn niêm yết phải có tối thiểu là 1/4 thành viên của HĐQT là các thành viên độc lập từ bên ngoài. Đồng thời, phải thành lập một uỷ ban bao gồm cả kiểm toán viên nội bộ, thành viên độc lập từ bên ngoài và các chủ nợ để lựa chọn (hoặc gợi ý lựa chọn) kiểm toán viên bên ngoài nhằm tăng thêm tính minh bạch cho hoạt động kiểm toán. Thứ hai, sự thiếu lành mạnh trong cơ cấu vốn của các chaebol: Chính tình trạng sở hữu chéo cộng với sự quản lý trực tiếp từ gia đình sáng lập gần như không tạo ra một cơ chế điều hành hiệu quả. Các Cty hoạt động kinh doanh hiệu quả sẽ phải trợ cấp cho các Cty hoạt động không hiệu quả trong nội bộ chaebol thông qua hoạt động đầu tư và bảo lãnh chéo. Vấn đề “giải quyết nội bộ” như vậy khiến cho các Cty mạnh bị yếu đi và trên bình diện chung gây nên tình trạng thiếu lành mạnh về cơ cấu vốn, thậm chí tạo nên dòng “vốn ảo”. Khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 đã cho thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ xấu là việc các Cty gia đình này nắm quyền kiểm soát ở các NHTM và sử dụng những NHTM này tài trợ cho các dự án của mình và các Cty có liên quan. Vì thế, sau khủng hoảng, Hàn Quốc đã cấm ngay các tập đoàn không được đầu tư vào các lĩnh vực khác. VI. Rủi ro nguồn vốn: 1) Khái niệm: Rủi ro về nguồn vốn thường xẩy ra dưới hai hình thức: rủi ro thiếu vốn và rủi ro thừa vốn. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rõ về khái niệm thừa và thiếu vốn trong kinh doanh ngân hàng. Thừa vốn là tình trạng vốn tồn đọng ở quỹ nghiệp vụ, bao gồm cả quỹ thanh toán tiền gửi ở ngân hàng Nhà Nước, quỹ tiền mặt, quỹ dự trữ của ngân hàng. Thiếu vốn là tình trạng xuất hiện trong các bộ phận thanh toán của ngân hàng. Page 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận tài chính tiền tệ: Tài chính trong xu thế hội nhập quốc tế
31 p | 647 | 123
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và sự tăng trưởng kinh tế
22 p | 317 | 81
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái
29 p | 495 | 73
-
Tiểu luận tài chính tiền tệ: Đánh giá FDI cho sự phát triển kinh tế Việt Nam
35 p | 345 | 62
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng
17 p | 299 | 59
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
13 p | 235 | 58
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và nợ công
33 p | 258 | 51
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái
12 p | 250 | 51
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế
31 p | 197 | 48
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
23 p | 268 | 47
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế
18 p | 223 | 38
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm tắt lý thuyết mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước
24 p | 172 | 34
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lượt lý thuyết mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái
22 p | 179 | 32
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và ngưỡng bội chi
11 p | 176 | 22
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
30 p | 131 | 21
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Cổ phiếu ưu đãi của công ty con, lãi hợp nhất trên cổ phiếu và chi phí thuế TNDN hợp nhất
40 p | 162 | 19
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
18 p | 135 | 16
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và nợ công
12 p | 135 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn