TIỂU LUẬN: Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội những khía cạnh lý thuyết
lượt xem 29
download
Loài người đang háo hức đón chờ một thiên niên kỷ mới với cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh, thôi thúc mọi quốc gia dân tộc vào một cuộc đua tranh quyết liệt vì sự phát triển. Nhưng dường như không phải dân tộc nào và những công dân của nó cũng được chuẩn bị đầy đủ để tham gia cuộc đua. Một số ít quốc gia dân tộc sẽ vươn lên nhanh chóng và một số nhóm người sẽ trở nên giàu có, để lại các dân tộc và những nhóm...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội những khía cạnh lý thuyết
- TIỂU LUẬN Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội những khía cạnh lý thuyết 1
- Lời Mở đầu Loài người đang háo hức đón chờ một thiên niên k ỷ mớ i với cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh, thôi thúc mọi quốc gia dân tộc vào một cuộc đua tranh quyết liệt vì sự p hát triển. Nhưng dườ ng như không phải dân tộc nào và những công dân của nó cũng đ ược chuẩn bị đầy đủ đ ể tham gia cuộc đua. Một số ít q uốc gia dân tộc sẽ vươ n lên nhanh chóng và một số nhóm người sẽ trở nên giàu có, đ ể lại các dân tộc và những nhóm người còn phải sống trong nghèo khổ. Theo báo cáo của Liên hợp quốc năm 1996, trong hơ n ba thập kỷ q ua, mặc dù nền kinh tế thế giới có tốc đ ộ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng: thu nhập quốc dân bình quân đ ầu ngườ i tăng lên 3 lần, GDP của thế giới tăng gần 6 lần, từ 4.000 tỷ U SD năm 1960 lên 23.000 tỷ USD năm 1994, nhưng hố ngăn cách giữa ngườ i giàu và ngườ i nghèo trên thế giới đng ngày càng sâu thêm; thu nhập của 358 nhà tỷ p hú trên hành tinh lớn hơn các khoản thu nhập tổng cộng của gần 2,3 t ỷ ngườ i nghèo nhất, chiếm 45% dân s ố toàn thế giới; chênh lệch về thu nhập giữa các nước côn nghiệp với các nước đ ang phát triển đã tăng 3 lần. Trong hơn 30 năm qua, thu nhập của nhóm 20% người nghèo nhất hành tinh đã giảm xuống còn 1,4% thu nhập của thế giới. Trong khi đó phần thu nhập của nhóm 20% ngườ i giàu nhất đã tăng lên đến 85%. Điều đáng lưu ý là từ năm 1965 đến 1980 có 200 triệu người có thu nhập giảm dần và từ năm 1980 đến 1993 có trên 1 tỷ người rơi vào tình trạng trên. ở M ỹ, số của cải do 1% những ngườ i giàu nhất nắm giữ đã tăng từ 20% lên 30% của cải quốc gia trong thời kỳ 1975-1990. ở các nước đang phát triển như Goatêmala, Panama hoặc Braxin, thu nhập của những người giàu gấp 30 lần thu nhập của những người nghèo. Một điều hiển nhiên nữa là, không có tăng trưởng kinh tế thì không giải quyết được nghèo đói và bất công. Nhưng phải chăng đói nghèo và bất công là tất yếu trên con đ ường phát triển, là cái giá phải trả cho tăng tr ưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu là hoạch định chính sách ở mọi quốc gia. Tuy nhiên, vì sự hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ và góp ý của thầ y (cô) để em có thể hoàn thành tốt công việc nghiên cứu của mình. Em xin chân thành cảm ơ n thầy Vũ Ngọc Pha – giáo viên giảng dạy bộ môn Triết học Mác - Lênin đã giúp đỡ, giảng giải rất nhiều đ ể em có thể hoàn thành bài tiểu luận này 2
- Chương I Tăng trư ởng kinh tế và công bằng Xã hội những khía cạ nh lý thuyết Tăng trưở ng kinh tế và công bằng xã hội là mục tiêu và ước vọng của tất cả các dân tộc và của mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu kép này không dễ dàng, và trong thực tiễn đ ã có nhiều bằng chứng về sự đối lập giữa tăng trưởng và công bằng. Các chính sách dựa trên mục tiêu công bằng có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, một chính sách chỉ nhằm vào tăng trưởng có thể làm cho bất b ình đẳng tăng lên. Vậy thế nào là mối quan hệ hợp lý giữa tăng trưởng và công b ằng? Chươ ng này bàn về những quan điểm lý thuyết chủ yếu về chủ đề này. I. Tăng trưởng và công bằng: Khái niệm, thước đo Trong các tài liệu kinh tế hiện nay, không ít các chươ ng trình nghiên cứu về chủ đ ề này. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh té và công bằng xã hội được lý giải hoặc là dựa trên sự đối lập giữa hai phạm trù này, hoặc dựa trên sự thống nhất và tương hỗ căn b ản giữa chúng. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thiên về tìm đ ến sự thống nhất giữa tăng trưởng và công bằng. Tuy nhiên, trong khi luận giải, có không ít sự nhầm lẫn giữa các phạm trù và chưa vạch ra được cơ chế đ ảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưở ng và công b ằng. Sau đây, sẽ là kiến giải thế nào là sự thống nhất giữa tăng trưởng và công b ằng xã hội, cơ chế nào đ ảm b ảo cho những tươ ng tác giữa tăng trưởng và công b ằng. Tăng trưở ng kinh tế được biểu hiện một cách phổ quát theo quan điểm kinh tế học là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thờ i gian. Tăng trưởng kinh tế theo nghĩa này thường được đo lườ ng bằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo thời gian hoặc tăng thu nhập theo đầu người. Nói cách khác tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện mặt lượng của nền kinh tế qua thời gian. Tuy nhiên, khi xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công b ằng xã hội, khái niệm tăng trưởng kinh tế đ ược hiểu theo nghĩa r ộng hơ n. Walter Rostow đã dùng khái niệm tăng trưởng để đưa ra một lý thuyết tổng quát về p hát triển. Ông chia quá trình p hát triển của xã hội loài người thành năm giai đoạn tăng trưở ng từ xã hội truyền thống đ ến xã hội hiện đại. Quan niệm này rõ ràng nhấn mạnh đến nội dung kinh tế của quá trình p hát triển, hay nói cách khác, tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cho phát triển. Và cũng chính vì vậ y, nó bộc lộ những khuyết điểm và làm nả y sinh nhiều câu hỏi. Thứ nhất, liệu tăng trưởng kinh tế có đưa đến phát triển hay không, nói cách khác, tăng trưởng kinh tế có bảo đảm giải quyết tất cả các vấn đề xã hội có liên quan đến sự phát triển hay không. Thứ hai, liệu tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra liên tục trong những đ iều kiện bất b ình đẳng xã hội hay không. Những câu hỏi này đ ã được các nhà nghiên cứu về p hát triển 3
- trả lời và quan điểm khá phổ biến hiện nay là không thể đ ồng nhất tăng trưởng kinh tế với p hát triển. Một nội dung quan trọng của phát triển là công bằng xã hội. Vậy khái niệm công b ằng xã hội đ ược hiểu như thế nào. Khác vớ i khái niệm tăng trưở ng kinh tế trong kinh tế học là cái có thể xác định b ằng những con số, khái niệm công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tuỳ thuộc nhiều vào quan điểm của con người. Chính những quan niệm khác nhau về b ình đẳng đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau về q uan hệ giữa tăng trưởng và công b ằng. Trong kinh tế học, người ta sử dụng hai khái niệm khác nhau về b ình đẳng hoặc công bằng. Khái niệm thứ nhất là công bằng theo chiều ngang, nghĩa là đối xử như nhau vớ i những người có đóng góp như nhau. Khái niệm thứ hai là công bằng theo chiều dọc, nghĩa là đối xử khác nhau với những ngườ i có những khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện xã hội khác nhau. Nếu như công bằng theo chiều ngang được thực hiện b ởi cơ chế thị trường thì công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của chính phủ. Việc phân định và kết hợp công b ằng theo chiều dọc và theo chiều ngang sẽ đảm bảo công bằng xã hội thực sự. Như vậy, công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, hoàn chỉnh gồm cả các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Có thể có bình đẳng về phương diện kinh tế nhưng chưa chắc có bình đẳng về phương diện khác. Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập được phân bổ theo mức độ tham gia của các yếu tố (vốn, kĩ thuật, lao động, tài nguyên) vào quá trình sản xuất và do đ ó có thể đảm bảo sự bình đ ẳng về phươ ng diện kinh tế. Tuy nhiên, các tầng lớ p xã hội khác nhau có thể không có được những bình đẳng trong các hoạt động chính trị, xã hội. Chính nội hàm rộng của khái niệm bình đẳng xã hội đ ã làm cho vấn đề của khái niệm bình đẳng trở nên phức tạp. Cho đến nay, người ta vẫn chủ yếu sử dụng các công cụ đ o lường mức đ ộ bình đẳng trong phân phối thu nhập đ ể biểu đạt bình đ ẳng xã hội nói chung. Thu nhập được phân phối theo các yếu tố của quá trình sản xuất (được gọi là phân p hối theo chức năng), hoặc theo các nhóm dân cư ( đ ược gọi là phân phối theo mức độ). Phân phối theo mức độ thường được sử dụng nhiều hơn. Phương pháp phổ biến nhất để đ o mức độ bình đẳng trong phân phối là tính tỷ lệ thu nhập nhận được bởi nhóm 20% dân s ố lớp dưới cùng so vớ i thu nhập mà nhóm 20% dân số lớ p trên cùng nhận được. Nếu tỷ lệ này càng nhỏ, mức đ ộ bất bình đẳng càng lớn, và ngược lại. Người ta còn có thể đo mức độ bất bình đẳng bằng cách so sánh thu nhập của nhóm 10% hoặc nhóm 5% ngườ i nghèo nhất với thu nhập của nhóm 10% hoặc nhóm 5 % người giàu nhất. Phươ ng pháp này chỉ cho thấy sự cách biệt về thu nhập giữa số ít thuộc tầng lớp giàu có nhất và số ít thuộc tầng lớp nghèo nhất mà không thể hiện được trạng thái bất bình đẳng xã hội nói chung. Chẳng hạn ,ở một xã hội, có thể có sự chênh lệch thu nhập rất lớ n giữa một số nhỏ thuộc tầng lớp giàu có nhất và một số nhỏ thuộc tầng lớp đáy, nhưng có thể đại đa số dân cư nằm ở tầng trung lưu, nghĩa là có mức thu nhập không chênh lệch nhiều so vớ i tầng lớp giàu có. Một trong những công cụ để biểu đạt mức đ ộ bất bình đẳng được sử dụng trong kinh tế học là đường cong Lorenz mang tên nhà kinh tế học nêu lên học thuyết này. Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông mà cạnh bên là phần trăm số thu nhập còn cạnh đáy biểu thị số phần trăm các nhóm dân sắp xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần. Đườ ng cong Lorenz chỉ ra tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập cộng dồn theo tỷ lệ phần trăm cộng dồn của người nhận. 4
- Phần trăm dân số Phần trăm dân số Một sự phân phối tương đối bình đẳng Một sự phân phối tương đối bất bình đẳng Đường cong Lorenz càng lớn, m ức độ bấ t bình đẳng càng cao Đ ường chéo của hình vuông biểu thị mức đ ộ bình đẳng hoàn toàn trong phân phối: cứ b ao nhiêu phần trăm số người nhận thì được từng ấy phần trăm trong tổng thu nhập. Chẳng hạn, 10% dân cư được nhận đúng 10% tổng thu nhập. Đường cong Lorenz bắt đầu từ điểm gốc của đ ường chéo này và kết thúc ở đầu phía trên của đường chéo: 0% người nhận phải có được 0% thu nhập và 100% người nhận phải có 100% thu nhập. Trong trường hợp chỉ có 1 người nhận toàn bộ thu nhập, đường cong Lorenz sẽ chạy theo cạnh đ áy và cạnh bên phải. Đó là trường hợp hoàn toàn bất bình đ ẳng. Nhìn chung, đường cong Lorenz nằm ở khoảng giữa đường chéo (hoàn toàn bình đ ẳng) và đ ường hoàn toàn b ất bình đ ẳng. Mức độ cách xa đường chéo thể hiện mức độ bất bình đẳng. Hệ số G ini (Gini Coeficient) hay t ỷ lệ tập trung Gini mang tên nhà thống kê học người Italia, là thước đo sử dụng phổ biến để xác đ ịnh mức độ bất bình đẳng trong phân p hối thu nhập. Hệ số này đ ược xác định b ằng cách lấ y diện tích hình a đ ược xác định bởi đ ường cong Lorenz và đ ường bình đ ẳng chia cho diện tích tam giác BCA. Điều này có nghiã là khoảng cách giữa đường cong Lorenz và đường bình đẳng càng lớ n thì hệ số Gini càng cao. Hệ số này trải r ộng từ 0 (hoàn toàn bình đẳng) đến 1 (hoàn toàn bất bình đ ẳng). Tuy vậy, việc sử dụng phương pháp này cũng có nhiều hạn chế, bởi vì diện tích hình a có thể như nhau (nghĩa là nhận đ ược hệ số Gini giống nhau) nhưng được phân bổ các nhóm dân cư có mức thu nhập khác nhau là khác nhau, do đó hình dạng của đường cong Lorenz khác nhau. Như vậy, việc sử dụng đường cong Lorenz hoặc hệ số Gini chỉ cho phép hình dung một cách khái quát mức độ bất bình đẳng, còn phương pháp xem xét thu nhập của nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất chỉ cho biết chênh lệch giữa hai cực giàu nghèo của xã hội. Mặc dù trong nhiều trường hợp các kết quả không trùng khớp với nhau, song việc tính toán dựa trên các phươ ng pháp này đều cho thấy xu hướng chung của mức độ bất b ình đẳng trong phân phối thu nhập. Các phương pháp đ o mức đ ộ bất bình đ ẳng trong phân phối thu nhập như trên mặc dù rất hữu dụng nhưng chưa đủ để xác định công bằng xã hội ở một nước. Có thể có sự bất bình đ ẳng nhất định trong phân phối thu nhập song chưa chắc đã có công bằng xã hội xét về nhiều khía cạnh khác. Chẳng hạn, khi người ta có mức thu nhập ngang nhau nhưng sống trong những điều kiện khác nhau hoặc được cung cấp các dịch vụ khác nhau thì mức đ ộ bất bình đẳng thực sự sẽ khác nhau. Vì vậ y, các nhà nghiên cứu về phát triển đ ã đ ưa ra hàng loạt cách thức khác để xác định mức độ công b ằng xã hội. Mức độ nghèo khổ. Để xác định được mức đ ộ nghèo khổ, ngườ i ta phải đ ưa ra đ ường giới hạn nghèo khổ. Chẳng hạn, Liên hợ p quốc đã xác định ngườ i có mức sống dưới 1 USD/ngày ở các nước đ ang phát triển thì được coi là nghèo khổ. Còn đối với các 5
- nước phát triển thì đường nghèo khổ được xác định là14 USD/người/ngày tính theo sức mua tương đ ương. Tuy vậ y, đường danh giới nghèo khổ cũng chỉ là thướ c đo số lượng về mức độ bất bình đẳng. Cần bổ sung các tiêu chí chất lượng như mức độ cung ứng các dịch vụ, môi trường sống... Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người được coi là một chỉ số đ ánh giá trình độ phát triển của một nước ở một thờ i kỳ nhất định. Những nhu cầu cơ bản này b ao gồm mức tối thiểu về dinh dưỡng, sức khoẻ, mặc, ở và các khả năng đảm bảo sự phát triển của cá nhân. Mặc dù có thể khác nhau về nhu cầu cơ bản, nhưng nhìn chung có thể đ o lườ ng các nhu cầu này. Một xã hội không được coi là công bằng khi đ ại đa số dân cư không được thoả mãn các nhu cầu cơ bản này b ất luận mức thu nhập quốc dân bình quân đ ầu người có thể cao. Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp do Viện Nghiên cứu phát triển xã hội của Liên hợp quốc nêu ra bao gồm một danh sách 73 chỉ tiêu kinh tế, chính tr ị, xã hội. Trên thực tế, rất ít nước có thể thoả mãn các chỉ tiêu này. Vì vậy, đối với các nước đ ang phát triển, mặc dù có tốc đ ộ tăng trưởng kinh tế cao nhưng không phải bao giờ cũng đạt đượ c chỉ số p hát triển xã hội cao. Việc đưa vào chỉ số phát triển xã hội tổng hợp quá nhiều chỉ số đã gây khó khăn cho việc tính toán. Vì vậy, người ta nêu ra một chỉ số khác được gọi là “chỉ số vật chất của cuộc sống” (The Physical Quality of Life Index – PQLI). Chỉ số được tính toán dựa trên ba tiêu chí cơ bản là tuổi thọ dự báo, t ỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, t ỷ lệ xoá nạn mù chữ. Các tiêu chí này hiển nhiên là quá ít và không đề cập trực tiếp đ ến thu nhập. Tuy vậ y, kết quả nghiên cứu cho thấy, các nước có mức thu nhập bình quân đầu ngườ i cao không phải bao giờ cũng đạt đ ược PQLI cao. Nói cách khác, chỉ số này phản ánh những khía cạnh cơ bản của sự phát triển xã hội và gián tiếp nói lên mức độ công bằng xã hội của một nước. Một chỉ số khác tươ ng tự được sử dụng nhiều trong thời gian gần đây là chỉ số phát triển con ng ười (HDI) do chươ ng trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đưa ra và sử dụng lần đ ầu tiên vào năm 1990. Chỉ số này trải từ 0 (mức độ phát triển con người thấp nhất) đến 1 (mức độ p hát triển con người cao nhất) và được tính toán dựa trên ba chỉ số về phát triển là tuổi thọ, kiến thức (đo bằng tuổi bình quân của ngườ i lớn biết chữ và số năm đ i học) và thu nhập (được đo bằng thu nhập bình quân đầu người thực tế đã được đ iều chỉnh). Như vậ y, so với PQLI, mặc dù HDI cũng chỉ dựa trên ba tiêu chí nhưng chỉ tiêu này có tính bao quát hơn do nó thể hiện được ba khía cạnh quan tr ọng nhất của con người về tuổi tác, trí tuệ và mức sống. Theo chỉ số này năm 1990, Ghinê là một nước có trình độ p hát triển thấp nhất (0.050) và Canađa là nước có trình độ phát triển cao nhất (0.982), Việt Nam thuộc nhóm phát triển trung bình (0.557) vào thờ i đ iểm năm 1994. II. Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội Việc xác định rõ khái niệm và các tiêu chí đo lườ ng tăng trưởng kinh tế và công b ằng xã hội mặc dù phức tạp nhưng vẫn chưa giải quyết đ ược vấn đề cơ bản là giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có quan hệ với nhau như thế nào. Phải chăng đó là hai q uá trình đối nghịch? Nếu vậy, tăng trưởng không thể đưa đến phát triển xã hội. Nếu không đối nghịch thì tự thân tăng trưởng kinh tế có tạo ra công bằng xã hội hay không và nó có thể xả y ra đồng thời với công bằng xã hội hay không. Công b ằng xã hội chỉ là hệ q uả của tăng trưởng kinh tế hay còn là điều kiện tiền đề của nó. Đó là những vấn đề đã đ ược thảo luận r ộng rãi trong kinh tế học phát triển và kinh tế học phúc lợ i cũng như trong các ngành khoa học xã hội nhân văn khác trong nhiều thập kỷ. Những quan điểm về vấn đề này có thể khái quát thành một số trường phái chính: 6
- 1. Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đ ến bất bình đẳng . Những người theo quan đ iểm này cho rằng tăng trưởng kinh tế được đ ảm bảo bằng bất bình đẳng trong phân phối và làm gia tăng sự b ất bình đẳng này. Lập luận của họ là: chỉ tầng lớp có thu nhập cao mới có khả năng tích luỹ và do đó là nguồn gốc đảm b ảo đầu tư chủ yếu cho tăng trưởng nên bất kỳ sự phân phối nào làm giảm mức độ tập trung thu nhập này đều ảnh hưở ng xấu đ ến tăng trưởng kinh tế. Lập luận này không phải không có cơ sở thực tiễn lịch sử của sự p hát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhờ quá trình tích tụ và tập trung tư bản kèm theo sự bần cùng hoá một tầng lớp đông đ ảo trong xã hội mà cuộc cách mạng công nghiệp có được lực đ ẩy phi thường. Nhà kinh tế học cổ điển Anh, David Ricardo, đ ã lập luận theo hướng đó. Ông cho rằng, tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bởi mức độ tiết kiệm cao của tầng lớp tư sản, và do đó, ông chống lại việc phân phối lại thu nhập bất lợ i cho giai cấp tư sản. C.Mác cũng giải thích sự p hát triển của chủ nghĩa tư b ản bằng lập luận tương tự, mặc dù ô ng phản đối trật tự hiện có của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ ra quá trình phát triển của chủ nghĩa tư b ản đã dẫn đến sự bất bình đẳng lớ n đ ến mức nó trở thành lực cản đối với sự p hát triển tiếp theo. Tháng 1-1993, khi Bill Clinton đắc cử tổng thống Mỹ và b ước vào Nhà trắng, thì Comment [L1]: trong ê-kíp của ông có một số nhân vật quan tr ọng là môn đ ồ của học thuyết Keynes, và chính những người này đã đ ề xuất các chính sách nhằm lái Hoa Kỳ ra khỏi quỹ đ ạo của chủ nghĩa tự do mới mà các chính quyền của R. Reagan và G. Bush đ ã thi hành từ 1981 đ ến1992. Tuy nhiên, trước sức ép của các thế lực tài chính, chính quyền Clinton đã phải chuyển sang lập trường “trung tâm” , nghĩa là một mặt tiếp tục thực hiện tự do hoá về kinh tế theo quan điểm của chủ nghĩa tự do mới, mặt khác thi hành một số chính sách xã hội đã hứa hẹn trong cương lĩnh tranh cử năm 1992 (như tạo thêm việc làm, cải tiến chế đ ộ tiền lương và trợ cấp xã hội, chế đ ộ bảo hiểm y tế và giáo dục, v.v.) nhằm tranh thủ lá p hiếu của đa số cử chi thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp nghèo trong cuộc b ầu cử lần sau. Sang nhiệm kỳ thứ hai, chính quyền Clinton lại đưa ra sáng kiến về việc xây dựng “Nền kinh tế mới”, dựa trên những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, trước hết là công nghệ thông tin, đồng thời tiếp tục chi từ ngân sách của nhà nước cho các chươ ng trình phúc lợi xã hội. Nhờ áp dụng những chính sách nói trên, nền kinh tế Mỹ đã duy trì đ ược 100 tháng tăng trưởng là thời k ỳ tăng trưởng dài nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai; tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 7,1% năm 1992 xuống 4% năm 1999. Tương tự lập trường “trung tâm” của Clinton, thủ tướng Anh Tony Blair cũng b ắt đầu ngả sang lý thuyết về “Con đường thứ b a” (The third way) do một nhà khoa học Anh là Anthony Giddens nêu ra trong cuốn sách cùng tên xuất bản năm 1998. Lý thuyết về “Con đ ường thứ ba” có tham vọng trở thành triết lý mới về mối quan hệ giữa cái kinh tế và cái xã hội trong chủ nghĩa tư bản theo hướ ng kết hợ p những mặt mạnh và triệt tiêu những mặt yếu của cả mô hình Keynes lẫn mô hình chủ nghĩa tự do mới Những lập luận đầy đủ nhất về tăng trưởng đối lập với công bằng được trình bày trong lý thuyết của Athur Lewis bàn về các nước đang phát triển. Dựa trên giả thuyết của Ricardo và C.Mác cho rằng, lao động có thể được sử dụng với số lượng không hạn chế ở mức tiền lương thực tế cố định chứ không phải là một nguồn lực khan hiếm, Lewis đã xây dựng mô hình phát triển kinh tế với nguồn lao động không có giới hạn hay mô hình lao động dư thừa. Trong mô hình này, ông cho rằng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập sẽ tăng trong thời kỳ đầu và chỉ sau khi đã đạt đến một sự p hát triển cao mới giảm 7
- đ i. Theo Lewis, bất bình đẳng không chỉ là kết quả tất yếu của tăng trưởng kinh tế mà đ ồng thời còn là nguyên nhân của tăng trưởng. Bởi lẽ phân phối có lợi cho những người có thu nhập cao sẽ tạo mức tiết kiệm cao. Ông lập luận “vấn đề trung tâm trong lý thuyết p hát triển kinh tế đ ó là hiểu được quá trình mà trong đó một cộng đ ồng xã hội trước đ ây tiết kiệm và đầu tư khoảng 4 – 5% thu nhập quốc dân chuyển thành một nền kinh tế trong đó tiết kiệm tình nguyện tăng lên 12 đến 15% thu nhập quốc dân hoặc lớ n hơn”. Nói cách khác, sự phát triển phụ thuộc vào 10% dân số đang thu được 40% hoặc lớ n kơ n thu nhập q uốc dân. Tuy nhiên, Lewis không coi bất bình đẳng trong thu nhập là vĩnh viễn, mà chỉ trong giai đoạn đ ầu của sự phát triển, khi lao động dư thừa chưa được chuyển hết sang khu vực hiện đại. Mô hình Lewis mở rộng của Fei-Ranis đã giải thích điểm này: khi toàn b ộ lao động dư thừa cuối cùng bị thu hút vào các công việc của các khu vực hiện đại, trở thành nguồn lực khan hiếm của sản xuất và nhu cầu lao đ ộng ngày càng tăng đ òi hỏi tăng lương thực tế ngoài mức sử dụng cận biên. Chính việc tăng lươ ng này sẽ dẫn tới giảm bất b ình đẳng và nghèo khổ. Mô hình Lewis cho rằng b ất bình đ ẳng góp phần vào phát triển kinh tế và các cố gắng nhằm phân phối lại “một cách hấp tấp và vội vã” sẽ có nguy cơ bóp chết tăng trưởng kinh tế. Sự tăng thêm nhất thời của b ất bình đ ẳng là cái giá phải trả cho thành công và nếu tất cả mọi người biết chờ đợi phát triển đi theo tiến trình của nó, họ sẽ được lợi đúng lúc, Mô hình Lewis đ ã được thừa nhận khá r ộng rãi ở các nước đang phát triển trong nhiều thập k ỷ. Tuy vậy, nó cũng bộc lộ những khuyết điểm và b ị phê phán từ nhiều p hía. Thứ nhất, nó dựa trên giả thuyết của mô hình tăng trưởng kinh tế cổ điển theo đó tăng trưởng là hàm số của hai yếu tố vốn và lao động. Ngày nay, người ta thấy r ằng mô hình này chỉ giải thích được 10% mức tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, ngay cả khi tiết kiệm có vai trò quan trọng như Lewis giả định thì cũng chưa có gì đảm bảo cho mức tiết kiệm đó đ ược đ ầu tư (có thể đầu tư ra nước ngoài hoặc tăng mức tiêu dùng). Thứ b a, khu vực hiện đại có khả năng thu hút hết lao động dư thừa hay không và thời gian đó kéo dài bao lâu, liệu nó có đi liền với tăng trưởng không. Mô hình Lewis thực ra cũng chứa đựng những yếu tố của mô hình dạng của Kuznets – một mô hình được xây dựng trên sự khảo nghiệm thực tế của một số nước do nhà kinh tế học Mỹ Kuznets tiến hành vào năm 1955. 2. Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng. Một xã hội công b ằng luôn luôn là ước muốn của con người ở mọi thời đại. Vì vậ y, thật dễ hiểu khi có không ít tư tưở ng và học thuyết nhấn mạnh đến công bằng xã hội hơn là tăng trưởng kinh tế. Một xã hội công bằng là cái cần đạt tớ i, vì vậy đạt tới nó càng nhanh càng chứng tỏ xã hội phát triển nhanh. Quan niệm này chi phối tất cả các học thuyết chú trọng công bằng mặc dù mức độ và hình thức thể hiện không giống nhau. Có hai mô hình lý thuyết và chiến lượ c phát triển nhấn mạnh đ ến công bằng hơn tăng trưở ng. Phân phối trước, tăng trưởng sau. Đ ây là quan điểm chủ đ ạo của đường lối phát triển kinh tế ở nhiều nước đ i theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Quan điểm này dựa trên lập luận là việc tập trung tài sản vào một nhóm ngườ i là trở ngại cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Bất bình không chỉ được coi là sự tha hoá cuả phát triển mà còn cản trở sự phát triển. Vì vậ y, việc phân p hối lại là đ iều kiện tiên quyết cho tăng trưở ng. Theo quan điểm này, các hình thức cách mạng như tước đoạt người giàu, lấ y của người giàu chia cho dân nghèo, tịch thu ruộng đ ất của đ ịa chủ, tiêu diệt các tầng lớp tư sản và kinh doanh giàu có đã đ ược thực hiện. Trong giai đoạn tiếp theo, vấn đề p hân phối là nội dung quan trọng nhất của quan hệ sản 8
- xuất, có tác dụng mở đường và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cơ chế p hân phối đ ã đ ược thiết lập sao cho đảm bảo thu nhập phụ thuộc vào đóng góp lao đ ộng. Tuy nhiên, nền tảng cơ bản của các quan hệ phân phối vẫn là chủ nghĩa bình quân, duy trì bình đẳng theo quan đ iểm bình quân. Nhà nước phục vụ các chính sách phúc lợ i rộng rãi, bất chấp trình độ p hát triển kinh tế đã đạt đ ược. Mô hình này, như lịch sử đã chứng minh, mặc dù là nguồn cổ vũ tinh thần to lớ n đối với các tầng lớ p nhân dân, đ ặc biệt trong thời kỳ đầu, đã không có cơ sở đứng vững. Công bằng trong điều kiện như vậy hoặc đã trở thành lực cản tăng trưởng kinh tế hoặc làm nả y sinh những bất công lớ n hơ n giữa một bên là những ngườ i lao động và một bên là bộ máy quyền lực. Những nỗ lực sửa đổi mô hình này trên nền tảng nhận thức không đúng như trên đã không thành công và các nước đi theo nó đã phải chuyển sang kinh tế thị trường, ở đó, tăng trưởng và b ất bình đẳng được xem xét từ những quan đ iểm tiếp cận khác. Lấ y con người làm trung tâm . Phát triển lấ y con ngườ i là trung tâm không phải là khái niệm mớ i mẻ. Bản thân mô hình phân phối trước tăng trưởng cũng xuất phát từ ý tưởng lấ y con người làm trung tâm. Tuy nhiên, nội dung thực sự của chiến lược phát triển lấy con ngườ i làm trung tâm như một hệ quan đ iểm phát triển phân biệt với các mô hình khác đ ã được David C.Korten trình bày khá rõ trong cuốn “Bước vào thế kỷ XXI: hành đ ộng tự nguyện và chươ ng trình nghị sự toàn cầu”. Theo David C.Korten, hầu hết các chiến lược phát triển được thực hiện cho đến nay đ ều lấy tăng trưởng làm trọng tâm và ô ng đ ã có những phê phán gay gắt các mô hình đó. Ông định nghĩa phát triển lấy con người làm trung tâm là “một tiến trình qua đó các thành viên của xã hội tăng đ ược những khả năng của cá nhân và định chế của mình để huy động và quản lý các nguồn lực nhằm tạo ra những thành quả bền vững và được phân phối công bằng nhằm cải thiện chất lượng cuộ c sống phù hợp với nguyện vọng cuả họ”. Những định hướ ng giá trị của chiến lược này là: - Ưu tiên số một trong việc sử dụng các tài nguyên của trái đ ất là cung cấp cho mọi người cơ hội tạo dựng một cuộc sống vững chắc đ ối vớ i bản thân họ và gia đình họ. - Các thế hệ hiện nay không có quyền tự cho phép mình tiêu thụ một cách không cần thiết ảnh hưở ng tới khả năng của các thế hệ tương lai. - Quyền kiểm soát các tư liệu sản xuất phải được chia sẻ rộng rãi trong xã hội. - Chủ quyền nằm trong dân chúng. - Các nền kinh tế địa phương phải được đa dạng hoá và tự lực thích đáng trong việc sản xuất phục nhu cầu cơ bản. David C.Korten đã nêu ra 15 ưu tiên chính sách và khẳng định quan điểm lấy con người làm trung tâm ủng hộ tính chất b ền vững của cuộc sống con ngườ i và môi trường hơn là tăng sản lượng kinh tế. Đó là cơ sở của chiến lược tăng trưởng theo hướ ng công b ằng là chiến lược “bắt đầu với công bằng, bằng cách phá vỡ các cơ cấu nhị nguyên và nhờ đó lấy công bằng làm nền tảng cho sự tăng trưởng tổng thể hay tăng trưởng đơn thức”. Chiến lược sáu giai đoạn của ông mang nặng dấu ấn của quan điểm chủ đạo trên, trong đó công nghiệp hoá đô thị và khuyến khích xuất khẩu là những giai đoạn cuối cùng sau khi thực hiện các cải cách về tư liệu sản xuất, hệ thống chính trị và phát triển nông thôn. Mặc dù tỏ ra ủng hộ các mô hình thực tế của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong khi lý giải quan điểm của mình, David C.Korten đã nhấn mạnh đến khía cạnh công bằng. 9
- Chiến lược mà ông nêu ra rất hấp dẫn với công chúng nhưng mang nhiều sắc thái kêu gọi mang tính tư tưở ng hơ n là tính thực tiễn. 3. Tăng trưởng đi liền với công bằng. Trong những thập niên qua, người ta cũng nhận thấ y những hạn chế của việc chú ý quá mức đến tăng trưởng, hoặc ngược lại, quá chú tr ọng đến công b ằng. Vậy, làm thế nào để vừa có tăng trưởng mà vẫn giải quyết được công b ằng xã hội. Có hai hướ ng đi chính: Một là, giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người. Quan điểm này được thịnh hành đặc biệt trong những năm 70 và được các tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm. Chiến lược này chú tr ọng đ ến việc cung ứng các dịch vụ, coi đó là phương thức tái phân phối lợi nhuận do tăng trưở ng kinh tế mang lại và tạo điều kiện để dân chúng có thể tham gia b ình đẳng vào hệ thống kinh tế. Lập luận của những ngườ i ủng hộ chiến lược này là thị trường không thể phân bổ thích đáng lợ i nhuận do tăng trưởng kinh tế mang lại, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Do vốn xã hội hạn chế của đa số nhân dân, đặc biệt là trình đ ộ giáo dục và y tế đ ã làm giảm tiềm năng sản xuất của họ và do đó giảm khả năng tham gia vào thị trường vớ i tư cách là người lao động và người tiêu thụ. Để giúp họ bù đắp những khiếm khuyết này, các chính p hủ cần chuyển của cải từ những người đ ã được hưở ng lợ i nhờ tăng trưởng sang tài trợ cho các dịch vụ b ù đắp cho người nghèo. Những khoản tài trợ này vừa có tác dụng bù đ ắp những nhu cầu cần được thoả mãn của chính họ về ăn, mặc, ở, sinh hoạt vừa chuẩn b ị cho họ có đ ược một chỗ đ ứng trong lực lượ ng lao động như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ... Để thực hiện một chiến lược như vậy, một mặt phải có được một nguồn tài chính lớn dành cho các khoản trợ cấp này, và mặc khác, xây dựng một mạng lưới nhằm phân bổ và thực hiện các dịch vụ cho người nghèo. Một loạt chính sách hỗ trợ cho mục tiêu này như thực hiên thuế, lãi suất, giá cả ưu đãi. Mặc dù ý tưởng cuả chiến lược này khá hấp dẫn và hợp lý nhằm đảm bảo giải quyết công b ằng trong đ iều kiện thúc đẩy tăng trưởng, song nó cũng bị phê phán về một số khía cạnh. Thứ nhất, đ ể có thể thực hiện trợ cấp như vậy, chính phủ cần phải có một nguồn tài chính lớn mà trong nhiều trường hợ p, đặc biệt ở giai đoạn đ ầu, lợi ích thu được từ tăng trưởng còn quá nhỏ. Thứ hai, liệu những trợ cấp như vậ y có đủ đảm bảo cho người dân tham gia rộng rãi vào hệ thống kinh tế hay không, hay họ chỉ có khả tiếp cận đến giới hạn của nghèo khổ. Nói cách khác, quan điểm hướng vào nhu cầu cơ b ản của con ngườ i về cơ b ản là chương trình hành động xã hội nhiều hơ n là một chiến lược tổng thể đảm bảo một cơ chế tương hỗ thực sự giữa tăng trưởng và công bằng. Hai là, tái phân phối cùng với tăng trưởng (Redistribution With Growth), hay được diễn đạt hơi khác đi như tă ng trưởng với phân phố i thu nhập được cải thiện, hoặc tăng trưởng cùng chia sẻ. Quan đ iểm này xét về mục đ ích giống như quan điểm trên nhưng khác về cách thức tiếp cận đ ể đạt được mục tiêu. Đây là ý tưởng của Ngân hàng thế giớ i đ ược thể hiện trong công trình nghiên cứu cùng tên do ngân hàng này đỡ đ ầu thực hiện. Phân phối lại cùng vớ i tăng trưở ng là con đ ường theo đó lợi ích thu được từ tăng trưởng kinh tế cần được phân phối lại sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập dần dần đ ược cải thiện hoặc không bị xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục. Khác với quan điểm của những người theo mô hình hướng vào những nhu cầu cơ bản của con người nhấn mạnh vào việc đ ảm bảo các dịch vụ công cộng, quan đ iểm tái phân phối cùng với tăng trưở ng nhấn mạnh việc tăng khả năng sản xuất và sức mua của dân chúng. Các chính sách của chính phủ cần đảm bảo một sự phát triển sao cho người dân tìm thấ y những cơ hội kiếm tiền tốt hơ n đồng thời nhận được những nguồn lợ i cần thiết để tạo ra 10
- lợi nhuận. Theo một nhóm nghiêm cứu của Ngân hàng thế giới, có b ảy công cụ chính sách có thể đ ược sử dụng là: - Các biện pháp tạo ra sự biến đổi cả lao đ ộng và tư bản, khuyến khích sử dụng lao động lành nghề. - “Phân phối lại một cách năng động” tài sản bằng cách định hướng đ ầu tư vào các lĩnh vực mà những người nghèo có thể là sở hữu tài sản như đ ất đai hoặc cửa hiệu nhỏ. - Mở rộng giáo dục để cải thiện mức độ biết đọc, biết viết, kĩ năng lành nghề, cách tiếp cận với nền kinh tế hiện đ ại. - Chế độ thuế tiến bộ. - Cung cấp rộng rãi các mặt hàng tiêu dùng như lương thực, thực phẩm thiết yếu cho người nghèo. - Can thiệp vào thị trườ ng hàng hoá để giúp đ ỡ người sản xuất và tiêu thụ nghèo. - Phát triển công nghiệp nhằm giúp cho những người có thu nhập thấp có được năng lực sản xuất cao hơ n. Những biện pháp chính sách này là định hướng chung và được chú trọng cụ thể cho mỗi loại nước. Chẳng hạn, những nước sản xuất công nghiệp là chủ yếu thì phát triển nông thôn được chú trọng hơn. Quan điểm tăng trưởng đ i liền với công b ằng dựa trên một giả thuyết rất quan tr ọng là công bằng không đ ối lập vớ i tăng trưởng, ngược lại là một yếu tố góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Ngay từ năm 1968, Murdal là người đ ầu tiên đ ã khẳng đ ịnh rằng bất bình đ ẳng có thể làm hại cho tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở mức thấp sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Tiếp đó, Ahluwalia (1974) đã khẳng định trong công trình nghiên cứu thực tế của mình rằng “không có mô hình tiêu biểu cho mối quan hệ giữa những thay đ ổi trong phân phối thu nhập và tốc độ tăng trưở ng GDP... Điều này chỉ ra rằng, có rất ít cơ sở thực tế vững chắc để chứng minh cho quan điểm tốc độ tăng trưởng cao chắc chắn sẽ nảy sinh bất bình đẳng lớ n hơ n”. Hart Mut Elseahans (1989) cũng lập luận khá đ ầy đủ về tác động của công bằng đối với tăng trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu khác như Alesina và Perrotti (1994), Alesina và Rodrik (1994), Nancey Birdsall, David Ross vàRichard Sobot (1995) cũng như các chuyên gia ở Ngân hàng thế giới đã tiến hành các công trình nghiên cứu và đưa ra b ằng chứng để chứng minh tại sao b ất bình đẳng cao có thể hạn chế tăng trưở ng. Chương II Việt Nam vớ i bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam Đề cập đến việc xử lý mối quan hệ giữa hai yếu tố cơ bản đó trong quá trình phát triển, Đại hội VI của Đảng mới chỉ bước đầu xác định: “ Trình độ phát triển kinh tế là đ iều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đ ích của hoạt đ ộng kinh tế. Phải đến Đại hội VII của Đ ảng (6-1991), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VI mớ i chính thức nêu lên các quan đ iểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo việc kết hợp hài hoà giữa cái kinh tế và cái xã hội trong quá trình đổi mớ i như sau: - Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. 11
- - Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đ ời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. - Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là đ ộng lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Đại hội VIII của Đ ảng (tháng 6 -1996) đề ra quyết tâm tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, p hù hợp vớ i trình đ ộ p hát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh xã hội công b ằng, văn minh. Đại hội VIII của Đảng (6-1996) lại bổ sung một quan điểm quan tr ọng nữa là: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở tạo đ iều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”. Rõ ràng chủ nghĩa tư bản hiện đại còn tự tiếp tục tự đ iều chỉnh để p hát triển và cũng có khả năng phát triển mạnh về kinh tế trong những thập kỷ mới. Song dù tự đ iều chỉnh như thế nào, thì nó vẫn không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, mà mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hoá cao độ, vượt ra khỏi biên giới quốc gia, với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về những tư liệu sản xuất chủ yếu từ trong mỗi nước tư bản và toả ra nhiều nước khác trên thế giới, qua đó làm nả y sinh nhiều vấn đề kinh tế và xã hội nan giải. Khi trả lời báo Yomiuri (Nhật Bản) về câu hỏi “Liệu CNTB và nền văn minh thị trường có thoả mãn đời sống dân chúng không?”, nhà đ ại tài phiệt M ỹ George Soros đã nói: “Có nhiều người cảm thấ y không thoải mái với chủ nghĩa tư bản vì đ ó là một hệ thống vô nhân đạo hiểu theo nhiều cách. Có những người lo ngại về sự thiếu công b ằng xã hội và tôi nằm trong số những ngườ i đ ó. Những người khác người khác lo ngại về sự xâm lược chủ quyền quốc gia”. Đại hội VIII cũng xác đ ịnh rõ, trong giai đoạn đến năm 2000 và những năm tiếp sau, nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượ t qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và b ền vững đ i đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đ ảm an ninh, quốc phòng, vượ t q ua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân. Quan điểm của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế p hải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, trong suốt quá trình phát triển. Công b ằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối kết quả sản xuất cũng như ở việc tạo đ iều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đ ồng. Phát triển theo định hướ ng xã hội chủ nghĩa đ òi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn đến tiến bộ xã hội và công b ằng xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế, nhất là trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, vấn đề là quan niệm thế nào cho đúng về công b ằng xã hội trong nền kinh tế thị tr ường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 12
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến b ộ và công bằng xã hội luôn luôn là mục tiêu cơ b ản mà Đảng ta, nhân dân ta không ngừng phấn đấu để đ ạt tới. Chúng ta không thể ngồi chờ kinh tế phát triển cao, dân giàu lên, mớ i thực hiện sự tiến bộ và công bằng xã hội. Chúng ta cũng không thể hi sinh sự tiến b ộ, công b ằng xã hội để phát triển kinh tế một cách thuần tuý. Mỗi chính sách về kinh tế của chúng ta đều nhằm mục tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách xã hội đ ều chứa đựng nội dung và ý nghĩa thúc đẩy kinh tế phát triển. Công bằng xã hội trong phát triển theo định hướ ng xã hội chủ nghĩa không chỉ là việc đ iều hoà lợi ích, đ iều tiết phân phối lại thu nhập của các giai tầng trong xã hội cho hợp lý mà quan tr ọng hơn là phải đ ảm bảo cho mọi tầng lớp xã hội được hưởng các quyền lợ i xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, đào tạo nghề nghiệp, được giúp đỡ lúc khó khăn, hoạn nạn. Công bằng xã hội đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và tự khẳng đ ịnh mình. Công bằng không phải là sự cào b ằng, thực hiện chủ nghĩa bình quân. Vấn đề mấu chốt đ ể thực hiện công b ằng xã hội là phải gắn nó với sự tăng trưởng kinh tế. Công b ằng xã hội của nước ta gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là một trong những biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự thống nhất và p hát triển biện chứng giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con ngườ i. Chủ nghĩa xã hội sẽ tiến tới xoá b ỏ mọi áp bức, bóc lột, b ất công và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình và toàn xã hội. Đó là công bằng xã hội lớn nhất, triệt để nhất mà chúng ta phấn đấu. Mục tiêu lâu dài đó được cụ thể hoá trong giai đoạn trước mắt ở nước ta bằng khẩu hiệu toàn dân đoàn kết phấn đấu vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công b ằng, văn minh”. Bằng khẩu hiệu đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trươ ng khuyến khích mọi người tham gia làm giàu chính đáng. Phấn đấu đ ể nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì trở nên khá giả, người khá giả thì trở nên giàu có. Chúng ta thừa nhận có một bộ phận dân cư, một số vùng giàu lên trước là cần thiết để thúc đẩy hỗ trợ cho sự phát triển và tiến bộ chung. Đ ồng thờ i, phải có những chính sách kinh tế, xã hội đặc biệt để trợ giúp ngườ i nghèo, vùng nghèo khá dần lên. Có hai loại quan niệm cho rằng, thứ nhất, phát triển kinh tế nhanh nhưng phải chấp nhập phân hoá giàu nghèo trong xã hội lớn hơ n, tiêu cực nhiều hơ n; thứ hai, xã hội bình đ ẳng hơn, phân hoá thấp hơ n nhưng tốc độ phát triển chậm. Những quan niệm nêu trên đều sai lầm vì nó dựa trên một định đề không đúng: phát triển nhanh nhất thiết đòi hỏi phân hoá xã hội cao. Những phân tích ở các chươ ng trên đã cho thấ y, tăng trưởng nhanh không nhất thiết p hải ra tăng bất bình đẳng. Nhưng cũng phải thấ y rằng, sự phân hoá xã hội, phân hoá giàu nghèo là một thực tế lịch sử ở nhiều quốc gia. Do vậ y, khi chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường, chúng ta chấp nhận sự chênh lệch giàu nghèo. Song chúng ta không đồng nhất sự phân hoá giàu nghèo vớ i sự b ất bình đẳng và công bằng nói chung. Sự phân hoá giàu nghèo có tính hai mặt: mặt hợp lý (tức công b ằng) và mặt b ất hợ p lý (tức bất công). Nếu giàu nghèo là do tài năng và p hẩm chất trong lao động, do những điều kiện khách quan chưa có thể khắc phục được thì xã hội phải chấp nhận đ ó là lẽ công bằng. Ngược lại nếu làm giàu do lừa đảo, lợ i dụng q uyền chức, tham nhũng, làm ăn phi pháp, buôn lậu, v.v. thì đó là sự bất công cần phải đ ấu tranh để từng bước xoá bỏ. Càng ngày người ta nhận thức đ ược một cách rõ ràng là tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần thiết khách quan để xoá b ỏ những bất bình đẳng và bất công đã tồn tại hàng nghìn năm lịch sử. Thế nhưng, tăng trưởng kinh tế lại làm nả y sinh những bất bình đẳng 13
- mới. Những bất bình đẳng tồn tại gắn liền với sự khác nhau về trí tuệ, năng lực và phẩm chất của cá nhân lao động, quản lý và hệ quả tất yếu là thu nhập không ngang nhau cho các thành viên khác nhau của xã hội không ngừng tăng lên, những nhu cầu này được thoả mãn thì những nhu cầu mớ i lại nả y sinh, và xã hội không thể thoả mãn như nhau cho mọi thành viên trong xã hội. Như vậy tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường luôn làm nảy sinh và tạo điều kiện để giải quyết mâu thuẫn trong vấn đề công bằng xã hội. II.Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta Thời k ỳ 1976-1985, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ở nước ta chỉ đạt 2 % trong khi tốc đ ộ tăng dân số bình quân hàng năm là 2,4%; nền kinh tế tăng trưởng thấp, làm không đủ ăn và dựa và nguồn bên ngoài ngày càng lớ n. Trong thời kỳ này, chế độ phân phối vẫn mang nặng tính chất bình quân do đó làm triệt tiêu đ ộng lực của người lao động, công bằng xã hội b ị vi phạm nghiêm trọng, kinh tế xã hội rơi và khủng hoảng nặng nề kéo dài. Tại Đ ại hội VI (năm 1986), Đảng ta đ ã khở i xướng công cuộc đổi mới. Những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế là thực hành dân chủ hoá đời sống kinh tế, chuyển cơ chế q uản lý kế hoạch tập trung cao đ ộ sang cơ chế thi trườ ng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển việc phát triển kinh tế quốc doanh và tập thể ồ ạt sang phát triển kinh tế nhiều thành phần, chuyển việc cấp phát hiện vật và bao cấp sang sử dụng quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá, mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển quan hệ kinh tế đối ngoại từ đơn phương sang đa phươ ng theo hướ ng nền kinh tế mở, đa dạng hoá hình thức và đ a phương hoá quan hệ. Thời kỳ 1 986-1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được nâng lên đáng kể. Từ năm 1992 đến năm 1995, tăng trưởng kinh tế hàng năm đều vượ t trên 8%. Nền kinh tế nước ta đ ang trên đà cất cánh. Trong 5 năm 1986-1990, thu nhập quốc dân tăng 4,2%, thu nhập bình quân đầu người tăng vớ i nhịp độ 1 ,65% trong đ iều kiện dân số vẫn tăng cao với nhịp độ 2,2%. Cơ chế mới đi vào thực tiễn từ năm 1989, chế độ tem phiếu được xoá bỏ, lạm phát phi mã đã đ ược kìm lại, đ ời sống ngườ i dân được cải thiện một b ước. Trong thời k ỳ 1991-1995, tổng sản phẩm trong nướ c (GDP) tăng trung bình hàng năm 8,2%, nhịp độ tăng thu nhập đầu người đạt 6,0%. Cơ cấu kinh tế đ ã có bước chuyển đ ổi: tỷ tr ọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 lên 29,1% năm 1995, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%, tỷ tr ọng nông nghiệp (gồm cả lâm, ngư nghiêp) từ 38,7% giảm xuống còn 29%. Nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ nội b ộ. Vốn đầu tư cơ b ản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, năm 1995 tăng kên 27,4%, trong đó nguồn đ ầu tư trong nước chiếm 16,7% GDP. Đời sống vật chất của số đông nhân dân được cải thiện, tuy mức đ ộ cải thiện không đ ều giữa các tầng lớp, giữa các vùng. Mỗi năm thêm 1 triệu lao động có việc làm. Trong 5 năm, khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường đã tăng gấp đôi (bình quân mỗi năm tăng 7,4%). Số lượ ng đáng kể nhà ở và đường giao thông đ ược cải tạo và xây dựng mới cả ở thành thị và nông thôn đã nâng cao hơn đ iều kiện ăn ở, đi lại và hưở ng thụ văn hoá của nhân dân. Cá c chỉ tiêu dân số, tăng trưởng kinh tế (1976-1996) D ân số Tốc độ tăng trưởng (%) 14
- Năm Toàn bộ Xuất Nhập (1000 Nông Công người) nền kinh tế nghiệp nghiệp khẩu khẩu 1976 49.160 … 14,3 … … … 1977 50.413 2,8 -5,2 10,8 44,8 18,9 1978 51.421 2,3 -1,8 8,2 1,4 6,9 1979 52.462 -2,0 8 ,7 -4,7 -0,2 17,1 1980 53.722 -1,4 7 ,5 -10,3 5,5 13,9 1981 54.921 2,3 4 ,4 1,0 18,5 5,2 1982 56.170 8,8 11,3 8,7 31,2 6,5 1983 57.373 7,2 3 ,3 13,0 17,1 3,7 1984 58.653 8,3 5 ,3 13,2 5,4 14,3 1985 59.872 5,7 2 ,5 9,9 7,5 6,4 1986 61.109 6,5 4 ,8 6,2 12,9 16,0 1987 62.452 3,4 0 ,4 10,0 3,8 13,9 1988 63.727 4,6 4 ,3 14,3 21,6 12,3 1989 64.774 2,7 7 ,4 -3,3 87,4 -6,9 1990 66.233 5,1 1 ,4 3,1 23,5 7,3 1991 67.774 6,0 2 ,9 10,4 -13,2 -17,1 1992 69.405 8,6 8 ,1 17,1 23,6 8,7 1993 71.026 8,1 6 ,2 12,7 15,7 33,8 1994 72.510 8,8 3 ,9 13,5 20,6 27,4 1995 74.000 9,5 4 ,7 14,0 35,0 33,0 1996 75.520 9,4 4 ,8 14,2 37,5 46,6 1996/1975(%) 153,7 280,5 248,9 398,5 278,5 768,7 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Tạp chí Con số và dữ kiện, 2-1995; 10-1996;1-1997 Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng kinh tế nước ta trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng mở rộng giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư. Đời sống của một bộ p hận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây, vùng đ ồng bào dân tộc, còn quá khó khăn. Chất lượ ng phục vụ y tế, giáo dục, đào tạo ở nhiều nơi rất thấp. Người nghèo không đủ tiền đ ể chữa bệnh và cho con em đi học. Tệ nạn xã hội gia tăng. Tệ quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, sử dụng lãng phí ngân sách và tài sản công phổ biến và nghiêm tr ọng. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảng và đoàn thể, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợ p tác đầu tư, thuế xuất nhập khẩu và cả trong hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật nghiêm tr ọng kéo dài. Tình trạng đó kéo căng thêm sự bất bình đẳng xã hội. Tại buổi gặp mặt trao đổi về vấn đề vận động công nhân trong tình hình mới do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tổ chức ngày 11-10-2000 ở Hà Nội, Chủ tịch Cù Thị Hậu thẳng thắn thừa nhận: “N ền kinh tế thị trường tạo ra sự gay gắt trong nhiều lĩnh vực, phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn, tình trạng thất nghiệp không thể tránh khỏi; lối sống cá nhân, thực dụng, vụ lợi, ích k ỷ làm xói mòn truyền thống nhân ái của dân tộc, làm suy giảm tình hữu ái và đoàn kết giai cấp”. 15
- ở một phương diện nhất định, phân hoá giàu nghèo thể hiện rõ nhất s ự bất bình đẳng xã hội. Nghèo đói không phải là vấn đ ề xã hội ở các nước lạc hậu mà có tính toàn cầu. Ngay tại các nước công nghiệp phát triển cũng tồn tại một bộ phận dân cư nghèo đói. Hội nghị về chống đ ói nghèo ở khu vực châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tháng 9 -1993 tại Bangkok đã đ ưa ra khái niệm nghèo như sau: “Nghèo là tình trạng một b ộ phận dân cư không đ ược hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con ngườ i, mà những nhu cầu này đã đượ c xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ p hát triển kinh tế- xã hội và p hong tục tập quán đ ịa phương”. Để diễn đạt mức độ rất nghèo khổ của một bộ phận dân cư có thể mức đ ộ nghèo và đ ói theo đó, đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dướ i mức tối thiểu, cơm không đủ ăn, áo không đ ủ mặc, thu nhập không đảm b ảo duy trì cuộc sống. Nhìn chung, không có mâu thuẫn giữa các tổ chức quốc tế và các cơ quan, các ngành của Việt Nam về cách tiếp cận khái niệm nghèo đói. Song do sự khác nhau trong việc xác đ ịnh số nhu cầu cơ bản cần đ ược ưu tiên trong đ ánh giá nghèo đói, mức độ thỏa mãn và khả năng thích ứng của hệ thống chính sách nhà nước về xoá đói giảm nghèo nên dẫn đến sự khác nhau trong việc đưa ra những ranh giới nghèo đói, số lượ ng và tỷ lệ đói nghèo. Năm 1995, theo Ngân hàng thế giới, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam là 5 1%, còn theo Tổng cục thống kê Việt Nam thì t ỷ lệ đó khoảng 20%. ở đ ây, chuẩn mực đ ói nghèo đ ược xác đ ịnh trên ba yếu tố cơ bản là: - Nhu cầu cơ b ản tối thiểu của con người. - Thu nhập bình quân đầu người của các tầng lớp dân cư phân chia theo hộ. - Điều kiện và khả năng kinh tế, chính sách của nhà nước trong từng thời kỳ. Mức sống dân cư ở nông thôn luôn thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị. Nông dân bị hạn chế hơn rất nhiều so với dân thành thị về nhiều phương diện, trước hết là vấn đ ề việc làm và thu nhập, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và giáo dục, đào tạo. Vì vậ y, 90% hộ đói nghèo nước ta tập trung ở nông thôn. Tính đến cuối năm 1996, nước ta còn khoảng 2 ,8 triệu hộ gia đình với gần 15 triệu nhân khẩu (chiếm gần 20% tổng số hộ gia đình cả nước) thuộc diện nghèo đói. Vùng Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có t ỷ hộ đ ói nghèo cao nhất, xấp xỉ 30%; vùng Đông Nam Bộ có t ỷ lệ đ ói nghèo thấp nhất:6,47%. Như vậy chênh lệch giữa t ỷ lệ đói nghèo cao nhất và thấp nhất là gần 5 lần. Miền Tây Nam Bộ, còn gọi là vùng đồng bằng sông Cửu Long, có hơn 1,9 triệu ha đ ất lúa, cung cấp cho đất nước hơn 13 triệu tấn thóc (năm 1996), trong đó có hơn một nửa hàng hóa là thóc. Lúa gạo miền Tây Nam Bộ nhiều và tăng nhanh nhưng nông thôn vùng này vẫn rất nghèo, cả về vật chất lẫn văn hoá tinh thần. Nhiều hộ nông dân không có ruộng hoặc ít ruộng, phải đi làm thuê gần như quanh năm. ở giữa miền Tây đầy lúa gạo mà có hơn nửa triệu hộ nghèo thu nhập bình quân từ 25kg – 35kg/tháng. Cái nghèo ở nông thôn đ ồng bằng sông Cửu Long còn thể hiện rõ về nhà ở và môi trường sống. Đến nay, toàn vùng còn 56,7% số hộ ở nhà tạm, trong đó 3,7% ở nhà lều chòi và chỉ có 23,5% số hộ dùng điện, 25,8% số hộ có nước sạch, 12,9% số hộ có hố xí hợp vệ sinh. Đời sống vật chất đã vậy, đời sống tinh thần còn nghèo hơn. Khoảng 40% dân nghèo miền Tây mù chữ. ở vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất trườ ng học còn yếu kém, một phần do lũ lụt triền miên, nhưng chủ yếu do đầu tư ít, chỉ 1,65% số trường cấp một, 9,9% trường cấp hai đ ược xây dựng kiên cố. Theo ước tính, số người có trình độ đ ại học và cao đẳng nông nghiệp toàn vùng chỉ chiếm 0,4% số dân. 16
- Hộ nghèo năm 1996 theo các vùng kinh tế Tỷ lệ Số h ộ (%) 1. Trung du và miền núi phía Bắc 695.503 27,24 2. Đồng bằng sông Hồng 330.519 11,01 3. Bắc Trung Bộ 609.372 30,80 4. Duyên hải miền Trung 413.660 23,14 5. Tây Nguyên 188.878 29,45 6. Đông Nam Bộ 116.728 6 ,47 7. Đồng bằng sông Cửu Long 502.912 16,25 Cả nước 2.857.122 19,23 III. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở V iệt Nam 1. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền vớ i tiến b ộ và công b ằng xã hội ngay trong từng b ước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân p hối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở việc tạo đ iều kiện phát triển năng lực của mọi thành phần trong cộng đ ồng. Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao đ ộng và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phôi dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác, như vốn, tài sản, tri thức công nghệ, sáng kiến kỹ thuật vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đ i đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợ i ngườ i lao động. Nhà nước điều tiết qua các sắc thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân để giảm b ớt chênh lệch thu nhập giữa cá tầng lớp dân cư và huy động đóng góp của những ngườ i có thu nhập cao vào sự phát triển xã hội. Các chính sách kinh tế vĩ mô phải phối hợp đồng bộ thúc đ ẩy tăng trưởng và đảm bảo q uyền lợ i của người lao động. Chẳng hạn, chính sách của nhà nước tìm mọi biện pháp mua hết số lượ ng thóc hàng hoá của nông dân với giá cả hợp lý, không để lúa rớt giá quá thấp là chính sách đúng đắn, vừa đảm bảo yêu cầu thúc đ ẩy sản xuất lương thực và yêu cầu đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Tuy nhiên, biện pháp thực có khi không đáp ứng được các yêu cầu trên. Chẳng hạn, bù giá mua lương thực lại lợi bất cập hại, chỉ đưa lại lợi ích cho tầng lớp trung gian, tiểu thương thu gom lươ ng thực và một số doanh nghiệp kinh doanh lươ ng thực. ở nhiều nơ i, đặc biệt là vùng đ ồng bằng sông Cửu Long, nhiều nông dân không có đ ất – tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân, để sản xuất. Điện, một hàng hoá thiết yếu cho cả sản xuất và đời sống dân cư, đượ c bán với giá khác nhau ở nông thôn và thành thị, trong đó dân cư nông thôn thường phải trả gấp hai, ba lần hoặc hơn so với dân thành phố. Những thực tế này đặt ra vấn đề, chính sách của Nhà nước cần quán triệt sâu sắc hơ n nữa nguyên tắc đ ảm bảo công bằng xã hội đ ến mức tối đ a trong giới hạn có thể. 2. Tăng cường hơn nữa công tác kế hoạch hoá gia đình. Một nguyên nhân quan tr ọng dẫn đến nghèo đói và nhiều người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, không được chăm sóc y tế và học hành làm dân số tăng nhanh, quy mô gia đình lớn. Đặc biệt, những gia đình quá nhiều con phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Vì vậy, làm cho các gia đình trở nên 17
- ít con là một điều kiện một yếu tố cực kỳ quan trọng để có tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Đến năm 1997, dân số nướ c ta là 77,5 triệu ngườ i. Với tốc độ gia tăng dân số tự nhiên 2 % như hiện nay, nước ta vẫn là nước có tỷ lệ tăng dân số cao nhất trong khu vực. Nhận thức rõ ràng tầm quan tr ọng của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chỉ thị, nghị quyết, tập trung nhiều nguồn lực nhằm hạ t ỷ lệ p hát triển dân số. Nhờ đó, phong trào thực hiện kế hoạch hoá gia đình trong nhân dân cả nước đang có những chuyển biến mạnh mẽ, ngày càng có thêm nhiều thôn, xã, kể cả ở miền núi, liên tục trong nhiều năm không có người sinh con thứ ba trở lên. Số con trung b ình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đ ẻ đã giảm từ 3,8 con năm 1989 xuống 3,1 con năm 1994. Tuy vậy, kết quả và hiệu quả của công tác dân số – kế hoạch hoá gia đ ình còn thấp. Theo dự tính, nếu nước ta đ ạt được mục tiêu mức sinh thay thế ( mỗi phụ nữ trung b ình có hai con) vào năm 2015 thì đ ến giữa thế kỷ XXI dân số nước ta sẽ ổn định ở mức 145 triệu người. Do vậ y, phải áp dụng các biện pháp quyết liệt hơn nữa đ ể vào khoảng năm 2005 đạt được mức sinh thay thế và ổn đ ịnh dân số nước ta ở mức 120 triệu người. 3. Xoá đói, giảm nghèo Xoá đói, giảm nghèo là chính sách và lĩnh vực hoạt động thực tiễn cụ thể và thiết thực nhất đ ể giảm bớt bất công xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Các cuộc điều tra của Tổng cục Thống kê phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư có sự tài trợ của UNDP đã đưa ra 5 nguyên nhân cụ thể của các hộ đói nghèo là: - Sự cách biệt, cả về đ ịa lý, xã hội và tri thức. - Rủi ro, mất mùa, b ệnh tật, chết chóc, sinh con ngoài ý muốn. - Thiếu các nguồn lực sản xuất: đất đai, vốn hoặc lao động khoẻ mạnh. - Thiếu khả năng duy trì bền vững do không có khả năng quản lý môi trường. - Thiếu cơ hội tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của xã hội. Với quan điểm coi con người là trung tâm và là động lực của sự phát triển, từ khi tiến hành đổi mớ i, Đảng và Nhà nước ta đ ã đề ra quyết tâm và nỗ lực xoá đói, giảm nghèo, tiến tới xoá b ỏ hoàn toàn nghèo đ ói. Trong các chính sách kinh tế vĩ mô có liên quan trực tiếp đến người nghèo, phải kể đến các chính sách như Chỉ thị 100, Nghị quyết 10, Luật đ ất đai năm 1993, chính sách hỗ trợ tín dụng cho nông dân, lập ngân hàng cho người nghèo… Các nỗ lực này đã tạo điều kiện đa dạng hoá sản xuất, đổi mớ i hình thức hợp tác xã nông nghiệp, tự do hoá thương mại, giá cả, thị trường lao động, vốn… Trong báo cáo q uốc gia về phát triển xã hội trình bày tại Hội nghị thượng đ ỉnh về phát triển xã hội ở Copenhagen tháng 3-1995, Việt Nam đã nêu ra chiến lược phát triển lành mạnh, cân đối và bền vững, trong đó nêu lên mục tiêu đ ến năm 2010 xoá b ỏ toàn b ộ tình trạng đói nghèo. Từ năm 1995, chúng ta đã bắt đầu thực hiện “Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo”. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), một trong những chủ trương, giải pháp mà Đảng ta đề ra đ ể hoàn thành những mục tiêu kinh tế – xã hội đến năm 2000 là tích cực giải quyết việc làm và xoá đ ói, giảm nghèo. Trong những năm qua, hệ thống các dịch vụ ở nông thôn nước ta đã có những bước cải thiện đáng kể như hệ thống dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, giáo dục tiểu học, giao thông, chợ, cung cấp nước sạch, tín dụng, khuyến nông… trong đó quan trọng nhất là hệ thống dịch vụ tín dụng hỗ trọ ngườ i nghèo tiếp cận và vay vốn sản xuất. Đến hết năm 1996, đã có trên 2 triệu lượt hộ nghèo đ ói được vay vốn sản xuất, trong đó 1,2 triệu lượt hộ vay từ nguồn ngân hàng phục vụ người nghèo với lãi suất thấp (1%/tháng) không phải thế chấp vớ i tổng số tiền 1.900 tỷ đ ồng, khoảng 600 ngàn lượt hộ nghèo vay từ nguồn 18
- ngân sách ở các cấp chính quyền địa phương nhập quỹ xoá đói giảm nghèo với tổng số tiền hơn 3 tỷ đồng, trên 600 nghìn lượt hộ nghèo vay vốn từ q uỹ của các tổ chức đoàn thể và một số lượng đáng kể được vay vốn xoá đói, giảm nghèo từ các dự án hợp tác quốc tế. Muốn giải quyết vấn đề đói nghèo một cách có hiệu quả, cần tập trung vào các hướng chủ yếu sau: - Xoá đói giảm nghèo gắn với tăng trưở ng kinh tế. Thực tiễn hơn 10 năm đ ổi mớ i cho thấ y, tăng trưởng kinh tế là cái nền cơ bản nâng cao thu nhập cho các tầng lớp dân cư, góp phần quan trọng giảm tỷ lệ hộ đói nghèo. Vì vậ y, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn đ ịnh là yếu tố quan tr ọng hàng đ ầu. N ền kinh tế suy thoái hoặc mất ổn định thì người chịu nhiều nhất, gặp khó khăn nhất vẫn là nhóm người nghèo, và tỷ lệ người nghèo sẽ gia tăng, thậm chí đột biến vì có thể một bộ phận người giàu sẽ rơi xuống nhóm nghèo và tình trạng tái nghèo đói của bộ phận mới thoát khỏi đói nghèo. - Tạo môi trường cơ sở cho xóa đói, giảm nghèo. Tập trung giải quyết đ ồng bộ trên cả hai phươ ng diện: chính sách kinh tế vĩ mô liên quan đến xoá đói, giảm nghèo và kiện toàn tổ chức thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ trung ương tới huyện xã. Các chính sách về đ ất đai, tín dụng, chuyển giao công nghệ, dịch vụ y tế, giáo dục, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng v.v. phải hướng vào ngườ i nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo vươ n lên tự khẳng đ ịnh mình, hoà nhập với cuộc sống đi lên của cộng đ ồng, xã hội hoá công tác xoá đói, giảm nghèo. Để tăng cườ ng và nâng cao hiệu quả hỗ trợ các vùng nghèo, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ươ ng Đảng (khoá VIII) chỉ rõ: “ N hà nước có kế hoạch hỗ trợ thiết thực cho các vùng nghèo, đặc biệt là 1.300 xã nghèo, chủ yếu là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu và đ ào tạo, b ồi dưỡng nguồn nhân lực. Nhà nước và xã hội tăng cường trợ giúp vốn, kiến thức làm ăn cho các hộ nghèo, nhất là ở nông thôn, vùng núi, hải đảo… Nghiên cứu chính sách học tập và chữa bệnh đối với các hộ nghèo. Bổ sung chính sách đ ối vớ i các nạn nhân chiến tranh Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quỹ của các chương trình quốc gia. Giao Hội đồng nhân dân tỉnh quyết đ ịnh việc sử dụng và tổ chức kiểm tra việc thực hiện các quỹ này trên đ ịa bàn; các ngành trung ương chủ yếu làm chức năng hướng dẫn thanh tra”. 4. Chống tham nhũng và buôn lậu Tình trạng tham nhũng và buôn lậu đ ang phát triển ở nước ta dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Nạn tham nhũng không chỉ hoàn hành ở các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, ở các ngành, các cấp mà còn len lỏi vào các cơ q uan quản lý hành chính và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật. Tham nhũng và buôn lậu là các hành động ảnh hưởng tiêu cực rất lớn tới công bằng xã hội, góp phần tăng nhanh sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Nhiều người đã giàu lên nhanh chóng nhờ tham nhũng. Sự giàu lên của họ gắn liền với hiện tượ ng ngân sách nhà nước bị thất thoát, khả năng tài trợ cho các dịch vụ giáo dục, y tế giảm sút v.v.. Tham nhũng và buôn lậu đánh thẳng vào pháp luật, xói mòn kỷ cươ ng, lung lay phép nước… Tham nhũng và buôn lậu cũng hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế. Buôn lậu, trốn thuế làm cho hàng hoá sản xuất trong nước không cạnh tranh được phải thu hẹp sản xuất, nhiều ngành sản xuất non trẻ b ị thui chột. Tham nhũng làm thất thoát vốn đầu tư phát triển của nhà nước và làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào Việt Nam. 19
- Về hình thức bên ngoài, tham nhũng và buôn lậu nước ta bùng nổ trong quá trình đổi mới kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài. Nhiều ngườ i cho đó là mặt trái của kinh tế thị trường, là biểu hiện đối đầu, mâu thuẫn giữa tăng trưở ng kinh tế và công bằng xã hội. Nếu không có biện pháp kiên quyết hạn chế tham nhũng và buôn lậu sẽ tạo ra những căng thẳng xã hội. N ếu không ngăn chặn được hàng nhập lậu thì không những mọi chính sách đòn b ẩy về kinh tế sẽ bị vô hiệu hoá mà còn làm cho lòng tin của nhân dân ngày càng giảm sút đ ối với công tác quản lý nhà nước. 5. Xây dựng k ết cấu hạ tầ ng nông thôn Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ngày càng được chú tr ọng ở nhiều a. nước và đã trở thành một bộ phận quan tr ọng trong chiến lược phát triển quốc gia. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn là một đ iều kiện quan tr ọng để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đối vớ i nước ta, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn là tiền đ ề quan tr ọng để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn và cả nước, nhanh chóng đưa đ ất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, nâng cao đời sống của đại đa số dân sống ở nông thôn, nhất là những ngườ i nghèo, và vì vậy, góp phần ổn định chính trị và giải quyết vấn đ ề công bằng xã hội, đ ưa nông thôn lên cuộc sống mới phồn vinh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn sẽ có tác dụng lớ n là lâu dài sau đ ây: Một là, dân cư nông thôn được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước. Hai là, tạo điều kiện để nông dân và dân cư nông thôn nói chung được tham gia đóng góp tích cực vào quá trình phát triển chung của đất nước; kinh tế nông nghiệp nông thôn p hát triển, từ đó đảm bảo an ninh lươ ng thực cho đất nước, cung cấp nguyên liệu p hong p hú và đa dạng cho công nghiệp, là thị trường tiêu thụ rộng lớ n hàng hoá công nghiệp. Kết cấu hạ tầng nông thôn phát triển sẽ làm tăng mức sống và thu nhập của dân cư nông thôn, đem lại sự công bằng xã hội và tránh đ ược làn sóng người tràn về các đô thị sinh sống gây khó khăn cho nhà nước về kinh tế – xã hội và quốc phòng. 5.2. Thực trạng kết cấu hạ tầng nông thôn nước ta hiện nay. Tính đến cuối năm 1995 cả nước đã có 92,8% xã có đường giao thông tớ i trung tâm xã, 60% xã có điện thắp sáng, nhiều xã có đã có liên lạc điện thoại nối mạng quốc gia, 98% xã có trườ ng cấp một, 76% xã có trường cấp hai, 76% xã có lớp mẫu giáo, 36% xã có nhà trẻ, 91% xã có trạm y tế. Tuy nhiên, nhìn chung kết cấu hạ tầng ở nông thôn nước ta còn trong tình trạng thấp kém và lạc hậu, chất lượng các công trình giao thông, thu ỷ lợi, y tế, giáo dục, nước sinh hoạt, hệ thống cấp điện chưa đạt yêu cầu tối thiểu, đ ặc biệt ở những vùng miền núi xa xôi hẻo lánh và vùng đồng bằng sông Cửu Long, các công trình p hần lớn mới ở dạng thô, những công trình đã cũ hoặc làm mới không được bảo dưỡng đ ã xuống cấp. Việc quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng yếu kém. Về đ ường giao thông, cả nước hiện có 150.100 km đường bộ, trong đó có 31.200 km đ ường huyện, 91.200 km đường xã ôtô có thể đi được và 35.700 km đường sông. Trong 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ươ ng, mớ i chỉ có 20 tỉnh, thành phố có đường ôtô tới 100% xã. Bình quân mật đ ộ đ ường giao thông nước ta mới đạt 1,3 km trên 1.000 người dân. Đó là mức thấp so với Thái Lan, Malaixia và Philippin (khoảng 3km/1.000 ngườ i dân). Đến nay, cả nước hiện còn 607 xã chưa có đường giao thông tới trung tâm xã vớ i tổng chiều dài 9.000 km. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững nền kinh tế của Việt Nam
27 p | 4462 | 995
-
Tiểu luận: Tăng trưởng kinh tế với vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay
30 p | 1545 | 428
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng
17 p | 299 | 59
-
Bài tiểu luận: Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế hay không? Để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước thường sử dụng các biện pháp nào? Ở Việt Nam hiện nay có lạm phát không? Nếu có thì chính phủ Việt Nam sử dụng những biện pháp nào?
34 p | 303 | 53
-
Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
23 p | 267 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ nhân quả giữa sản lượng điện tiêu thụ và tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN
100 p | 60 | 35
-
Tiểu luận Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
27 p | 165 | 24
-
Luận văn thạc sĩ Kinh tế: Tác động của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh
93 p | 65 | 19
-
Tiểu luận: Tóm lược một số lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
14 p | 125 | 16
-
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
34 p | 119 | 15
-
Luận án tiến sĩ Kinh tế: Chi tiêu công, quản trị công và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển
206 p | 88 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế ở sáu nước ASEAN
85 p | 38 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại một số nước Đông Nam Á
74 p | 44 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế, nghiên cứu trường hợp tỉnh Sóc Trăng
79 p | 37 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế phát triển: Tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông
114 p | 11 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tác động của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế của các địa phương tại Việt Nam
28 p | 5 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Thống kê kinh tế: Phân tích tác động của chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đến tăng trưởng kinh tế tỉnh Quảng Ngãi
129 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn